Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

26. Phẩm "Phương Tiện Thiện Xảo"

24/10/202010:15(Xem: 7114)
26. Phẩm "Phương Tiện Thiện Xảo"

 TỔNG LUẬN
 KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***
buddha-465

 

PHẨM "PHƯƠNG TIỆN THIỆN XẢO"

Bắt đầu Q.523 cho đến hết Q.526, Hội thứ III, ĐBN.

(Tương đương với nhiều phẩm của phần sau Q.458

cho đến Q.464, Hội thứ II, ĐBN)

 

Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh, Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước, Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le

 

 

 

 

Gợi ý:

Riêng phẩm “Phương Tiện Thiện Xảo”của Hội thứ III này là tổng hợp sáu phẩm của Hội thứ II nhập lại: 1. Phẩm “Vô Tận”, 2. “Tương Nhiếp”, 3. “Phương Tiện Thiện Xảo”, 4. “Thọ Dụ”, 5. “Bồ Tát Hạnh” và 6. Phẩm “Thân Cận”. Để dễ đọc tụng và thâm hiểu, nên chúng tôi cũng chia phẩm lớn “Phương Tiện Thiện Xảo” này làm sáu đoạn, tương ứng với sáu phẩm kể trên.

Nhân đây cũng xin lưu ý cùng độc giả: Khi tóm lược Kinh chúng tôi thường chia Kinh thành nhiều đoạn và tự đặt tên cho mỗi đoạn (thường trong dấu ngoặc ghi đậm nét) để phân biệt nội dung giáo lý của đoạn này với giáo lý thuộc các đoạn khác. Kinh không có phân chia, chỉ có người chiết giải tự phân chia. Sự phân chia các đoạn chỉ lợi ích khi diễn đạt được nội dung tổng quát các giáo lý trong đoạn đó, giống như công việc của thái tử Chiêu Minh chia kim Kim Cương Bát nhã Ba la mật ra thành nhiều đoạn mà chúng ta sẽ có dịp đọc tụng quyển thứ 577, ĐBN này.

Mục đích của công việc phân chia và đặt tên là cốt giúp độc giả nắm vững giáo lý dễ dàng hơn. Tuy nhiên, bất cứ sự trình bày nào cũng đều là thức, có thức tham dự là có phân biệt, có động niệm tranh cãi. Vì vậy, xin quý vị đừng quá chú trọng về hình thức, chỉ nên xem đây như những phương tiện trợ đạo giúp ích trong việc trì tụng Kinh điển mà thôi.

 

Tóm lược:

 

1. (Đoạn Kinh sau đây tương đương với phẩm “Vô Tận”,

phần sau quyển 458, Hội thứ II, ĐBN)

 

Bấy giờ, Thiện Hiện suy nghĩ:

- Như vậy, Bát Nhã Ba la mật như thế rất là sâu thẳm, quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật cũng sâu thẳm. Ta sẽ hỏi Phật hai nghĩa sâu thẳm này.

Nghĩ vậy xong, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thậm thâm tức là quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật. Quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật tức là Bát Nhã thậm thâm. Như vậy, Bát Nhã và quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật đều rất thậm thâm không cùng tận. Vậy, duyên nào nói hai đây là vô tận?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Bát Nhã thậm thâm và quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật đều như hư không, không cùng tận nên nói là vô tận. (Q.523, ĐBN)

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát phải làm thế nào lấy Bát nhã Ba la mật để dẫn phát?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát nên quán sắc vô tận lấy Bát nhã Ba la mật để dẫn phát, nên quán thọ, tưởng, hành, thức vô tận lấy Bát nhã Ba la mật để dẫn phát. Nói rộng cho đến phải quán Nhất thiết trí trí vô tận lấy Bát nhã Ba la mật để dẫn phát.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát nên quán sắc như hư không vô tận lấy Bát nhã Ba la mật để dẫn phát, nên quán thọ, tưởng, hành, thức như hư không vô tận lấy Bát nhã Ba la mật để dẫn phát. Nói rộng cho đến nên quán Nhất thiết trí trí như hư không vô tận lấy Bát nhã Ba la mật để dẫn phát. 

Lại nữa, này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát nên quán vô minh duyên hành như hư không vô tận lấy Bát nhã Ba la mật để dẫn phát. Nên quán hành duyên thức như hư không vô tận lấy Bát nhã Ba la mật để dẫn phát. Nên quán thức duyên danh sắc như hư không vô tận lấy Bát nhã Ba la mật để dẫn phát. Nên quán danh sắc duyên lục xứ, nên quán lục xứ duyên xúc, nên quán xúc duyên thọ, nên quán thọ duyên ái, nên quán ái duyên thủ, nên quán thủ duyên hữu, nên quán hữu duyên sanh, nên quán sanh duyên lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não như hư không vô tận lấy Bát nhã Ba la mật để dẫn phát. (Q.523, ĐBN)

Thiện Hiện nên biết! Các đại Bồ Tát lấy Bát nhã Ba la mật để dẫn phát như vậy.

Thiện Hiện nên biết! Các đại Bồ Tát quán sát mười hai duyên khởi xa lìa nhị biên, đó là diệu quán bất cộng của chúng đại Bồ Tát ấy.

Thiện Hiện nên biết! Các đại Bồ Tát ngồi tòa kim cương dưới cội Bồ đề, như thật quán sát mười hai duyên khởi giống như hư không, không cùng tận nên liền chứng đắc Nhất thiết trí trí.

Thiện Hiện nên biết! Nếu đại Bồ Tát lấy hành tướng như hư không vô tận mà hành Bát Nhã thậm thâm, như thật quán sát mười hai duyên khởi thì vị ấy không rơi vào địa vị Thanh văn, Độc giác và mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Thiện Hiện nên biết! Thiện nam thiện nữ trụ Bồ Tát thừa, nếu đối Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề mà bị thối chuyển, đều do chẳng khéo lấy Bát nhã Ba la mật để dẫn phát. Do người ấy chẳng hiểu vì sao đại Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật năng đem hành trụ vô tận như hư không nương Bát nhã Ba la mật để dẫn phát như thật quán sát mười hai duyên khởi.

Thiện Hiện! Các thiện nam thiện nữ Bồ Tát thừa, nếu đối Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề mà có thối chuyển đều là do xa lìa phương tiện khéo léo của Bát nhã Ba la mật để dẫn phát. Nếu đại Bồ Tát năng đối Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề được bất thối chuyển, là do lấy phương tiện khéo léo này, đại Bồ Tát nhờ nương phương tiện khéo léo như thế tu hành Bát Nhã, đem hành trụ vô tận như hư không lấy Bát nhã Ba la mật để dẫn phát, như thật quán sát mười hai duyên khởi, đại Bồ Tát này do nhân duyên đây mau được viên mãn Bát Nhã thậm thâm.

Thiện Hiện phải biết: Các đại Bồ Tát khi quán sát pháp duyên khởi như thế chẳng thấy có pháp không nhân mà sanh, chẳng thấy có pháp không nhân mà diệt, chẳng thấy có pháp tánh tướng thường trụ, chẳng sanh chẳng diệt. Chẳng thấy pháp có ngã, hữu tình, nóí rộng cho đến tri giả, kiến giả. Chẳng thấy có pháp hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Thiện Hiện phải biết: Các đại Bồ Tát thường nên quán sát duyên khởi như thế tu hành Bát nhã Ba la mật.

Thiện Hiện nên biết! Các đại Bồ Tát luôn quán sát duyên khởi như vậy để tu hành Bát nhã Ba la mật.

Thiện Hiện nên biết! Có lúc đại Bồ Tát như thật quán sát pháp môn duyên khởi để tu hành Bát nhã Ba la mật. Khi ấy, đại Bồ Tát chẳng thấy sắc uẩn cho đến thức uẩn là thường hay vô thường, là vui hay khổ, ngã hay vô ngã, tịnh hay bất tịnh, tịch tĩnh hay không tịch tĩnh, viễn ly hay không viễn ly. Nói rộng cho đến chẳng thấy Nhất thiết trí trí là thường hay vô thường, là vui hay khổ, ngã hay vô ngã, tịnh hay bất tịnh, tịch tĩnh hay không tịch tĩnh, viễn ly hay không viễn ly.

Thiện Hiện! Đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã thẳm sâu như thế, khi ấy đại Bồ Tát tuy hành Bát Nhã mà chẳng thấy có sở hành, cũng chẳng thấy có pháp năng thấy sở hành, cũng chẳng thấy có “cái thấy” như thế. Tuy hành tĩnh lự, tinh tiến, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật mà chẳng thấy có sở hành tĩnh lự cho đến bố thí Ba la mật, cũng lại chẳng thấy có pháp năng thấy sở hành tĩnh lự cho đến bố thí Ba la mật. Cũng chẳng thấy có “cái thấy” như thế. Nói rộng cho đến mặc dù tu Nhất thiết trí trí, nhưng chẳng thấy có sở hành Nhất thiết trí trí; cũng chẳng thấy có pháp năng hành Nhất thiết trí trí, Cũng chẳng thấy có “cái thấy” như thế.

Thiện Hiện nên biết! Đối với tất cả pháp, các đại Bồ Tát lấy vô sở đắc để làm phương tiện mà hành Bát nhã Ba la mật. Đại Bồ Tát nào lấy vô sở đắc làm phương tiện để tu hành Bát Nhã thì ác ma rất buồn rầu, phiền não, oán hận, đau khổ như bị tên bắn vào tim. Giống như có người có cha mẹ mới chết thì thân tâm đau đớn, ác ma cũng vậy. (Q.523, ĐBN)

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Một ác ma thấy các đại Bồ Tát đối với tất cả pháp lấy vô sở đắc làm phương tiện để tu hành Bát nhã Ba la mật thì rất đau khổ, giống như trúng mũi tên độc, tất cả ác ma khắp Tam thiên đại thiên thế giới cũng như vậy chăng?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Tất cả ác ma khắp cả Tam thiên đại thiên thế giới cũng như vậy. Tất cả ác ma ngồi không yên nơi chỗ của mình.

Thiện Hiện nên biết! Các đại Bồ Tát thường phải an trụ hạnh trụ chơn tịnh Bát Nhã thậm thâm. Các đại Bồ Tát thường an trụ vào hạnh trụ chơn tịnh Bát Nhã thậm thâm, nếu có thế gian, trời, người, A tu la v.v... rình tìm chỗ dở của các vị ấy thì không bao giờ được, cũng không thể nào quấy nhiễu làm chướng ngại được.

Cho nên, này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát muốn đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thì phải siêng năng tinh tấn an trụ vào hạnh trụ chơn tịnh Bát Nhã thậm thâm.

Thiện Hiện nên biết! Nếu đại Bồ Tát trụ đúng đắn vào hạnh trụ chơn tịnh Bát Nhã thậm thâm, thì có thể tu hành viên mãn bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật. Nếu đại Bồ Tát tu hành đúng đắn Bát Nhã thậm thâm thì liền có thể tu viên mãn đầy đủ tất cả Ba la mật.

Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát tu hành đúng đắn Bát Nhã thậm thâm như thế nào thì có thể tu viên mãn bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã thậm thâm không điên đảo, đem tâm tương ưng với Nhất thiết trí trí mà hành bố thí cho đến Bát Nhã, đem công đức này ban cho tất cả hữu tình cùng nhau hồi hướng Nhất thiết trí trí.

Thiện Hiện nên biết! Các đại Bồ Tát tu hành đúng đắn Bát Nhã thậm thâm thì có thể tu viên mãn bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật. (Q.523, ĐBN)

 

2. (Đoạn Kinh sau đây tương đương với phẩm “Tương nhiếp”,

trọn quyển 459, Hội thứ II, ĐBN)

 

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Làm thế nào mà đại Bồ Tát an trụ vào bố thí Ba la mật nhiếp lấy tịnh giới cho đến Bát nhã Ba la mật?

Phật dạy:

- Đại Bồ Tát lấy tâm không ái nhiễm, không xan tham để hành bố thí, đem bố thí này ban cho các hữu tình cùng nhau hồi hướng đến Nhất thiết trí trí. Đối với các hữu tình thì có lòng từ nơi thân nghiệp, ngữ nghiệp, ý nghiệp và lìa bỏ ác giới. Đó là đại Bồ Tát an trụ bố thí Ba la mật nhiếp lấy tịnh giới Ba la mật. Khi đại Bồ Tát lấy tâm không ái nhiễm, không xan tham để hành bố thí, đem bố thí này ban cho các hữu tình cùng nhau hồi hướng đến Nhất thiết trí trí, nếu bị người nhận bố thí hoặc các hữu tình khác hủy báng, nhục mạ làm hại một cách phi lý, thì Bồ Tát không sanh tâm sân hận, không muốn báo thù làm hại họ bằng thân, khẩu, chỉ sanh lòng từ bi thương xót họ, đem lời hòa nhã mà nói với họ. Đó là đại Bồ Tát an trụ vào bố thí Ba la mật nhiếp lấy an nhẫn Ba la mật. (Q.523, ĐBN)

Nếu đại Bồ Tát đem tâm không ái nhiễm, không xan tham hành bố thí, đem bố thí này ban cho các hữu tình cùng nhau hồi hướng Nhất thiết trí trí. Nếu bị người nhận hoặc các hữu tình khác hủy báng, nhục mạ một cách phi lý thì bấy giờ Bồ Tát liền nghĩ: Mọi người tạo ra những loại nghiệp như vậy, trở lại tự mình nhận lấy quả báo. Ta không nên tính toán, hơn thua với họ, để rồi hủy bỏ sự tu sửa nghiệp của mình. Lại nghĩ: Đối với người ấy và các hữu tình khác ta nên tăng trưởng tâm xả, tâm bố thí, không luyến tiếc. Nghĩ vậy xong thân tâm thanh tịnh, tinh tấn thực hành bố thí. Đó là đại Bồ Tát an trụ bố thí Ba la mật gồm cả tinh tấn Ba la mật.

Nếu đại Bồ Tát lấy tâm không ái nhiễm, không xan tham để hành bố thí, đem bố thí này bình đẳng cho các hữu tình cùng nhau hồi hướng Nhất thiết trí trí. Đối với những người thọ nhận và cảnh giới khác tâm không tạp loạn, không cầu ham muốn ở ba cõi và Nhị thừa, chỉ cầu quả vị Phật. Đó là đại Bồ Tát an trụ bố thí Ba la mật nhiếp lấy tịnh lự Ba la mật.

Nếu đại Bồ Tát lấy tâm không ái nhiễm, không xan tham để hành bố thí, đem bố thí này cho các hữu tình cùng nhau hồi hướng Nhất thiết trí trí. Quán kẻ thọ nhận, kẻ bố thí, vật bố thí đều như huyễn. Không thấy sự bố thí này có tổn giảm hay lợi ích đối với các hữu tình, thông đạt tất cả pháp hoàn toàn đều không, bất khả đắc. Đó là đại Bồ Tát an trụ vào bố thí Ba la mật nhiếp lấy Bát nhã Ba la mật. (Q.523, ĐBN)

 

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Làm thế nào đại Bồ Tát an trụ vào tịnh giới Ba la mật nhiếp lấy bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát an trụ vào tịnh giới Ba la mật thân đầy đủ luật nghi, ngữ đầy đủ luật nghi, ý đầy đủ luật nghi mà tạo các phước nghiệp. Nhờ phước nghiệp này lìa việc sát sanh cho đến tà kiến. Không mong cầu địa vị Thanh văn, Độc giác, chỉ cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Bấy giờ, Bồ Tát an trụ vào tịnh giới để thực hành rộng rãi tuệ thí, các hữu tình cần thức ăn cho thức ăn, cần thức uống cho thức uống, cần đồ đạc gì cho đồ đạc đó. Lại đem căn lành bố thí này bình đẳng ban cho các hữu tình, cùng nhau hồi hướng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, không cầu địa vị Thanh văn, Độc giác. Đó là đại Bồ Tát an trụ vào tịnh giới Ba la mật nhiếp lấy bố thí Ba la mật.

Nếu đại Bồ Tát an trụ vào tịnh giới Ba la mật, giả sử các hữu tình tranh nhau đến cắt xẻ thân Bồ Tát ra từng khúc rồi mang đi. Bồ Tát không sanh một niệm sân hận nào đối với người đó, chỉ nghĩ: Nay ta đạt được lợi ích lớn, nghĩa là đã xả bỏ thân hôi thối, mong manh này mà được thân kim cương thanh tịnh của Phật. Đó là đại Bồ Tát an trụ vào tịnh giới Ba la mật nhiếp lấy an nhẫn Ba la mật.

Nếu đại Bồ Tát an trụ vào tịnh giới Ba la mật, thân tâm tinh tấn thường không gián đoạn, mặc giáp đại bi, phát lời thề rộng lớn: “Tất cả hữu tình bị chìm đắm trôi lăn trong biển khổ, con sẽ cứu vớt họ đưa đến bờ Niết bàn cam lồ”. Đó là đại Bồ Tát an trụ vào tịnh giới Ba la mật nhiếp lấy tinh tấn Ba la mật.

Nếu đại Bồ Tát an trụ vào tịnh giới Ba la mật, mặc dù nhập vào sơ tịnh lự cho đến Diệt thọ tưởng định (còn gọi là Diệt tận định)(1), nhưng không rơi vào địa vị Thanh văn, Độc giác, cũng không chứng thật tế, nhờ nguyện lực xưa mà được tồn tại. Lại nghĩ như vầy: Các loài hữu tình bị chìm đắm trong biển khổ, tự mình không thể thoát ra được. Nay ta đã trụ vào giới thanh tịnh, dùng phương tiện để phát sanh thần thông tịnh lự, nhất định sẽ cứu vớt chúng sanh đặt lên bờ Niết bàn thường lạc. Đó là đại Bồ Tát an trụ vào tịnh giới Ba la mật nhiếp lấy tịnh lự Ba la mật.

Nếu đại Bồ Tát an trụ vào tịnh giới Ba la mật, không thấy pháp nào là hữu vi hay vô vi, hoặc thuộc hữu tướng hay vô tướng, hoặc thuộc hữu số hay vô số. Chỉ quán các pháp không lìa chơn như nói rộng cho đến cảnh giới bất tư nghì. Nhưng chơn như, pháp giới, pháp tánh v.v… này cũng bất khả đắc. Nhờ phương tiện thiện xảo của Bát nhã Ba la mật này mà vị ấy không rơi vào địa vị Thanh văn, Độc giác, chỉ hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Đó là đại Bồ Tát an trụ vào tịnh giới Ba la mật nhiếp lấy Bát nhã Ba la mật.

 

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Làm thế nào mà đại Bồ Tát an trụ vào an nhẫn Ba la mật nhiếp lấy bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! đại Bồ Tát an trụ vào an nhẫn Ba la mật, từ lúc mới phát tâm cho đến khi ngồi tòa Bồ đề. Trong thời gian ấy nếu có các loài hữu tình đến hủy báng, khinh khi, nhục mạ một cách phi lý, cho đến cắt xẻ thân ra từng khúc mang đi. Khi ấy, Bồ Tát hoàn toàn không sân giận, chỉ nghĩ: Các loài hữu tình này rất đáng thương, bị phiền não độc hại quấy loạn thân tâm, không được tự do, không chỗ nương tựa, không người cứu giúp, bị bần cùng nghèo khổ hành hạ. Ta hãy bố thí cho họ những vật cần dùng như thức ăn, nước uống, áo quần và các thứ đồ dùng khác. Sau đó, đem căn lành của sự bố thí này bình đẳng ban cho các hữu tình cùng nhau hồi hướng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Lấy vô sở đắc làm phương tiện. Khi hồi hướng đại Bồ đề như vậy phải xa lìa ba tâm, đó là ai hồi hướng, hồi hướng về đâu, lấy gì hồi hướng? Đó là Bồ Tát an trụ vào an nhẫn Ba la mật nhiếp lấy bố thí Ba la mật.

Nếu đại Bồ Tát an trụ vào an nhẫn Ba la mật từ lúc mới phát tâm cho đến ngồi tòa Bồ đề, trong thời gian ấy, cho đến vì tự cứu mạng sống thì không nên làm tổn hại đến các hữu tình. Cho đến không có các ác kiến tà kiến. Khi Bồ Tát tu tịnh giới như vậy, không cầu địa vị Thanh văn, Độc giác. Lại đem căn lành tịnh giới ấy, bình đẳng ban cho các hữu tình cùng nhau hồi hướng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, lấy vô sở đắc làm phương tiện. Khi hồi hướng đại Bồ đề như vậy phải xa lìa ba tâm, đó là ai hồi hướng, hồi hướng về đâu, lấy gì hồi hướng? Đó là Bồ Tát an trụ vào an nhẫn Ba la mật nhiếp lấy tịnh giới Ba la mật.

Nếu đại Bồ Tát an trụ vào an nhẫn Ba la mật phát sanh dõng mãnh, tinh tấn tăng trưởng, thường nghĩ: Nếu một hữu tình ở ngoài một do tuần, ngoài mười, một trăm cho đến vô lượng do tuần, hoặc ở ngoài một thế giới, hoặc ngoài mười, một trăm cho đến vô lượng thế giới có thể độ được, ta nhất định sẽ đến dùng phương tiện giáo hóa để họ thọ trì tám học xứ, hoặc năm học xứ, hoặc mười học xứ, hoặc cụ túc học giới, hoặc khiến họ trụ vào quả Dự lưu, quả Nhất lai, quả Bất hoàn, quả A la hán, hoặc trụ vào Độc giác Bồ đề, hoặc khiến họ trụ vào địa vị Bồ Tát cho đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề ta còn chẳng mỏi mệt, huống chi giáo hóa cho vô lượng, vô số, vô biên hữu tình đều đạt được lợi ích an lạc mà lại mỏi mệt. Lại đem căn lành tinh tấn bình đẳng ban cho các hữu tình và cùng nhau hồi hướng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, lấy vô sở đắc làm phương tiện. Khi hồi hướng đại Bồ đề như vậy phải xa lìa ba tâm, đó là ai hồi hướng, hồi hướng về đâu, lấy gì hồi hướng? Đó là Bồ Tát an trụ vào an nhẫn Ba la mật nhiếp lấy tinh tấn Ba la mật.

Nếu đại Bồ Tát an trụ vào an nhẫn Ba la mật tâm chẳng loạn tạp, lìa bỏ pháp dục, ác, bất thiện, có tầm, có tứ, ly sanh hỷ lạc, nhập vào sơ tịnh lự, nói rộng cho đến Diệt thọ tưởng định. Trong các định này phát sanh tâm và tâm sở đều hòa hợp với tất cả căn lành, lại bình đẳng ban cho các hữu tình cùng nhau hồi hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, lấy vô sở đắc làm phương tiện. Khi hồi hướng đại Bồ đề như vậy phải xa lìa ba tâm, đó là ai hồi hướng, hồi hướng về đâu, lấy gì hồi hướng? Đối với các tịnh lự và chi tịnh lự hoàn toàn vô sở đắc. Đó là đại Bồ Tát an trụ vào an nhẫn Ba la mật nhiếp lấy tịnh lự Ba la mật.

Nếu đại Bồ Tát an trụ vào an nhẫn Ba la mật để tu hành Bát nhã Ba la mật, trụ trong các pháp để lần lượt quán khắp các pháp, tuy dùng hành tướng viễn ly, hoặc hành tướng vắng lặng, hoặc hành tướng vô tận, hoặc đem hành tướng dứt diệt quán tất cả pháp, mà đối vắng lặng chẳng được tác chứng, cho đến ngồi tòa Bồ đề, chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, ra khỏi tòa quay xe diệu pháp lợi vui hữu tình. Lại đem căn lành diệu huệ như thế dùng vô sở đắc mà làm phương tiện, cùng các hữu tình đồng chung hồi hướng Nhất thiết trí trí. Lúc hồi hướng vị ấy phải xa lìa ba tâm, đó là ai hồi hướng, hồi hướng về đâu, lấy gì hồi hướng? Thiện Hiện! Đó là đại Bồ Tát an trụ an nhẫn Ba la mật nhiếp lấy Bát nhã Ba la mật.

 

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Làm thế nào đại Bồ Tát an trụ vào tinh tấn Ba la mật nhiếp lấy bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát an trụ vào tinh tấn Ba la mật, thân tâm không giải đãi, tinh tấn cầu các pháp lành cũng không mỏi mệt, luôn nghĩ: Ta nhất định sẽ đắc Nhất thiết trí trí. Đại Bồ Tát ấy vì muốn làm lợi ích cho tất cả hữu tình nên phát nguyện: “Nếu có một hữu tình ở ngoài một do tuần, hoặc mười, một trăm cho đến vô lượng do tuần, hoặc ở ngoài một thế giới, hoặc ngoài mười, một trăm cho đến vô lượng các thế giới. Người nào đáng độ, ta nhất định đến đó dùng phương tiện giáo hóa. Nếu thiện nam thiện nữ Bồ Tát thừa thì khiến vị ấy trụ vào quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Nếu là thiện nam thiện nữ Thanh văn thừa thì khiến họ trụ vào quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán. Nếu thiện nam thiện nữ Độc giác thừa thì khiến vị ấy an trụ Độc giác Bồ đề. Nếu các hữu tình khác thì khiến họ an trụ vào mười thiện nghiệp đạo. Như vậy, ta đều lấy đầy đủ pháp thí, tài thí mà phương tiện làm cho họ được sung túc đầy đủ. Lại đem căn lành bố thí này bình đẳng ban cho các hữu tình, cùng nhau hồi hướng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, không cầu địa vị Thanh văn, Độc giác, lấy vô sở đắc làm phương tiện. Khi hồi hướng đại Bồ đề như vậy phải xa lìa ba tâm, đó là ai hồi hướng, hồi hướng về đâu, lấy gì hồi hướng? Đó là đại Bồ Tát an trụ vào tinh tấn Ba la mật nhiếp lấy bố thí Ba la mật.

Nếu đại Bồ Tát an trụ vào tinh tấn Ba la mật từ lúc mới phát tâm cho đến khi ngồi tòa Bồ đề, tự lìa sát sanh cho đến tà kiến, cũng khuyến khích người lìa bỏ sát sanh cho đến tà kiến, tùy thuận và khen ngợi sự từ bỏ sát sanh cho đến tà kiến, vui mừng hoan hỉ với người không sát sanh cho đến tà kiến. Đại Bồ Tát ấy giữ tịnh giới Ba la mật này không cầu quả Nhị thừa và quả báo ba cõi, chỉ đem căn lành tịnh giới này bình đẳng ban cho các hữu tình, cùng nhau hồi hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, lấy vô sở đắc để làm phương tiện. Khi hồi hướng đại Bồ đề như vậy phải xa lìa ba tâm, đó là ai hồi hướng, hồi hướng về đâu, lấy gì hồi hướng? Đó là đại Bồ Tát an trụ vào tinh tấn Ba la mật nhiếp lấy tịnh giới Ba la mật.

Nếu đại Bồ Tát an trụ vào tinh tấn Ba la mật, từ khi mới phát tâm cho đến lúc ngồi tòa Bồ đề, trong thời gian ấy, người chẳng phải người v.v… tranh nhau đến xúc não, hoặc chặt thân thể ra từng khúc rồi tự tiện mang đi. Khi ấy, Bồ Tát không nghĩ: Ai đâm chém ta? Ai chặt đứt ta? Ai mang đi? Chỉ nghĩ: Nay ta được lợi ích lớn, các hữu tình đó vì làm lợi ích cho ta nên đến chặt xẻo thân thể ta ra từng phần. Nhưng ta vốn vì tất cả hữu tình mà thọ thân này. Họ đến tự lấy tất cả vật của ta là để thành tựu việc cho ta. Bồ Tát tư duy thật tướng các pháp rất kỹ như vậy để tu an nhẫn. Rồi đem căn lành thù thắng của an nhẫn này không cầu địa vị Thanh văn, Độc giác, chỉ đem căn lành an nhẫn này bình đẳng ban cho các hữu tình, cùng nhau hồi hướng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, lấy vô sở đắc để làm phương tiện. Khi hồi hướng đại Bồ đề như vậy phải xa lìa ba tâm, đó là ai hồi hướng, hồi hướng về đâu, lấy gì hồi hướng? Đó là Bồ Tát an trụ vào tinh tấn Ba la mật nhiếp lấy an nhẫn Ba la mật.

Nếu đại Bồ Tát an trụ vào tinh tấn Ba la mật, siêng năng tu học các định, nghĩa là lìa pháp dục, ác, bất thiện, có tầm, có tứ, ly sanh hỉ lạc nhập vào sơ tịnh lự, cho đến nhập vào định thứ tư. Luôn có tư tưởng ban vui cho các hữu tình vào từ vô lượng, nói rộng cho đến nhập vào xả vô lượng. Đối với các sắc luôn có tưởng nhàm chán và nhập vào Không vô biên xứ định, nói rộng cho đến nhập vào Diệt thọ tưởng định. Đại Bồ Tát ấy mặc dù nhập vào tịnh lự, vô lượng, vô sắc, diệt định như vậy nhưng không nhận lấy quả dị thục của nó. Chỉ theo hữu tình nào đáng được giáo hóa làm lợi ích thì sanh ở nơi đó. Đã sanh vào đó rồi, dùng bốn nhiếp pháp, sáu Ba la mật mà làm lợi ích cho họ. Đại Bồ Tát ấy nương vào các tịnh lự phát sanh thần thông thù thắng, đi từ cõi Phật này đến cõi Phật khác để gần gũi cúng dường chư Phật Thế Tôn, thưa hỏi tánh tướng các pháp sâu xa, siêng năng tinh tấn mà phát sanh căn lành thù thắng. Đem căn lành này lấy vô sở đắc làm phương tiện, bình đẳng ban cho các hữu tình cùng nhau hồi hướng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Khi hồi hướng đại Bồ đề như vậy phải xa lìa ba tâm, đó là ai hồi hướng, hồi hướng về đâu, lấy gì hồi hướng? Đó là đại Bồ Tát an trụ vào tinh tấn Ba la mật nhiếp lấy tịnh lự Ba la mật.

Nếu đại Bồ Tát an trụ vào tinh tấn Ba la mật, không thấy bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật là danh, sự, tánh, tướng. Không thấy bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo là danh, sự, tánh, tướng. Cho đến không thấy Nhất thiết trí trí là danh, sự, tánh, tướng. Cũng không thấy tất cả pháp là danh, sự, tánh, tướng. Trong tất cả các pháp không có niệm về tướng, không chấp trước, lời nói đi đôi với việc làm. Lại đem căn lành diệu tuệ này bình đẳng ban cho các hữu tình, cùng nhau hồi hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, lấy vô sở đắc làm phương tiện. Khi hồi hướng đại Bồ đề như vậy phải xa lìa ba tâm, đó là ai hồi hướng, hồi hướng về đâu, lấy gì hồi hướng? Đó là đại Bồ Tát an trụ vào tinh tấn Ba la mật nhiếp lấy Bát nhã Ba la mật. (Q.523, ĐBN)

 

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Làm thế nào đại Bồ Tát an trụ vào tịnh lự Ba la mật nhiếp lấy bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát an trụ vào tịnh lự Ba la mật, thực hành tài thí, pháp thí cho hữu tình, nghĩa là lìa pháp dục, ác, bất thiện, có tầm, có tứ, ly sanh hỉ lạc nhập vào sơ tịnh lự, nói rộng cho đến nhập vào Diệt thọ tưởng định. Đại Bồ Tát ấy đem tâm không tạp loạn mà giảng nói chánh pháp về sự hành tài thí, pháp thí cho các hữu tình. Đại Bồ Tát ấy tự mình hành tài thí, pháp thí, cũng thường khuyến hóa người khác thực hành tài thí, pháp thí, thường khen ngợi pháp hành tài thí, pháp thí một cách đúng đắn, luôn luôn hoan hỉ, khen ngợi người thực hành tài thí, pháp thí. Đại Bồ Tát ấy đem căn lành này không cầu địa vị Thanh văn, Độc giác, chỉ đem căn lành bố thí này bình đẳng ban cho các hữu tình cùng nhau hồi hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, lấy vô sở đắc mà làm phương tiện. Khi hồi hướng đại Bồ đề như vậy phải xa lìa ba tâm, đó là ai hồi hướng, hồi hướng về đâu, lấy gì hồi hướng? Đó là đại Bồ Tát ấy an trụ vào tịnh lự Ba la mật nhiếp lấy bố thí Ba la mật.

Nếu đại Bồ Tát an trụ vào tịnh lự Ba la mật, thọ trì tịnh giới không bao giờ có tâm tương ưng với các hành về tham, sân, si và hại. Cũng không có tâm tương ưng với các hành về xan tham, tật đố, phá giới, chỉ luôn phát sanh tác ý tương ưng với Nhất thiết trí trí. Lại đem căn lành tịnh giới này không cầu địa vị Thanh văn, Độc giác, bình đẳng ban cho các hữu tình cùng nhau hồi hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, lấy vô sở đắc mà làm phương tiện. Khi hồi hướng đại Bồ đề như vậy phải xa lìa ba tâm, đó là ai hồi hướng, hồi hướng về đâu, lấy gì hồi hướng? Đó là đại Bồ Tát an trụ vào tịnh lự Ba la mật nhiếp lấy tịnh giới Ba la mật.

Nếu đại Bồ Tát an trụ vào tịnh lự Ba la mật tu hành an nhẫn, quán sắc như đống bọt, quán thọ như bong bóng, quán tưởng như sóng nắng, quán hành như cây chuối, quán thức như việc huyễn hóa. Khi quán như vậy, đối với năm thủ uẩn luôn hiện quán về tưởng không bền chắc. Lại nghĩ: Các pháp đều Không, lìa ngã và ngã sở, sắc là sắc của ai? Thọ là thọ của ai? Tưởng là tưởng của ai? Hành là hành của ai? Thức là thức của ai? Khi quán như vậy, lại nghĩ: Các pháp đều Không, không có ngã và ngã sở, thì ai cắt chặt? Ai bị cắt chặt? Ai hủy nhục? Ai bị hủy nhục? Ở trong đó ai nổi sân hận? Bồ Tát nương vào tịnh lự như vậy, khi quán sát thật kỹ thì được an nhẫn hoàn toàn. Lại đem căn lành an nhẫn này bình đẳng ban cho các hữu tình, cùng nhau hồi hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, lấy vô sở đắc mà làm phương tiện. Khi hồi hướng đại Bồ đề như vậy phải xa lìa ba tâm, đó là ai hồi hướng, hồi hướng về đâu, lấy gì hồi hướng? Đó là đại Bồ Tát an trụ vào tịnh lự Ba la mật nhiếp lấy an nhẫn Ba la mật.

Nếu đại Bồ Tát an trụ vào tịnh lự Ba la mật siêng năng tinh tấn, lìa pháp dục, ác, bất thiện, có tầm, có tứ, ly sanh hỷ lạc nhập vào sơ tịnh lự, nói rộng cho đến nhập vào thiền thứ tư. Khi Bồ Tát tu tịnh lự như vậy đối với các tịnh lự và chi tịnh lự đều không chấp tướng. Phát sanh những Thần cảnh trí thông, có thể làm vô biên việc biến hóa lớn. Hoặc phát sanh Thiên nhĩ trí thông, sáng suốt thanh tịnh siêu nhân, có thể như thật nghe tất cả âm thanh các loài hữu tình trong mười phương thế giới. Hoặc phát sanh Tha tâm trí thông, có thể như thật biết tâm và tâm sở các hữu tình trong mười phương thế giới. Hoặc phát sanh Túc trụ trí thông, như thật nhớ biết các việc đời trước của hữu tình trong mười phương thế giới. Hoặc phát sanh Thiên nhãn trí thông, sáng suốt thanh tịnh siêu nhân, có thể như thật thấy biết sắc tướng cho đến nghiệp quả của hữu tình, vô tình trong mười phương thế giới. Đại Bồ Tát ấy an trụ vào năm thần thông thanh tịnh này thì có thể từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, gần gũi cúng dường chư Phật Thế Tôn, thưa hỏi pháp nghĩa sâu xa của Như Lai, gieo trồng vô lượng căn lành chơn chánh thanh tịnh, thành thục hữu tình, trang nghiêm cõi Phật, siêng năng tu thắng hạnh của Bồ Tát. Đem căn lành này không cầu quả ba cõi và Nhị thừa, bình đẳng ban cho các hữu tình cùng nhau hồi hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, lấy vô sở đắc làm phương tiện. Khi hồi hướng đại Bồ đề như vậy phải xa lìa ba tâm, đó là ai hồi hướng, hồi hướng về đâu, lấy gì hồi hướng? Đó là đại Bồ Tát an trụ vào tịnh lự Ba la mật nhiếp lấy tinh tấn Ba la mật.

Nếu đại Bồ Tát an trụ vào tịnh lự Ba la mật quán sắc uẩn cho đến thức uẩn bất khả đắc. Nói rộng, cho đến quán Nhất thiết trí trí cũng bất khả đắc. Quán cảnh giới hữu vi bất khả đắc, quán cảnh giới vô vi cũng bất khả đắc. Như vậy, Bồ Tát quán tất cả pháp bất khả đắc nên không tạo tác. Vì không tạo tác nên không sanh, không diệt. Vì không sanh, không diệt nên không thủ, không xả. Vì không thủ, không xả nên hoàn toàn thanh tịnh, thường trụ không biến đổi. Vì sao? Vì tất cả pháp chư Phật có ra đời hay không ra đời đều an trụ vào pháp tánh, pháp giới, pháp trụ, không sanh, không diệt, thường không biến đổi. Đại Bồ Tát ấy tâm không bao giờ tán loạn, luôn luôn an trụ vào tác ý tương ưng với Nhất thiết trí trí, như thật quán sát thấy tánh tất cả pháp hoàn toàn vô sở hữu. Lại đem căn lành diệu tuệ này bình đẳng ban cho các hữu tình, cùng nhau hồi hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, lấy vô sở đắc mà làm phương tiện. Khi hồi hướng đại Bồ đề như vậy phải xa lìa ba tâm, đó là ai hồi hướng, hồi hướng về đâu, lấy gì hồi hướng? Đó là đại Bồ Tát an trụ vào tịnh lự Ba la mật nhiếp lấy Bát nhã Ba la mật. (Q.523, ĐBN)

 

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Làm thế nào mà đại Bồ Tát an trụ vào Bát nhã Ba la mật nhiếp lấy bố thí cho đến tịnh lự Ba la mật?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát an trụ vào tịnh lự Ba la mật quán tất cả pháp đều Không, vô sở hữu.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Làm thế nào đại Bồ Tát an trụ vào Bát nhã Ba la mật quán tất cả pháp đều Không, vô sở hữu?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát an trụ vào Bát nhã Ba la mật quán pháp nội Không (Không của các pháp nội tại, 'Căn'), tánh của pháp nội Không bất khả đắc. Quán pháp ngoại Không (Không của các pháp ngoại tại, 'Trần'), tánh của pháp ngoại Không bất khả đắc. Quán pháp nội ngoại Không (Không của các pháp nội ngoại tại 'Xứ'), tánh của pháp nội ngoại Không bất khả đắc. Quán pháp đại Không (Không lớn), tánh của pháp đại Không bất khả đắc. Quán pháp Không Không (Không của Không), tánh của pháp Không Không bất khả đắc. Quán pháp thắng nghĩa Không (Không của chân lý cứu cánh), tánh của pháp thắng nghĩa Không bất khả đắc. Quán pháp hữu vi Không (Không của các pháp hữu vi), tánh của pháp hữu vi Không bất khả đắc. Quán pháp vô vi Không (Không của các pháp vô vi), tánh của pháp vô vi Không bất khả đắc. Quán pháp tất cánh Không (Không tối hậu, ‘rốt ráo’), tánh của pháp tất cánh Không bất khả đắc. Quán pháp vô tế Không (Không không biên tế), tánh của pháp vô tế Không bất khả đắc. Quán pháp vô tán Không (Không của sự không phân tán), tánh của pháp vô tán Không bất khả đắc. Quán pháp bản tánh Không (Không của bản tánh, ‘tự nhiên tánh’), tánh của pháp bản tánh Không bất khả đắc. Quán pháp tướng Không, tánh của pháp tướng Không bất khả đắc. Quán pháp nhất thiết pháp Không (Không của vạn hữu), tánh của pháp nhất thiết pháp Không bất khả đắc. Đại Bồ Tát ấy an trụ trong mười bốn Không như vậy không đắc sắc hoặc Không, hoặc bất Không; không đắc thọ, tưởng, hành, thức hoặc Không, hoặc bất Không. Nói rộng cho đến không đắc Nhất thiết trí trí hoặc Không, hoặc bất Không. Không đắc cảnh giới hữu vi hoặc Không, hoặc bất Không. Không đắc cảnh giới vô vi hoặc Không, hoặc bất Không. Đại Bồ Tát ấy an trụ vào Bát nhã Ba la mật, bố thí cho tất cả các hữu tình thức ăn, thức uống và các đồ dùng khác, quán tất cả là Không. Tất cả người bố thí, được bố thí, phước bố thí, quả bố thí quán cũng là Không. Khi ấy, Bồ Tát nhờ an trụ vào Không mà quán ái nhiễm, xan lận đều không cho khởi. Vì sao? Vì đại Bồ Tát ấy tu hành Bát nhã Ba la mật từ khi mới phát tâm cho đến lúc ngồi tòa Bồ đề, như vậy tất cả phân biệt không cho sanh khởi. Như chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác không bao giờ khởi tâm ái, tâm xan tham. Đại Bồ Tát này cũng vậy, tu hành Bát nhã Ba la mật vĩnh viễn không bao giờ sanh tâm ái nhiễm, tâm xan tham.

Thiện Hiện nên biết! Bát nhã Ba la mật này là thầy của đại Bồ Tát, có thể khiến cho chúng đại Bồ Tát không sanh khởi tất cả vọng tưởng phân biệt, không nhiễm trước vào việc bố thí. Đại Bồ Tát ấy đem căn lành này, lấy vô sở đắc làm phương tiện bình đẳng ban cho các hữu tình, cùng nhau hồi hướng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Khi hồi hướng đại Bồ đề như vậy phải xa lìa ba tâm, đó là ai hồi hướng, hồi hướng về đâu, lấy gì hồi hướng? Đó là đại Bồ Tát an trụ Bát nhã Ba la mật nhiếp lấy bố thí Ba la mật.

Nếu đại Bồ Tát an trụ Bát nhã Ba la mật, thọ trì tịnh giới thì không sanh tâm của tất cả Thanh văn, Độc giác. Vì sao? Vì đại Bồ Tát ấy quán các địa vị Thanh văn, Độc giác đều bất khả đắc, tâm hồi hướng kia cũng bất khả đắc, hồi hướng bậc kia luật nghi thân ngữ cũng bất khả đắc. Đại Bồ Tát ấy an trụ vào Bát nhã Ba la mật từ khi mới phát tâm cho đến lúc ngồi tòa Bồ đề. Trong thời gian ấy tự lìa sát sanh cho đến tà kiến, cũng khuyến khích người khác lìa bỏ sát sanh cho đến tà kiến, không có tâm trái ngược với pháp, luôn xiển dương việc lìa bỏ sát sanh cho đến tà kiến, hoan hỉ khen ngợi người lìa bỏ sát sanh cho đến tà kiến. Đại Bồ Tát ấy đem căn lành do tịnh giới này phát sanh không cầu quả Nhị thừa và ba cõi mà bình đẳng ban cho hữu tình, cùng nhau hồi hướng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, lấy vô sở đắc mà làm phương tiện. Khi hồi hướng đại Bồ đề như vậy phải xa lìa ba tâm, đó là ai hồi hướng, hồi hướng về đâu, lấy gì hồi hướng? Đó là Bồ Tát an trụ Bát nhã Ba la mật nhiếp lấy tịnh giới Ba la mật.

 

Nếu đại Bồ Tát an trụ vào Bát nhã Ba la mật sanh nhẫn tùy thuận. Đã đắc được nhẫn này rồi luôn nghĩ như vầy: Trong tất cả pháp không có một pháp nào là khởi hay diệt; hoặc sanh, lão, bệnh, tử, hoặc người mắng, người bị mắng, người phỉ báng, người bị phỉ báng, người cắt, xẻ đâm, đánh, trói, xúc não gia hại, hoặc bị cắt xẻ, đâm, đánh, trói. Tất cả tánh tướng này đều Không, trong đó không nên vọng tưởng phân biệt. Đại Bồ Tát ấy đắc nhẫn này nên từ khi mới phát tâm cho đến lúc ngồi tòa Bồ đề, trong thời gian này giả sử tất cả loài hữu tình đều đến mắng chửi hủy báng, mạ nhục, lấy đao trượng, gạch ngói đá làm tổn hại đánh đập cắt xẻo, cho đến phân chẻ thân ra từng khúc, nhưng tâm Bồ Tát lúc ấy không biến đổi, chỉ nghĩ: Thật kỳ lạ thay! Trong tánh của các pháp hoàn toàn không có những việc hủy báng chửi mắng, mạ nhục, làm hại nhưng do hữu tình vọng tưởng phân biệt cho là thật có, nên tạo ra nghiệp ác phiền não, đời hiện tại, đương lai chịu các khổ não. Đại Bồ Tát ấy đem căn lành này bình đẳng ban cho các hữu tình, cùng nhau hồi hướng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Khi hồi hướng đại Bồ đề như vậy phải xa lìa ba tâm, đó là ai hồi hướng, hồi hướng về đâu, lấy gì hồi hướng? Đó là Đại Bồ Tát an trụ Bát nhã Ba la mật nhiếp lấy an nhẫn Ba la mật.

Nếu đại Bồ Tát an trụ vào Bát nhã Ba la mật dõng mãnh tinh tấn giảng nói chánh pháp cho các hữu tình, để họ trụ vào bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Hoặc khiến họ trụ vào bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo. Hoặc khiến an trụ vào các công đức khác. Đại Bồ Tát ấy thành tựu những phương tiện thiện xảo, thân tâm tinh tấn dùng sức thần thông đi đến chỗ các hữu tình ở một thế giới, hoặc mười, một trăm cho đến vô lượng, vô biên thế giới, để giảng nói chánh pháp, dùng phương tiện giáo hóa khiến họ trụ vào quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán. Hoặc khiến họ an trụ vào Độc giác Bồ đề, hoặc khiến họ chứng đắc Nhất thiết trí trí. Đại Bồ Tát ấy mặc dù làm việc này nhưng không trụ vào cảnh giới hữu vi, cũng không trụ vào cảnh giới vô vi. Lại đem căn lành tinh tấn này bình đẳng ban cho các hữu tình, cùng nhau hồi hướng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, lấy vô sở đắc làm phương tiện. Khi hồi hướng đại Bồ đề như vậy phải xa lìa ba tâm, đó là ai hồi hướng, hồi hướng về đâu, lấy gì hồi hướng? Đó là đại Bồ Tát an trụ Bát nhã Ba la mật nhiếp lấy tinh tấn Ba la mật.

Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào an trụ Bát nhã Ba la mật, trừ định của chư Phật còn tất cả các định của Thanh văn, Độc giác… vị ấy đều có thể tùy ý xuất nhập một cách tự tại. Đại Bồ Tát này an trú vào đẳng trì tự tại của Bồ Tát có thể tự do nhập xuất thuận nghịch đối với tám giải thoát. Đại Bồ Tát này lại có thể tự tại nhập xuất theo chiều thuận nghịch đối với chín định thứ đệ. Những gì là chín. Đó là bốn tịnh lự, bốn định vô sắc và diệt tưởng thọ định. Sau khi đã hoàn toàn thành thục trong việc xuất nhập thuận nghịch đối với tám giải thoát và chín định thứ đệ, đại Bồ Tát này có thể nhập vào Sư tử tần thân Tam ma địa. Thế nào là Sư tử tần thân Tam ma địa của đại Bồ Tát? Thiện Hiện! Đó là Bồ Tát lìa pháp dục, ác, bất thiện, có tầm có tứ, ly sanh hỷ lạc nhập vào sơ thiền lần lượt vượt qua tất cả phi tưởng phi phi tưởng xứ, nhập vào diệt thọ tưởng định, lại từ diệt thọ tưởng định nhập trở lại định phi tưởng phi phi tưởng xứ, lần lượt cho đến nhập vào sơ thiền. Đó là Sư tử tần thân Tam ma địa của đại Bồ Tát. Đại Bồ Tát ấy đối với Sư tử tần thân Tam ma địa đã thành thục hoàn hảo rồi, lại nhập vào Tập tán Tam ma địa của đại Bồ Tát.

Thế nào gọi là Tập tán Tam ma địa của đại Bồ Tát? Nghĩa là đại Bồ Tát lìa pháp dục, ác, bất thiện, có tầm, có tứ, ly sanh hỷ lạc nhập vào sơ thiền. Ra khỏi sơ thiền tuần tự cho đến nhập vào Diệt thọ tưởng định(1). Ra khỏi sơ thiền nhập vào Diệt thọ tưởng định. Ra khỏi Diệt thọ tưởng định nhập vào nhị thiền. Ra khỏi nhị thiền nhập vào Diệt thọ tưởng định. Ra khỏi Diệt thọ tưởng định nhập vào tam thiền. Ra khỏi tam thiền nhập vào Diệt thọ tưởng định. Ra khỏi Diệt thọ tưởng định nhập vào tứ thiền. Ra khỏi tứ thiền tư nhập vào Diệt thọ tưởng định. Ra khỏi Diệt thọ tưởng định nhập vào Không vô biên xứ định. Ra khỏi Không vô biên xứ định nhập vào Diệt thọ tưởng định. Ra khỏi Diệt thọ tưởng định nhập vào Thức vô biên xứ định. Ra khỏi Thức vô biên xứ định nhập vào Diệt thọ tưởng định. Ra khỏi Diệt thọ tưởng định nhập vào Vô sở hữu xứ định. Ra khỏi Vô sở hữu xứ định nhập vào Diệt thọ tưởng định. Ra khỏi Diệt thọ tưởng định nhập vào Phi tưởng phi phi tưởng xứ định. Ra khỏi Phi tưởng phi phi tưởng xứ định nhập vào Diệt thọ tưởng định. Ra khỏi Diệt thọ tưởng định lại nhập vào Phi tưởng phi phi tưởng xứ định. Ra khỏi Phi tưởng phi phi tưởng xứ định trụ vào tâm bất định(2). Từ tâm bất định trở lại nhập vào Diệt thọ tưởng định. Ra khỏi Diệt thọ tưởng định trụ vào tâm bất định. Từ tâm bất định nhập vào Phi tưởng phi phi tưởng xứ định. Ra khỏi Phi tưởng phi phi tưởng xứ định trụ vào tâm bất định. Từ tâm bất định nhập vào Vô sở hữu xứ định. Ra khỏi vô sở hữu định trụ vào tâm bất định. Từ tâm bất định nhập vào Thức vô biên xứ định. Ra khỏi Thức vô biên xứ định trụ vào tâm bất định. Từ tâm bất định nhập vào Không vô biên xứ định. Ra khỏi Không vô biên xứ định trụ vào tâm bất định. Từ tâm bất định nhập vào tứ thiền. Ra khỏi tứ thiền trụ vào tâm bất định. Từ tâm bất định nhập vào tam thiền. Ra khỏi tam thiền trụ vào tâm bất định. Từ tâm bất định nhập vào nhị thiền. Ra khỏi nhị thiền trụ vào tâm bất định. Từ tâm bất định nhập vào sơ thiền. Ra khỏi sơ thiền trụ vào tâm bất định.

Đó là Tập tán Tam ma địa của đại Bồ Tát. Nếu đại Bồ Tát an trụ vào Tập tán Tam ma địa như vậy thì đắc thật tánh bình đẳng của tất cả pháp. Đại Bồ Tát ấy lại đem căn lành tịnh lự này bình đẳng ban cho các hữu tình, cùng nhau hồi hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, lấy vô sở đắc mà làm phương tiện. Khi hồi hướng đại Bồ đề như vậy phải xa lìa ba tâm, đó là ai hồi hướng, hồi hướng về đâu, lấy gì hồi hướng? Đó là đại Bồ Tát an trụ Bát nhã Ba la mật nhiếp lấy tịnh lự Ba la mật. (Q. 523, ĐBN)

Thích nghĩa cho phân đoạn này:

 (1). Diệt tưởng thọ định: Dịch giả muốn nói đến một thứ định mà chỉ có bậc Thánh mới có thể thực hành được thường gọi là Diệt thọ tưởng định hay Diệt tận định. Trái lại phàm phu chỉ có thể thực hành Vô tưởng định hay Diệt tưởng định. Đây là chú giải sâu sắc của Từ điển Phật Quang mà chúng tôi có dịp đề cập trong phần thứ I Tổng luận: Diệt tận định (滅盡定) Phạm: Nirodha-samàpatti. Cũng gọi Diệt thụ tưởng định, Diệt tận tam muội. Là một trong các pháp Tâm bất tương ứng hành, một trong 75 pháp của luận Câu xá, một trong 100 pháp của luận Duy thức. Tức là cảnh giới Thiền định trong đó mọi hoạt động tâm lý đều bị diệt hết và hành giả hoàn toàn ở trong trạng thái vô tâm. Diệt tận định và Vô tưởng định gọi chung là hai định Vô tâm. Nhưng Vô tưởng định là định của phàm phu chứng được, còn Diệt tận định thì Phật và các bậc A la hán cầu giải thoát do xa lìa định chướng mà chứng được, tức là các bậc dùng sức thắng giải của hiện pháp Niết bàn mà tu định này. Bậc Thánh đã xa lìa các phiền não ở Vô sở hữu xứ, cảnh giới định của các Ngài có thể được ví với sự tịch lặng của Niết bàn vô dư. Cho nên nếu muốn có được niềm vui tĩnh lặng của sự vô tâm thì tu theo định này, có thể sinh lên tầng trời Hữu đỉnh (Phi tưởng phi phi tưởng xứ) của cõi Vô sắc. Về Diệt tận định, các tông phái có nhiều thuyết khác nhau. Như Thuyết nhất thiết hữu bộ chủ trương định này có thực thể riêng biệt, nhưng Kinh lượng bộ và tông Duy thức thì không cho nó là pháp thực, mà chỉ ở nơi phần vị không chuyển của tâm, tâm sở mà giả lập ra định này; tông Duy thức còn cho rằng trong định này chưa đoạn diệt thức A lại da; các nhà Phân biệt luận thì nói, bậc Thánh vào định này, tư tưởng và cảm thụ của vị ấy đã diệt, nhưng tế tâm (tâm nhỏ nhiệm) thì vẫn chưa diệt. Ngoài ra, cứ theo Tông kính lục quyển 55 nêu, thì Diệt tận định và Vô tưởng định có bốn điểm khác nhau: 1- Người chứng được khác: Diệt tận định là định xuất thế gian mà Phật và các bậc A la hán chứng được; còn Vô tưởng định thì là định thế gian do phàm phu và ngoại đạo chứng được. 2- Kỳ nguyện khác: Diệt tận định chỉ cầu công đức xuất thế; còn Vô tưởng định thì cầu quả vui ở thế gian. 3- Cảm quả và không cảm quả khác: Diệt tận định là nghiệp vô lậu, không cảm quả báo sống chết trong ba cõi, còn Vô tưởng định thì là nghiệp hữu lậu, có thể cảm quả báo ở cõi trời Vô tưởng. 4- Diệt thức khác: Diệt tận định có thể diệt trừ thức thứ sáu, diệt luôn cả phần ô nhiễm của thức thứ bảy, còn Vô tuởng định thì chỉ diệt trừ được cái thấy phân biệt của thức thứ sáu, còn các tà kiến khác thì vẫn chưa diệt hết được. [X. Kinh Trung a hàm Q.58; luận Phẩm loại túc Q.1; luận Đại tỳ bà sa Q.152]. (xt. Vô Tưởng)

(2). Không hiểu thế nào gọi là trụ vào tâm bất định? Hai Hội trước kinh bảo rằng khi hành giả nhập xuất phần thuận đến phi tưởng phi phi tưởng xứ rồi thì xuất khỏi phi phi tưởng xứ định để nhập vào diệt tận định. Tới đây hành giả muốn quay lại sơ thiền thì hành giả phải từ diệt tận định, xuất diệt tận định nhập lại phi tưởng phi phi tưởng xứ để đi theo chiều nghịch mà trở về sơ thiền, rồi xuất ra khỏi sơ thiền và nhập diệt tận định vào giai đoạn cuối cùng, rồi xuất khỏi diệt tận định tức xả thiền. Đó là hoàn tất cửu thứ đệ định. Còn pháp môn tên là Tập Tán Tam ma địa định mới nghe thấy đầu tiên, nên không có ý kiến.

Còn về cửu thứ đệ định thì được từ điển Phật quang diễn tả như sau:

Cửu thứ đệ định: (九次第定) Chín định thứ đệ. Phạm:navànupùrvasamàpattaya#. Hàm ý là chín loại Thiền định phải tu theo thứ lớp không xen lẫn. Cũng gọi Vô gián thiền hoặc Luyện thiền. Chỉ cho chín loại thiền định gồm: bốn thiền cõi Sắc, bốn xứ cõi Vô sắc và định Diệt thụ tưởng. Vì tâm không xen lẫn, cứ y theo thứ lớp từ định này vào định khác, cho nên gọi là Thứ đệ định. Phân biệt như sau: 1. Sơ thiền thứ đệ định. 2. Nhị thiền thứ đệ định. 3. Tam thiền thứ đệ định. 4. Tứ thiền thứ đệ định. 5. Không xứ thứ đệ định. 6. Thức xứ thứ đệ định. 7. Vô sở hữu xứ thứ đệ định. 8. Phi tưởng phi phi tưởng xứ thứ đệ định.9. Diệt thụ tưởng thứ đệ định. Hành giả chuyên tâm nhất ý, trí tuệ sắc bén, tự xét nghiệm tâm mình, từ tâm sơ thiền vào nhị thiền, cho đến vào định Diệt thụ tưởng, dứt bặt hết tâm thức: Đó là đạt đến chỗ cùng tột của Thiền định. Vì thiền này không xen lẫn niệm khác nên cũng gọi là Vô gián thiền - lại vì thiền này tinh luyện các vị thiền làm cho tâm trong sạch, cũng như luyện vàng, nên gọi là Luyện thiền. [X. luận Đại trí độ Q.21, Q.81 - Đại thừa nghĩa chương Q.13 - Đại minh tam tạng pháp số Q.34].

 

3. (Đoạn Kinh sau đây tương đương với phẩm “Phương Tiện Thiện Xảo”,

Q.460 cho đến phần đầu Q.463, Hội thứ II, ĐBN)

 

Bấy giờ cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát thành tựu phương tiện thiện xảo như vậy, phát tâm hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề đã trải qua bao lâu?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Đại Bồ Tát ấy phát tâm hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề đã trải qua vô số trăm ngàn triệu ức kiếp. (Q.524, ĐBN)

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát thành tựu phương tiện thiện xảo như vậy, đã từng gần gũi cúng dường bao nhiêu đức Phật?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Đại Bồ Tát ấy đã từng gần gũi cúng dường hằng hà sa số chư Phật.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát thành tựu phương tiện thiện xảo như vậy, đã trồng những căn lành vi diệu gì?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Đại Bồ Tát ấy từ lúc phát tâm đến nay, không có căn lành nào xuất phát từ bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật mà không siêng năng tinh tấn tu hành viên mãn. Nhờ đó mà thành tựu phương tiện thiện xảo như vậy.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát thành tựu phương tiện thiện xảo được như vậy rất là hy hữu!

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như lời ngươi đã nói! Các đại Bồ Tát thành tựu phương tiện thiện xảo được như vậy rất là hy hữu.

Thiện Hiện nên biết! Giống như mặt trời, mặt trăng vận chuyển chiếu sáng khắp bốn đại châu thế giới để làm các sự nghiệp. Tất cả các loài hữu tình, vô tình theo thế lực của ánh sáng ấy mà triển chuyển và thành tựu việc của mình. Cũng vậy, Bát nhã Ba la mật chiếu sáng năm Ba la mật khác để làm các sự nghiệp. Năm Ba la mật bố thí, trì giới v.v… theo thế lực của Bát nhã Ba la mật mà triển chuyển thành tựu việc của mình.

Thiện Hiện nên biết! Năm Ba la mật: Bố thí, trì giới v.v... đều nhờ Bát nhã Ba la mật hộ trì nên mới gọi là Ba la mật. Giống như Chuyển luân vương, nếu không có bảy báu thì chẳng gọi là Chuyển luân vương, cần phải đầy đủ bảy báu mới gọi là Chuyển luân vương. Cũng vậy, năm Ba la mật: Bố thí, tịnh giới v.v..., nếu lìa Bát nhã Ba la mật thì chẳng được gọi là Ba la mật, phải nhờ Bát nhã Ba la mật hộ trì mới được gọi là Ba la mật.

Thiện Hiện nên biết! Ví như có người nữ xinh đẹp giàu có, nếu không được chồng mạnh khoẻ bảo vệ thì dễ bị người xấu xâm phạm. Nếu cô ta được chồng bảo vệ thì không bị người xấu xâm phạm. Cũng vậy, năm Ba la mật: Bố thí, trì giới v.v..., nếu không có Bát nhã Ba la mật hộ trì thì dễ bị thiên ma và quyến thuộc của chúng phá hoại, ngăn cản. Nếu được Bát nhã Ba la mật hộ trì thì tất cả thiên ma và quyến thuộc của chúng không thể nào phá hoại và ngăn cản được.

Thiện Hiện nên biết! Ví như quân tướng dũng mãnh, giỏi binh pháp, khéo chuẩn bị những loại áo giáp, đao, gậy kiên cố, thì oán địch nước bên cạnh không thể nào xâm lăng được. Cũng vậy, năm Ba la mật: Bố thí, trì giới v.v... nếu không lìa Ba la mật thì quyến thuộc thiên ma, kẻ tăng thượng mạn, cho đến những Bồ Tát thuộc Chiên đà la không thể nào phá hoại được.

Thiện Hiện nên biết! Ví như các tiểu vương trong châu Thiệm bộ, tùy thời đến triều kiến Chuyển luân Thánh vương. Họ nương nhờ vào Chuyển luân Thánh vương để được địa vị cao tột. Cũng vậy, năm Ba la mật: Bố thí, trì giới v.v... theo hộ trợ Bát nhã Ba la mật, nhờ thế lực của Bát nhã Ba la mật hướng dẫn nên mau hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Thiện Hiện nên biết! Ví như các con sông ở phía Đông châu Thiệm bộ đều đổ vào sông Hằng, từ sông Hằng chảy vào biển lớn. Cũng vậy, năm Ba la mật: Bố thí, trì giới v.v... đều được Bát nhã Ba la mật hộ trì nên có thể đạt đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Thiện Hiện nên biết! Ví như các dòng nuớc, bất cứ lớn nhỏ, nếu chảy vào biển lớn đều cùng một vị mặn. Cũng vậy, năm Ba la mật: Bố thí, trì giới v.v... nhập vào Bát nhã Ba la mật đều chứng đắc Nhất thiết trí trí. Nhờ sự chứng đắc này nên gọi là đến bờ bên kia.

Thiện Hiện nên biết! Ví như Chuyển luân vương đi đến đâu đều có bốn bộ quân đi theo, có bánh xe báu ở trước dẫn đầu. Nếu vua và bốn bộ quân dừng nghĩ đến ăn uống thì bánh xe báu liền dừng lại. Sau khi ăn uống xong, vua nghĩ muốn khởi hành thì bánh xe liền đi trước. Bánh xe ấy đi hay dừng đều theo ý muốn của vua. Khi đến nơi, bánh xe ấy không đi trước nữa. Cũng vậy, năm Ba la mật: Bố thí, trì giới v.v..., cùng các pháp lành muốn hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề phải nhờ Bát nhã Ba la mật dẫn đầu, tiến hay dừng song hành không bao giờ lìa bỏ nhau. Khi đến quả vị Phật mới không có trước sau.

Thiện Hiện nên biết! Ví như Chuyển luân vương đầy đủ bảy báu, muốn đến đâu bốn bộ quân bảy báu đều đi theo. Bấy giờ, tuy bánh xe báu đi đầu tiên nhưng nó không phân biệt tướng trước sau. Cũng vậy, năm Ba la mật trước cùng với pháp lành muốn hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, nhất định để Bát nhã Ba la mật dẫn đầu. Nhưng Bát Nhã này không nghĩ như vầy: Ta dẫn đầu năm Ba la mật và các pháp ấy đi theo ta. Năm Ba la mật cũng không nghĩ: Bát Nhã thâm sâu ở trước chúng ta, chúng ta đi theo sau. Vì sao? Vì tự tánh của sáu pháp Ba la mật và tự tánh các pháp đều chậm lụt (trì độn), không thể làm được gì, không có chủ tể, là hư giả chẳng thật, trống không, vô sở hữu, không tự tại, ví như sóng nắng, bóng trong gương, trăng đáy nước, như trò huyễn, như mộng v.v…, ở trong đó hoàn toàn không có tự thể, không có tác dụng chơn thật. (Q.524, ĐBN)

 

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu tự tánh của tất cả pháp đều Không, hoàn toàn không có tự thể, không có tác dụng chơn thật thì các đại Bồ Tát làm sao tu học sáu pháp Ba la mật: Bố thí, tịnh giới v.v… để cầu chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Khi các đại Bồ Tát siêng năng tinh tấn tu học sáu pháp Ba la mật, thường nghĩ: Hữu tình ở thế gian, tâm luôn luôn điên đảo, đắm chìm trong khổ sanh tử, không thể tự thoát được. Nếu ta chẳng tu thắng hạnh bằng phương tiện thiện xảo thì không thể cứu vớt khổ sanh tử cho họ. Ta phải vì các loài hữu tình mà siêng năng tu phương tiện thiện xảo bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật, mau hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, cứu vớt đại khổ sanh tử cho các hữu tình.

Sau khi nghĩ vậy, đại Bồ Tát vì các hữu tình mà xả bỏ tất cả những vật trong ngoài. Xả bỏ rồi, lại nghĩ: Đối với những vật này, ta hoàn toàn không có gì để xả bỏ. Vì sao? Vì tự tánh của vật trong lẫn ngoài này đều không, chẳng phải của riêng ta. Nhờ sự quán sát này, đại Bồ Tát ấy tu hành bố thí Ba la mật mau được viên mãn, mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Đại Bồ Tát ấy trọn đời chẳng phạm giới. Vì sao? Vì đại Bồ Tát ấy thường nghĩ như vầy: Ta vì các hữu tình mà cầu hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, quyết định không nên sát sanh cho đến tà kiến. Cũng nhất định không cầu cảnh diệu dục và lạc thú của chư Thiên, cũng nhất định không cầu địa vị Nhị thừa, chỉ tự mình giải thoát. Nhờ sự quán sát này, đại Bồ Tát ấy tu hành tịnh giới Ba la mật mau được viên mãn, mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Đại Bồ Tát ấy không tức giận các hữu tình. Giả sử luôn bị người hủy báng, lăng nhục, cắt xẻ thân ra từng mảnh, chịu nhiều khổ não, cũng không khởi niệm ác. Vì sao? Vì đại Bồ Tát ấy quan sát tất cả âm thanh như tiếng vọng trong hang, sắc như chùm bọt nổi, nên không sân giận. Nhờ sự quán sát này, đại Bồ Tát ấy tu hành an nhẫn Ba la mật mau được viên mãn, mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Đại Bồ Tát ấy vì các hữu tình mà siêng năng cầu pháp lành, cho đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, trong thời gian ấy, không bao giờ giải đãi. Vì sao? Vì đại Bồ Tát ấy thường nghĩ: Nếu ta giải đãi thì không thể cứu vớt tất cả hữu tình xa lìa khổ lớn sanh tử, cũng không thể nào đắc Nhất thiết trí trí. Nhờ sự quán sát này, đại Bồ Tát ấy tu hành tinh tấn Ba la mật mau được viên mãn, mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Đại Bồ Tát ấy vì các hữu tình nên siêng năng tinh tấn tu thắng định, cho đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề không bao giờ có tâm loạn động, tham, sân, si v.v... Vì sao? Vì đại Bồ Tát ấy thường nghĩ: Nếu ta có tâm loạn động, tham, sân, si thì không thể thành tựu việc làm lợi ích cho mọi người, cũng không thể chứng quả vị Phật. Nhờ sự quán sát này, đại Bồ Tát ấy tu hành tịnh lự Ba la mật mau được viên mãn, mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Đại Bồ Tát ấy vì các hữu tình, không lìa Bát nhã Ba la mật, cho đến khi đạt quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, luôn siêng năng tinh tấn tu học thắng tuệ vi diệu. Vì sao? Vì đại Bồ Tát ấy thường nghĩ: Nếu lìa Bát nhã Ba la mật thì ta không thể thành thục các hữu tình, cũng không thể chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Nhờ sự quán sát này, đại Bồ Tát ấy tu hành Bát nhã Ba la mật mau được viên mãn, mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Do nhân duyên này, mặc dù tự tánh tất cả pháp đều Không, hoàn toàn không có tác dụng, nhưng các đại Bồ Tát siêng năng tu hành sáu pháp Ba la mật thì cũng chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. (Q.524, ĐBN)

 

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Sáu pháp Ba la mật này, tánh không khác nhau. Tất cả đều được Bát nhã Ba la mật hộ trì thì tại sao nói Bát nhã Ba la mật đối với năm Ba la mật kia là tối thắng, là tôn quí, là vi diệu, là vô thượng?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như lời ngươi đã nói! Sáu pháp Ba la mật: Bố thí, trì giới v.v… tánh không khác nhau, tất cả đều được Bát nhã Ba la mật hộ trì. Nếu không có Bát nhã Ba la mật hộ trì thì năm Ba la mật: Bố thí, tịnh giới v.v… không được gọi là Ba la mật, phải nương vào Bát nhã Ba la mật, thì năm Ba la mật: Bố thí, tịnh giới v.v… mới được gọi là đến bờ kia.

hật: Thiện Hiện nên biết! Có loài hữu tình mặc dù có những thân thể với màu sắc khác nhau, nhưng đến gần với núi chúa Diệu Cao (Tu di sơn) thì đều cùng một màu. Như vậy, năm Ba la mật trước mặc dù có những phẩm loại khác nhau, nhưng đều được Bát nhã Ba la mật hộ trì. Tất cả đều nhờ Bát nhã Ba la mật tu hành mà được thành tựu. Tất cả đều nhập vào Bát nhã Ba la mật, chẳng thể thi thiết danh tánh sai khác được.

Lại nữa, năm Ba la mật trước nương vào Bát nhã Ba la mật mới có thể chứng đắc Nhất thiết trí trí, mới được gọi là đến bờ kia. Cho nên sáu pháp Ba la mật đều đồng một vị, tánh không khác nhau, không thể thi thiết đây là bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Vì sáu Ba la mật đều có thể chứng đắc Nhất thiết trí trí, đều đến bờ kia, tánh không khác nhau. Do đó, mà sáu pháp Ba la mật: Bố thí, tịnh giới v.v... không thể thi thiết danh tánh khác nhau.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật.

- Bạch Thế Tôn! Ba la mật và tất cả pháp đúng với thật nghĩa thì đều không có sai khác giữa đây kia, hơn kém. Vậy sao nói Bát nhã Ba la mật đối với năm Ba la mật là tối là thắng, là tôn quí, là vi diệu, là vô thượng?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như lời ngươi đã nói! Nhưng nương tác dụng lời nói thế tục, nói có sai khác đây kia hơn kém, thi thiết bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Vì muốn độ thoát sanh lão bệnh tử các loại hữu tình nên dùng thế tục diễn nói. Nhưng sanh lão bệnh tử các hữu tình đều chẳng thật có, chỉ giả thi thiết. Vì sao? Vì hữu tình vô (không) nên phải biết các pháp cũng vô sở hữu. Bát Nhã thẳm sâu thông đạt tất cả các pháp đều vô sở hữu có thể cứu vớt hữu tình ra khỏi sanh, lão, bệnh, tử. Do đây, nên nói Bát nhã Ba la mật đối năm Ba la mật khác là tối là thắng, là tôn là cao, là diệu là vi diệu, là thượng là vô thượng.

Hơn nữa,Thiện Hiện! Bởi Bát nhã Ba la mật đây dùng vô sở đắc mà làm phương tiện, thường nhiếp lấy tất cả thiện pháp, hòa hợp vào Nhất thiết trí trí an trụ chẳng động, nên Ta hằng thường khen nói Bát nhã Ba la mật.

 

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Như vậy, Bát nhã Ba la mật có thủ có xả các pháp lành không?

Phật dạy:

- Không! Đối với tất cả pháp, Bát nhã Ba la mật không thủ, không xả. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp đều không, hoàn toàn không thủ, không xả.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Như vậy, Bát nhã Ba la mật không thủ, không xả những pháp nào?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Bát nhã Ba la mật không thủ không xả sắc cho đến Nhất thiết trí trí.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vì sao Bát nhã Ba la mật không thủ không xả sắc, nói rộng cho đến Nhất thiết trí trí?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Vì Bát nhã Ba la mật không tư duy về sắc, nói rộng cho đến Nhất thiết trí trí. Cho nên không thủ không xả sắc, nói rộng cho đến Nhất thiết trí trí.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vì sao Bát nhã Ba la mật không tư duy về sắc, nói rộng cho đến Nhất thiết trí trí?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Vì Bát nhã Ba la mật này đối với sắc cho đến Nhất thiết trí trí không tư duy tất cả tướng, cũng không tư duy về tất cả sở duyên. Cho nên không tư duy về tất cả sắc, nói rộng cho đến Nhất thiết trí trí.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ Tát không tư duy về sắc, nói rộng cho đến Nhất thiết trí trí thì làm sao tăng trưởng sự gieo trồng căn lành? Nếu căn lành chẳng tăng trưởng thì làm sao viên mãn Ba la mật? Nếu không viên mãn Ba la mật thì làm sao chứng đắc Nhất thiết trí trí?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát không tư duy về sắc, nói rộng cho đến Nhất thiết trí trí thì đại Bồ Tát ấy có thể làm tăng trưởng sự gieo trồng căn lành. Vì căn lành đã gieo trồng được tăng trưởng nên có thể viên mãn Ba la mật. Vì Ba la mật được viên mãn, nên liền chứng đắc Nhất thiết trí trí. Vì sao? Vì các đại Bồ Tát không tư duy về sắc, nói rộng cho đến Nhất thiết trí trí thì mới có thể tu đầy đủ Bồ Tát hạnh và chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. (Q.524, ĐBN)

Cụ thọ hiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà các đại Bồ Tát không tư duy về sắc, nói rộng cho đến Nhất thiết trí trí mới có thể tu đầy đủ Bồ Tát hạnh, chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát nếu tư duy sắc, nói rộng cho đến Nhất thiết trí trí thời có sở đắc. Vì có sở đắc nên bị vướng vào cõi dục, cõi sắc, cõi vô sắc. Nếu vướng vào ba cõi thì không thể tu đầy đủ Bồ Tát hạnh, chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Nếu đại Bồ Tát không tư duy về sắc, nói rộng cho đến Nhất thiết trí trí thì không có sở đắc. Vì không có sở đắc nên không bị vướng vào ba cõi. Vì không bị vướng vào ba cõi nên tu đầy đủ Bồ Tát hạnh, chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Cho nên, này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát tu đầy đủ Bồ Tát hạnh và mau chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, thì phải siêng năng tinh tấn tu học Bát Nhã thậm thâm, không nên tư duy đắm nhiễm vào các pháp. (Q.524, ĐBN)

 

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ Tát siêng năng tinh tấn tu học Bát Nhã thậm thâm phải trụ nơi nào?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát siêng năng tinh tấn tu học Bát Nhã thậm thâm thì không nên trụ vào sắc, nói rộng cho đến Nhất thiết trí trí.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vì lý do gì mà các đại Bồ Tát siêng năng tinh tấn tu học Bát Nhã thậm thâm không nên trụ vào sắc, nói rộng cho đến Nhất thiết trí trí?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát siêng năng tinh tấn tu học Bát Nhã thâm sâu thì không nên chấp trước vào tất cả pháp, không nên trụ vào sắc, nói rộng cho đến Nhất thiết trí trí. Vì sao? Vì đại Bồ Tát ấy không thấy có pháp nào để chấp trước và để an trụ.

Như vậy, này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát đem vô trước và vô trụ mà làm phương tiện, thời có thể siêng năng tinh tấn tu học Bát Nhã thậm thâm.

Thiện Hiện nên biết! Nếu đại Bồ Tát nghĩ như vầy: Ta đã đem vô sở chấp trước, vô sở an trụ siêng năng tinh tấn tu học Bát Nhã thậm thâm thì đó là Ta tu Bát Nhã, là hành Bát Nhã. Nếu nghĩ tưởng có tu có hành có trụ tức là có chấp trước. Một khi có chấp trước tức xa lìa Bát Nhã. Nếu xa lìa Bát Nhã là xa lìa bố thí, nói rộng cho đến Nhất thiết trí trí. Vì sao? Vì Bát Nhã đối với tất cả pháp không có chấp trước. Chẳng phải Bát Nhã thậm thâm có sự chấp trước và tánh chấp trước. Vì sao? Vì Bát nhã Ba la mật hoàn toàn không có tự tánh để chấp trước các pháp.

Cho nên, này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát hành Bát Nhã thâm sâu đối với tất cả pháp và Bát Nhã đều không chấp trước.

Thiện Hiện nên biết! Khi đại Bồ Tát hành Bát Nhã tưởng như vầy: Đây là Bát nhã Ba la mật, ta thực hành Bát nhã Ba la mật, tức là hành hết thảy thật tướng của tất cả pháp. Do tưởng như vậy nên đại Bồ Tát liền thối lui Bát nhã Ba la mật. Nếu thối lui Bát nhã Ba la mật tức là thối lui bố thí Ba la mật, nói rộng cho đến Nhất thiết trí trí. Vì sao? Vì Bát Nhã thâm sâu là căn bản của tất cả bạch pháp. Nếu thối lui Bát nhã Ba la mật là thối lui tất cả bạch pháp.

Thiện Hiện nên biết! Nếu đại Bồ Tát nghĩ như vầy: An trụ vào Bát nhã Ba la mật thì nhất định được thọ ký quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Do nghĩ như vậy, đại Bồ Tát ấy đã làm thối lui Bát Nhã. Nếu thối lui Bát Nhã thì không được thọ ký quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì sao? Vì không lìa Bát nhã Ba la mật thì được thọ ký quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Thiện Hiện nên biết! Nếu đại Bồ Tát nghĩ: An trụ vào Bát nhã Ba la mật thì có thể dẫn phát bố thí cho đến phát sanh đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả. Do nghĩ như vậy, đại Bồ Tát ấy liền thối lui Bát Nhã. Nếu thối lui Bát Nhã thì không thể dẫn phát bố thí cho đến không thể dẫn phát đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả. Vì sao? Vì không lìa Bát nhã Ba la mật thì có thể dẫn phát an trụ thắng pháp.

Thiện Hiện phải biết: Nếu đại Bồ Tát khởi nghĩ như vầy: Phật biết các pháp không tướng nhiếp thọ, tự chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Được Bồ đề rồi vì các hữu tình tuyên nói khai chỉ thật tướng các pháp. Đại Bồ Tát này bởi nghĩ như thế thời là lui mất Bát Nhã thậm thâm. Sở dĩ vì sao? Vì Như Lai đối pháp không biết, không giác, không nói, không chỉ. Vì sao? Thật tánh các pháp chẳng thể giác biết, chẳng thể thi thiết, làm sao có kẻ giác biết nói chỉ tất cả pháp. Nếu nói thật có kẻ giác biết nói chỉ tất cả pháp thì không có lẽ ấy. (Q.524, ĐBN)

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã làm sao có thể xa lìa các lỗi đó?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát tu hành Bát Nhã khởi nghĩ như vầy: Tất cả pháp vô sở hữu chẳng thể nắm bắt. Nếu pháp vô sở hữu chẳng thể nắm bắt thời không có kẻ năng hiện Đẳng giác, cũng không có kẻ năng tuyên nói khai chỉ. Nếu hành như thế là hành Bát nhã Ba la mật lìa các lỗi lầm.

Đại Bồ Tát nào chấp trước pháp vô sở hữu không thể nắm bắt, thì xa lìa Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Thiện Hiện! Vì Bát Nhã thậm thâm không có chấp trước và nắm giữ các pháp. Nếu chấp trước và nắm giữ các pháp thì xa lìa Bát nhã Ba la mật.

 

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật đối với Bát nhã Ba la mật là viễn ly hay không viễn ly? Cho đến bố thí Ba la mật đối với bố thí Ba la mật là viễn ly hay không viễn ly? Nói rộng, cho đến Nhất thiết trí trí đối với Nhất thiết trí trí là viễn ly hay không viễn ly?

Bạch Thế Tôn! Nếu Bát nhã Ba la mật đối với Bát nhã Ba la mật dầu viễn ly hay không viễn ly thì làm thế nào đại Bồ Tát không chấp trước để dẫn phát Bát nhã Ba la mật? Cho đến bố thí Ba la mật đối với bố thí Ba la mật dầu viễn ly hay không viễn ly thì làm thế nào đại Bồ Tát không chấp trước để dẫn phát bố thí Ba la mật? Nói rộng cho đến Nhất thiết trí trí đối với Nhất thiết trí trí dầu viễn ly hay không viễn ly thì làm thế nào đại Bồ Tát ấy không chấp trước để dẫn phát Nhất thiết trí trí?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Bát nhã Ba la mật đối với Bát nhã Ba la mật chẳng viễn ly, chẳng phải chẳng viễn ly, cho nên đại Bồ Tát không chấp trước để dẫn phát Bát nhã Ba la mật. Như vậy, cho đến bố thí Ba la mật đối với bố thí Ba la mật chẳng viễn ly, chẳng phải chẳng viễn ly. Cho nên, đại Bồ Tát không chấp trước để dẫn phát bố thí Bát nhã Ba la mật. Nói rộng, cho đến Nhất thiết trí trí đối với Nhất thiết trí trí chẳng viễn ly, chẳng phải chẳng viễn ly. Cho nên, đại Bồ Tát không chấp trước để phát sanh Nhất thiết trí trí. Vì sao? Vì chẳng phải tự tánh, chẳng phải lìa tự tánh mà có thể đưa đến an trụ vào tự tánh.

 

Lại nữa, này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát hành Bát Nhã thậm thâm không chấp trước sắc, nói đây là sắc, sắc đây thuộc kia. Nói rộng, cho đến không chấp trước Nhất thiết trí trí, nói đây là Nhất thiết trí trí, Nhất thiết trí trí đây thuộc kia. Vì đại Bồ Tát không chấp trước tất cả pháp ấy nên có thể dẫn phát Bát nhã Ba la mật, cho đến có thể dẫn phát Nhất thiết trí trí. Vì sao? Vì đại Bồ Tát hành Bát Nhã thậm thâm mà chấp trước vào các pháp, nói đây là pháp, pháp đây thuộc kia, thời chẳng thể tùy ý dẫn phát được công đức an trụ thắng diệu.

 

Lại nữa, này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát hành Bát Nhã thậm thâm, không quán sắc là thường hay vô thường, là vui hay khổ, là ngã hay vô ngã, là tịnh hay bất tịnh, là không hay bất không, là viễn ly hay không viễn ly. Cho đến không quán Nhất thiết trí trí là thường hay vô thường, là vui hay khổ, là ngã hay vô ngã, là tịnh hay bất tịnh, là không hay bất không, là viễn ly hay không viễn ly. Đại Bồ Tát ấy không quán tất cả pháp như vậy thì có thể dẫn phát Bát nhã Ba la mật, cho đến có thể dẫn phát Nhất thiết trí trí. Vì sao? Vì nếu đại Bồ Tát hành Bát Nhã thậm thâm quán sát các pháp là thường hay vô thường, là vui hay khổ, là ngã hay vô ngã, v.v... thời chẳng thể tùy ý dẫn phát được công đức an trụ thắng diệu.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu các đại Bồ Tát hành Bát Nhã thậm thâm tức là hành bố thí Ba la mật. Nói rộng cho đến cũng tu hành Nhất thiết trí trí.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Bát Nhã thậm thâm đi chỗ nào thì tất cả Ba la mật và tất cả Bồ đề phần pháp đều đi theo. Nếu Bát Nhã thậm thâm đến đâu thì tất cả Ba la mật và tất cả Bồ đề phần pháp khác cũng đến đó. Giống như Chuyển luân vương đi đâu thì đều có bốn bộ quân dũng mãnh tùy tùng theo sau. Nếu Chuyển luân vương đến đâu thì đều có bốn bộ quân theo đến. Bát Nhã thậm thâm cũng như vậy, đi đâu, đến đâu thì năm Ba la mật: Bố thí, tịnh giới v.v... và các Bồ đề phần pháp khác đều đi theo, hoàn toàn đạt đến Nhất thiết trí trí. Giống như người điều phục giỏi, điều phục xe tứ mã tránh xa đường hiểm, đi vào đường chánh, đều theo ý muốn mà đi đến nơi đến chốn. Cũng vậy, Bát Nhã thậm thâm này điều phục rất giỏi tất cả Ba la mật và tất cả Bồ đề phần pháp khác, để tránh xa con đường nguy hiểm sanh tử, mà đi trên đường chân chánh, tự lợi, lợi tha để đạt đến chỗ mong cầu là Nhất thiết trí trí.

 

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát làm sao biết được đạo hay phi đạo?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Đạo của phàm phu, đạo của Thanh văn, Độc giác chẳng phải là đạo của đại Bồ Tát, vì nương vào đó không thể đến Nhất thiết trí trí. Bát Nhã thậm thâm dẫn phát năm Ba la mật trước và tất cả Bồ đề phần pháp là đạo của các Bồ Tát, bởi vì nương vào đó thì chắc chắn có thể đạt đến Nhất thiết trí trí.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thậm thâm xuất hiện trên thế gian là một đại sự. Gọi đó là thị hiện tướng đạo, phi đạo của chúng đại Bồ Tát, để các đại Bồ Tát ấy biết đạo hay phi đạo mà mau chóng chứng đắc Nhất thiết trí trí?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như lời ngươi đã nói! Bát Nhã thậm thâm xuất hiện trên thế gian là một đại sự. Gọi đó là thị hiện tướng đạo, phi đạo của các đại Bồ Tát, để các đại Bồ Tát ấy biết đạo hay phi đạo mà mau chóng chứng đắc Nhất thiết trí trí.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Bát Nhã thậm thâm xuất hiện ở đời là một việc lớn. Nghĩa là độ thoát vô lượng, vô số, vô biên hữu tình để đạt được lợi ích an lạc thù thắng.

 

Thiện Hiện nên biết! Bát Nhã thậm thâm mặc dù làm ra vô lượng việc lợi lạc cho người, nhưng không chấp đắm vào đó.

Thiện Hiện nên biết! Bát Nhã thậm thâm mặc dù thị hiện làm sự nghiệp nhưng không chấp đắm sắc, không chấp đắm thọ, tưởng, hành, thức, cho đến không chấp đắm Nhất thiết trí trí. Tuy cũng thường thị hiện làm sự nghiệp của Thanh văn Độc giác, mà đối việc đó cũng không chấp đắm.

Thiện Hiện nên biết! Bát Nhã thậm thâm mặc dù dẫn đầu tất cả chúng đại Bồ Tát hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, xa lìa địa vị Thanh văn, Độc giác, nhưng đối với các pháp thì không sanh, không diệt, vì lấy tánh của pháp trụ làm định lượng.

 

Thiện Hiện bạch Phật:

- Nếu Bát Nhã thậm thâm đối tất cả pháp vô sanh vô diệt, Bồ Tát làm sao khi hành Bát Nhã, vì các hữu tình hành bố thí, trì tịnh giới, khởi an nhẫn, siêng tinh tấn, trụ tĩnh lự, tu Bát Nhã được?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát khi hành Bát Nhã thậm thâm duyên với Nhất thiết trí trí, vì các hữu tình nên hành bố thí được, trì tịnh giới, khởi an nhẫn, siêng tinh tấn, nhập tịnh lự, tu Bát Nhã được. Đại Bồ Tát ấy đem căn lành này bình đẳng ban cho các hữu tình, cùng nhau hồi hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Đại Bồ Tát ấy đem căn lành này hồi hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, tức là tu sáu pháp Ba la mật mau được viên mãn, cũng tu từ, bi, hỷ, xả của Bồ Tát mau được viên mãn. Nhờ vậy, mau đắc Nhất thiết trí trí, cho đến ngồi tòa Bồ đề không bao giờ xa lìa sáu pháp Ba la mật tức là không xa lìa Nhất thiết trí trí.

Cho nên, này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát muốn mau chứng đắc Nhất thiết trí trí thì phải siêng năng tinh tấn tu sáu pháp Ba la mật, phải siêng năng tinh tấn hành sáu pháp Ba la mật. Nếu đại Bồ Tát thường siêng năng tinh tấn tu hành sáu pháp Ba la mật như vậy, thì tất cả căn lành mau được viên mãn, mau chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Cho nên, này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát luôn luôn tương ưng với sáu pháp Ba la mật không được tạm rời. (Q.524, ĐBN)

 

C thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Làm thế nào để đại Bồ Tát luôn luôn tương ưng với sáu pháp Ba la mật không được rời nhau?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát như thật quán sắc chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, như thật quán thọ, tưởng, hành, thức chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng. Nói rộng, cho đến như thật quán Nhất thiết trí trí chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng. Đại Bồ Tát ấy luôn tương ưng với sáu pháp Ba la mật không bao giờ rời nhau.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát luôn nghĩ: Ta không nên trụ vào sắc, cũng không nên trụ vào phi sắc. Nói rộng, cho đến ta không nên trụ vào Nhất thiết trí trí, cũng không nên trụ vào phi Nhất thiết trí trí. Vì sao? Vì sắc chẳng phải trụ, chẳng phải do trụ. Nói rộng, cho đến Nhất thiết trí trí cũng chẳng phải trụ, chẳng phải do trụ. Như vậy, Đại Bồ Tát ấy luôn tương ưng với sáu pháp Ba la mật không bao giờ rời nhau.

Thiện Hiện nên biết! Nếu đại Bồ Tát dùng phương tiện vô trụ ấy tu hành sáu pháp Ba la mật thì đại Bồ Tát ấy mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Thiện Hiện nên biết! Như người muốn ăn quả xoài, quả na, trước tiên phải lấy hạt của nó trồng ở ruộng đất tốt, theo thời gian chăm bón, săn sóc v.v… lần lần nó phát triển mầm chồi, thân, cành, lá. Gặp thời tiết hòa hợp nó trổ hoa, kết trái. Sau khi quả chín, hái ăn.

Như vậy, này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát muốn đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, trước tiên phải học sáu pháp Ba la mật. Lại đem bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự để giúp đỡ các hữu tình. Giúp đỡ họ rồi, dạy bảo họ an trụ vào bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật, khiến họ an trụ vào Bồ đề phần pháp như tứ niệm trụ, tứ chánh cần, v.v… Sau khi an trụ, được giải thoát tất cả khổ lớn sanh tử, chứng đắc an lạc thường trụ tịch tĩnh. Bồ Tát ấy sẽ đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, đến tận đời vị lai luôn làm lợi ích cho tất cả.

Cho nên, này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát đối với các pháp không muốn nhờ vào duyên khác mà là tự khai ngộ, muốn thành thục các hữu tình, muốn trang nghiêm cõi Phật, muốn an ổn ngồi tòa Bồ đề vi diệu, muốn chinh phục ác ma, muốn mau chứng đắc Nhất thiết trí trí, muốn chuyển pháp luân độ chúng hữu tình thì nên học sáu pháp Ba la mật, dùng bốn nhiếp pháp làm phương tiện để nhiếp dẫn các loài hữu tình, giúp họ giải thoát các khổ sanh tử. Bồ Tát như thế thường nên siêng năng tinh tấn tu học Bát nhã Ba la mật. (Q.524, ĐBN)

 

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Phật dạy Bồ Tát phải nên siêng năng tinh tấn tu học Bát nhã Ba la mật phải không?

Phật dạy

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Ta nói Bồ Tát phải nên siêng năng tu học Bát nhã Ba la mật.

Thiện Hiện nên biết! Các đại Bồ Tát đối với tất cả pháp muốn được tự tại thì nên học Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Vì Bát Nhã thậm thâm có đầy đủ oai lực lớn, có thể làm cho các đại Bồ Tát được tự tại đối với tất cả pháp.

Thiện Hiện nên biết! Bát Nhã thậm thâm là cửa ngõ mà các pháp lành hướng đến. Ví như biển lớn là cửa của tất cả dòng nước chảy về.

Cho nên, này Thiện Hiện! Hoặc thiện nam thiện nữ Thanh văn thừa, hoặc thiện nam thiện nữ Độc giác thừa, hoặc thiện nam thiện nữ Bồ Tát thừa, đều phải siêng năng tu học Bát Nhã thậm thâm này.

Thiện Hiện nên biết! Khi các đại Bồ Tát siêng năng tinh tấn tu học Bát Nhã thậm thâm này thì cũng phải siêng năng tinh tấn tu học bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Cho đến siêng năng tinh tấn tu học Nhất thiết trí trí.

Thiện Hiện nên biết! Ví như người bắn giỏi, mặc áo giáp kiên cố, cầm cung tên tốt không sợ kẻ thù. Cũng vậy, các đại Bồ Tát giữ gìn phương tiện thiện xảo Bát nhã Ba la mật, nói rộng cho đến Nhất thiết trí trí, làm cho quân ma, ngoại đạo và những luận phái khác không thể nào thắng được.

Cho nên, này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát muốn chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, chuyển pháp luân vi diệu, độ chúng hữu tình thì phải siêng năng tinh tấn tu học Bát nhã Ba la mật. Nếu đại Bồ Tát thường siêng năng tinh tấn tu học Bát nhã Ba la mật, thì được chư Phật Thế Tôn ở quá khứ, vị lai, hiện tại luôn luôn hộ niệm. (Q. 524, ĐBN)

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ Tát thường siêng năng tinh tấn tu học Bát Nhã thậm thâm, được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại cùng hộ niệm?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát thường siêng năng tinh tấn tu học Bát Nhã thậm thâm, tức là tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật, nói rộng cho đến Nhất thiết trí trí, nên được chư Phật Thế Tôn quá khứ, vị lai, hiện tại cùng hộ niệm.

 

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát ấy tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật, nói rộng cho đến Nhất thiết trí trí như thế nào để được chư Phật Thế Tôn quá khứ, vị lai, hiện tại cùng hộ niệm?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Khi đại Bồ Tát ấy tu hành bố thí Ba la mật, nói rộng cho đến Nhất thiết trí trí; quán bố thí Ba la mật, nói rộng cho đến Nhất thiết trí trí đều bất khả đắc, nên được chư Phật Thế Tôn quá khứ, vị lai, hiện tại cùng hộ niệm.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại mặc dù thường hộ niệm đại Bồ Tát ấy nhưng không lấy sắc, thọ, tưởng, hành, thức, nói rộng cho đến Nhất thiết trí trí để dẫn phát hộ niệm, vì sắc cho đến Nhất thiết trí trí bất khả đắc. (Q.524, ĐBN)

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát mặc dù có nhiều thcần để học(1)nhưng không thấy có sở học?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Các đại Bồ Tát mặc dù có nhiều th cần để học nhưng không có shọc. Vì sao? Vì thật sự không có pháp nào để chúng đại Bồ Tát tu học.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Phật nói lược hay giảng rộng tương ưng với sáu pháp Ba la mật cho chúng đại Bồ Tát? Nếu đại Bồ Tát muốn chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, chuyển diệu pháp luân, độ chúng hữu tình, đối với pháp tương ưng với sáu pháp Ba la mật này, dù tóm lược hay giảng rộng, phải đều lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, để được thông suốt. Thông suốt rồi tư duy đúng lý. Sau khi tư duy phải quán sát rõ ràng, đúng đắn. Quán sát làm cho tâm và tâm sở đối với tướng sở duyên đều không bị lay động.

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như lời ngươi đã nói!

Lại nữa, này Thiện Hiện! Đối với các pháp tương ưng với sáu Ba la mật mà Phật Thế Tôn đã nói dù tóm lược hay giảng rộng, các đại Bồ Tát đều phải siêng năng tu học, phải như thật biết rõ về tướng rộng hẹp của các pháp.

 

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát làm thế nào để như thật biết rõ về tướng rộng hẹp của các pháp?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát như thật biết rõ tướng sắc như (tướng chơn như của sắc), như thật biết rõ tướng thọ, tưởng, hành, thức như. Nói rộng, cho đến như thật biết rõ tướng Nhất thiết trí trí như thì đại Bồ Tát ấy như thật biết rõ về tướng rộng hẹp của các pháp.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng sắc như? Thế nào là tướng thọ, tưởng, hành, thức như? Nói rộng, cho đến thế nào là tướng Nhất thiết trí trí như để các đại Bồ Tát như thật biết rõ mà học, như thật biết rõ tướng rộng hẹp của các pháp?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Sắc như không sanh không diệt, cũng không trụ khác mà khá thi thiết (giả lập), đấy gọi tướng sắc như. Tướng thọ tưởng hành thức như không sanh không diệt, cũng không trụ khác mà khá thi thiết, đấy gọi tướng thọ tưởng hành thức như. Cho đến tướng Nhất thiết trí trí như không sanh không diệt, cũng không trụ khác mà khá thi thiết, đấy gọi tướng Nhất thiết trí trí như. Các Bồ Tát biết rõ như thật và học trong đó thì có thể biết rõ như thật tướng rộng hẹp của các pháp.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát như thật rõ biết tướng sắc thật tế, tướng thọ tưởng hành thức thật tế; cho đến như thật biết rõ tướng Nhất thiết trí trí thật tế. Bồ Tát này đối tất cả pháp như thật biết rõ tướng rộng hẹp. (Q.524, ĐBN)

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng sắc thật tế? Thế nào là tướng thọ, tưởng, hành, thức thật tế? Nói rộng, cho đến thế nào là tướng Nhất thiết trí trí thật tế để các đại Bồ Tát như thật biết rõ mà tu học, để như thật biết rõ tướng rộng hẹp của các pháp?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Sắc không biên giới (ngằn mé), gọi là tướng sắc thật tế. Thọ, tưởng, hành, thức không biên giới, gọi là tướng thọ, tưởng, hành, thức thật tế. Nói rộng, cho đến Nhất thiết trí trí không biên giới, gọi là tướng Nhất thiết trí trí thật tế. Các đại Bồ Tát như thật biết rõ để học, như thật biết rõ về tướng rộng hẹp của các pháp.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát như thật biết rõ tướng sắc pháp giới, như thật biết rõ tướng thọ, tưởng, hành, thức pháp giới. Nói rộng, cho đến như thật biết rõ tướng Nhất thiết trí trí pháp giới. Đại Bồ Tát ấy như thật biết rõ tướng rộng hẹp của các pháp.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng sắc pháp giới? Thế nào là tướng thọ, tưởng, hành, thức pháp giới? Nói rộng, cho đến thế nào là tướng Nhất thiết trí trí pháp giới để các đại Bồ Tát như thật biết rõ mà học, để như thật biết rõ tướng rộng hẹp của các pháp?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Sắc như hư không, không chướng ngại, không sanh, không diệt, không đứt không nối mà khá thi thiết, đấy gọi tướng sắc pháp giới. Thọ, tưởng, hành, thức như hư không, không chướng ngại, không sanh, không diệt, không đứt không nối mà khá thi thiết, đấy gọi tướng sắc pháp giới. Nói rộng, cho đến Nhất thiết trí trí như hư không, không chướng không ngại, không sanh không diệt, không dứt không nối mà khá thi thiết, đấy gọi tướng Nhất thiết trí trí pháp giới. Các Bồ Tát như thật biết rõ như thật và học trong đó thì có thể biết rõ như thật tướng rộng hẹp của các pháp.

 

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát làm thế nào để biết tướng rộng hẹp của tất cả pháp?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát như thật biết rõ về tất cả pháp không hợp, không tan thì đại Bồ Tát ấy sẽ biết tướng rộng hẹp của tất cả pháp.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Tất cả pháp không hợp, không tan là những pháp nào?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Sắc không hợp, không tan; thọ, tưởng, hành, thức không hợp, không tan. Nói rộng, cho đến Nhất thiết trí trí không hợp, không tan. Tham dục, sân hận, ngu si không hợp, không tan. Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới không hợp, không tan. Cảnh giới hữu vi, cảnh giới vô vi không hợp, không tan. Vì sao? Vì các pháp ấy không có tự tánh. Nếu không có tự tánh thì vô sở hữu. Nếu vô sở hữu thì không thể nói có hợp có tan. Các đại Bồ Tát biết rõ tất cả pháp như vậy thì biết rõ tướng rộng hẹp của tất cả pháp. (Q.524, ĐBN)

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Như vậy, gọi là Bát nhã Ba la mật được lược nhiếp. Các đại Bồ Tát học trong đó có thể làm được nhiều việc. Bát nhã Ba la mật lược nhiếp như vậy, chúng tân học Bồ Tát cần nên học, cho đến đại Bồ Tát trụ địa thứ mười (Pháp vân địa) cũng phải siêng năng tinh tấn tu học. Nếu đại Bồ Tát luôn siêng năng tu học Bát nhã Ba la mật lược nhiếp như vậy thì có thể như thật biết tướng rộng hẹp của tất cả pháp. (Q.525, ĐBN)

Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật lược nhiếp là pháp môn vi diệu, chỉ có chúng đại Bồ Tát lợi căn mới có thể ngộ nhập được phải không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Pháp môn ấy, hàng đại Bồ Tát căn lanh lợi, căn trung bình hay ám độn v.v… đều có thể ngộ nhập pháp môn ấy không bị chướng ngại. Các đại Bồ Tát căn định hay bất định, nếu chuyên tâm tu học thì cũng đều ngộ nhập.

Thiện Hiện nên biết! Pháp môn ấy rất vi diệu thanh tịnh. Những người biếng nhác, ít tinh tấn, mất chánh niệm, tâm tán loạn, tu tập ác tuệ thì không thể ngộ nhập được. Còn những ai không giải đãi, luôn tinh tấn, đầy đủ chánh niệm, khéo nhiếp tâm, tu tập diệu tuệ mới có thể ngộ nhập.

Thiện Hiện nên biết! Nếu đại Bồ Tát muốn trụ vào hàng Bồ Tát Bất thối chuyển, lần lượt đến địa thứ mười thì phải siêng năng dùng mọi phương tiện để nhập vào pháp môn này. Nếu đại Bồ Tát muốn mau chứng đắc Nhất thiết trí trí, phải siêng năng phương tiện nhập vào pháp môn này.

Thiện Hiện nên biết! Nếu đại Bồ Tát theo học những gì đã nói trong Kinh điển Bát Nhã sâu xa này thì đại Bồ Tát đó có thể học bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật. Cũng có thể học pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không. Cũng có thể học chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì. Nói rộng ra, cũng có thể học tất cả pháp Phật từ tứ Thánh đế cho đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Cũng có thể học Nhất thiết trí trí. Sau khi đại Bồ Tát ấy đã học như vậy rồi có thể chứng đắc bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật, nói rộng cho đến Nhất thiết trí trí. (Q.525, ĐBN)

Thiện Hiện nên biết! Nếu đại Bồ Tát học theo những gì đã nói trong Kinh điển Bát Nhã sâu xa này thì nếu có tất cả ma sự xảy ra đại Bồ Tát ấy đều giác tri, nên vừa sanh khởi liền bị diệt ngay.

Cho nên, này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát muốn mau diệt trừ tất cả nghiệp chướng, muốn gìn giữ phương tiện thiện xảo thì phải học Bát nhã Ba la mật.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ Tát siêng năng tu tập Bát nhã Ba la mật thì đại Bồ Tát liền được tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hiện tại đang thuyết chánh pháp ở vô lượng, vô biên thế giới cùng hộ niệm. Vì sao? Vì chư Phật ở quá khứ, vị lai, hiện tại đều từ Bát Nhã sâu xa này mà sanh ra.

Cho nên, này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát hành Bát nhã Ba la mật nên nghĩ như vầy: Pháp mà chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại đã chứng đắc, ta cũng sẽ chứng đắc.

Như vậy, này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát phải siêng năng tu học Bát Nhã sâu xa. Nếu siêng năng tu học Bát Nhã thì mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Cho nên, này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát không nên xa lìa tác ý tương ưng với Nhất thiết trí trí mà hành Bát Nhã sâu xa.

Thiện Hiện nên biết! Nếu đại Bồ Tát đối với Bát Nhã sâu xa, tùy thuận tu hành, dù trong khảy móng tay, thì đại Bồ Tát ấy đạt được phước đức rất nhiều. Giả sử có người dùng phương tiện thiện xảo giáo hóa tất cả hữu tình trong Tam thiên đại thiên thế giới đều khiến họ an trụ vào bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật; hoặc khiến họ an trụ vào thanh tịnh giải thoát, giải thoát trí kiến; hoặc khiến họ an trụ vào quả Dự lưu cho đến A la hán, hoặc khiến họ an trụ vào Độc giác Bồ đề. Người ấy mặc dù được phước đức nhiều vô lượng, nhưng vẫn không bằng phước đức của người tùy thuận tu hành Kinh điển Bát Nhã sâu xa chỉ trong khảy móng tay. Vì sao? Vì Bát Nhã có thể sanh tất cả bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự; có thể sanh tất cả thanh tịnh giải thoát, giải thoát trí kiến; có thể sanh tất cả quả Dự lưu cho đến A la hán, có thể sanh tất cả Độc giác Bồ đề. Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại đều từ Bát Nhã mà được xuất hiện, độ thoát vô lượng, vô biên hữu tình. (Q.524, ĐBN)

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát không lìa tác ý tương ưng với Nhất thiết trí trí mà hành Bát Nhã sâu xa trong chừng chốc lát, hoặc trải qua nửa ngày, một ngày, nửa tháng, một tháng, một mùa, một năm, trăm năm, một kiếp, trăm kiếp, cho đến vô số đại kiếp, thì phước đức đại Bồ Tát ấy đạt được nhiều hơn phước đức của người giáo hóa các loài hữu tình trong hằng hà sa thế giới khắp mười phương, khiến họ an trụ vào bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật; hoặc khiến họ an trụ vào thanh tịnh giải thoát, giải thoát trí kiến; khiến họ an trụ vào quả Dự lưu cho đến A la hán; khiến họ an trụ vào Độc giác Bồ đề. Vì sao? Vì Bát Nhã sâu xa sanh ra tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác quá khứ, vị lai, hiện tại, vì các hữu tình thi thiết bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật không điên đảo; thi thiết sự thanh tịnh giải thoát, giải thoát trí kiến không điên đảo; thi thiết quả Dự lưu cho đến A la hán không điên đảo, thi thiết quả Độc giác Bồ đề không điên đảo, thi thiết quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề không điên đảo, phước đức này hơn hẳn phước kia.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát y chỉ Bát Nhã sâu xa đã nói mà trụ, thì nên biết, đại Bồ Tát ấy đã an trụ địa vị Bất thối chuyển, thường được chư Phật hộ niệm, thành tựu phương tiện thiện xảo tối thắng. Vị ấy đã từng gần gũi cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen vô lượng triệu ức Phật. Đã gieo trồng vô lượng căn lành thắng diệu đối với chư Phật. Đã được vô lượng thiện hữu chơn tịnh bảo vệ. Từ lâu đã tu tập sáu pháp Ba la mật như bố thí, trì giới v.v…, nói rộng cho đến Nhất thiết trí trí.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ Tát ấy trụ vào địa vị Đồng chơn, tất cả sự nguyện cầu đều được viên mãn, luôn gặp chư Phật không bao giờ tạm rời, không bao giờ xa lìa các căn lành, luôn thành thục các hữu tình, thường trang nghiêm cõi Phật. Từ cõi Phật này đến cõi Phật khác luôn cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen chư Phật Thế Tôn, nghe và thọ trì giáo pháp của Bồ Tát thừa.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ Tát ấy đã đắc vô đoạn vô tận biện tài, đã đắc pháp môn Đà la ni thù thắng, thành tựu sắc thân vi diệu tối thượng. Đã được chư Phật thọ ký viên mãn, tùy theo sở thích mà vì các hữu tình thọ các loại thân, đều được tự tại. (Q. 525, ĐBN)

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ Tát ấy khéo nhập sở duyên, khéo nhập hành tướng. Khéo nhập tất cả môn của chữ, hoặc chẳng phải chữ, khéo nhập pháp nghĩa của hữu ngôn, vô ngôn. Khéo nhập một ngôn ngữ, khéo nhập hai ngôn ngữ, khéo nhập nhiều ngôn ngữ. Khéo nhập ngôn ngữ nữ, khéo nhập ngôn ngữ nam, khéo nhập ngôn ngữ chẳng nữ chẳng nam. Khéo nhập các pháp quá khứ, vị lai, hiện tại. Khéo nhập các văn, khéo nhập các nghĩa. Khéo nhập các uẩn, khéo nhập các xứ, khéo nhập các giới. Khéo nhập duyên khởi và chi duyên khởi. Khéo nhập thế gian, khéo nhập Niết bàn. Khéo nhập tướng pháp giới, khéo nhập tướng hữu vi, khéo nhập tướng vô vi. Khéo nhập hành tướng, khéo nhập phi hành tướng. Khéo nhập tướng của tướng, khéo nhập tướng của phi tướng. Khéo nhập hữu tánh, khéo nhập vô tánh, khéo nhập tự tánh, khéo nhập tha tánh. Khéo nhập trói buộc, khéo nhập tháo bỏ, khéo nhập trói mở. Khéo nhập tương ưng, khéo nhập không tương ưng. Khéo nhập tương ưng không tương ưng. Khéo nhập chơn như, khéo nhập tánh chẳng hư vọng, khéo nhập tánh chẳng đổi khác. Khéo nhập pháp tánh, khéo nhập pháp giới, khéo nhập pháp định, khéo nhập pháp trụ. Khéo nhập tánh nhơn, khéo nhập tánh phi nhơn. Khéo nhập tánh của duyên, khéo nhập tánh phi duyên. Khéo nhập Thánh đế. Khéo nhập tịnh lự, khéo nhập vô lượng, khéo nhập vô sắc. Khéo nhập bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Nói rộng ra, khéo nhập tất cả pháp Phật từ bốn niệm trụ cho đến Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Khéo nhập cảnh giới hữu vi, khéo nhập cảnh giới vô vi. Khéo nhập cảnh giới, khéo nhập phi cảnh giới. Khéo nhập Không, khéo nhập bất Không. Khéo nhập tác ý sắc cho đến tác ý thức, nói rộng cho đến khéo nhập tác ý Nhất thiết trí trí. Khéo nhập sắc tướng Không cho đến thức tướng Không, nói rộng cho đến khéo nhập Nhất thiết trí trí tướng Không. Khéo nhập đạo khinh an, khéo nhập đạo không khinh an. Khéo nhập vào sanh, khéo nhập vào diệt, khéo nhập vào trụ, dị. Khéo nhập chánh kiến, khéo nhập tà kiến. Khéo nhập kiến, khéo nhập phi kiến. Khéo nhập tham, sân, si. Khéo nhập vô tham, vô sân, vô si. Khéo nhập kiến chấp tùy miên kiết sử, khéo nhập sự đoạn diệt của chúng. Khéo nhập danh, khéo nhập sắc, khéo nhập danh sắc. Khéo nhập sở duyên duyên, khéo nhập tăng thượng duyên, khéo nhập nhân duyên, khéo nhập đẳng vô gián duyên. Khéo nhập hành tướng, khéo nhập nhân quả. Khéo nhập khổ, tập, diệt, đạo. Khéo nhập năm đường, khéo nhập đạo của năm đường. Khéo nhập quả Dự lưu và đạo của quả Dự lưu, cho đến khéo nhập quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề và đạo của quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Khéo nhập Nhất thiết trí và đạo của Nhất thiết trí, khéo nhập Đạo tướng trí và đạo của Đạo tướng trí, khéo nhập Nhất thiết tướng trí và đạo của Nhất thiết tướng trí. Khéo nhập căn và căn viên mãn, khéo nhập căn thắng liệt. Khéo nhập huệ, khéo nhập tập huệ, khéo nhập lợi (bén nhạy) huệ, khéo nhập tốc (nhanh) huệ, khéo nhập lực (mạnh) huệ, khéo nhập đạt (thắng lợi) huệ, khéo nhập quảng (rộng lớn) huệ, khéo nhập thâm (sâu) huệ, khéo nhập đại (to lớn) huệ, khéo nhập vô đẳng (không gì bằng) huệ, khéo nhập chơn thật huệ, khéo nhập trân bảo huệ. Khéo nhập quá khứ, vị lai, hiện tại. Khéo nhập phương tiện. Khéo nhập ý lạc, ý lạc tăng thượng. Khéo nhập văn nghĩa. Khéo nhập phương tiện an lập của Tam thừa.

Thiện Hiện nên biết! Nếu đại Bồ Tát hành Bát Nhã sâu xa, dẫn phát Bát Nhã, tu Bát Nhã thì đạt được vô lượng, vô biên công đức thù thắng như vậy. (Q.525, ĐBN)

 

(Đoạn Kinh sau đây nói về: Hành, Dẫn và Tu Bát Nhã)

 

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Các đại Bồ Tát hành Bát Nhã sâu xa như thế nào? Dẫn phát Bát Nhã như thế nào? Tu Bát Nhã như thế nào?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát nên quán sắc uẩn cho đến thức uẩn là tịch tĩnh, có thể hủy hoại, chẳng tự tại, thể hư ngụy, không bền chắc, nên hành Bát Nhã sâu xa. Nói rộng, cho đến nên quán Nhất thiết trí trí là tịch tĩnh, có thể hủy hoại, chẳng tự tại, thể hư ngụy, không bền chắc, nên hành Bát Nhã sâu xa.

Này Thiện Hiện! Ngươi hỏi các đại Bồ Tát dẫn phát Bát Nhã sâu xa như thế nào? Các đại Bồ Tát dẫn phát Bát Nhã sâu xa như dẫn phát cái không của hư không.

Này Thiện Hiện! Ngươi hỏi các đại Bồ Tát tu Bát Nhã sâu xa như thế nào? Các đại Bồ Tát tu Bát Nhã sâu xa như tu hạnh trừ khiển tất cả pháp.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát hành Bát Nhã sâu xa, dẫn phát Bát Nhã sâu xa và tu Bát Nhã sâu xa phải mất bao lâu?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát từ lúc mới phát tâm cho đến lúc ngồi tòa Bồ đề, trong suốt thời gian đó, nên hành, nên dẫn, nên tu Bát Nhã sâu xa.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát trụ vào những tâm nào để việc hành, dẫn, tu Bát Nhã sâu xa không bị gián đoạn?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát từ lúc mới phát tâm cho đến cứu cánh không dung chứa những tác ý nào khác dù chỉ tạm thời, chỉ luôn luôn an trụ vào tác ý tương ưng với Nhất thiết trí trí, nên hành, nên dẫn, nên tu Bát Nhã sâu xa.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ Tát ấy cho đến khiến tâm và tâm sở không lay chuyển đối với cảnh, mới được gọi là hành, dẫn, tu Bát Nhã sâu xa.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát đối Bát Nhã sâu xa vì hành vì dẫn vì tu có đắc Nhất thiết trí trí chăng?

- Thiện Hiện! Không!

- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát đối Bát Nhã sâu xa vì chẳng hành chẳng dẫn chẳng tu có đắc Nhất thiết trí trí chăng?

- Thiện Hiện! Không!

- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát đối Bát Nhã sâu xa vì cũng hành cũng dẫn cũng tu, cũng chẳng hành chẳng dẫn chẳng tu có đắc Nhất thiết trí trí chăng?

- Thiện Hiện! Không!

- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát đối Bát Nhã sâu xa vì chẳng hành chẳng dẫn chẳng tu, chẳng phải chẳng hành chẳng phải chẳng dẫn chẳng phải chẳng tu có được Nhất thiết trí trí chăng?

- Thiện Hiện! Không!

Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát như vậy làm sao đắc Nhất thiết trí trí?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát đắc Nhất thiết trí trí phải như chơn như.

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là phải như chơn như?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Phải như thật tế.

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là phải như thật tế?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Phải như pháp giới.

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là phải như pháp giới?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Như cảnh giới của ngã, cảnh giới của hữu tình, của mạng giả, sanh giả, dưỡng giả, sĩ phu, Bổ đặc già la.

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là phải như ngã giới cho đến Bổ đặc già la giới?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Ý ngươi thế nào? Ngã cho đến Bổ đặc già la có thể đắc không?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Không!

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Nếu ngã cho đến Bổ đặc già la đã bất khả đắc, Ta làm sao khá thi thiết ngã giới cho đến Bổ đặc già la giới?

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát chẳng thi thiết Bát nhã Ba la mật, cũng chẳng thi thiết Nhất thiết trí trí, cũng chẳng thi thiết tất cả pháp, đại Bồ Tát này nhất định sẽ chứng được Nhất thiết trí trí.

 

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Chỉ có Bát nhã Ba la mật không thể thi thiết, hay các Ba la mật như bố thí, tịnh giới v.v… cũng không thể thi thiết?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Không những Bát nhã Ba la mật không thể thi thiết mà các Ba la mật như bố thí, tịnh giới v.v… cũng không thể thi thiết. Hoặc pháp của Thanh văn, pháp của Độc giác, pháp của Bồ Tát, pháp của chư Phật, pháp hữu vi, pháp vô vi v.v… tất cả pháp ấy đều không thể thi thiết.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp đều không thể thi thiết, vậy tại sao thi thiết đây là địa ngục, đây là bàng sanh, đây là ngạ quỷ, đây là người, đây là trời, đây là Dự lưu, đây là Nhất lai, đây là Bất hoàn, đây là A la hán, đây là Độc giác, đây là Bồ Tát, đây là chư Phật, đây là tất cả pháp?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Thi thiết hữu tình và thi thiết pháp thật khá đắc chăng?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Nếu thi thiết hữu tình và thi thiết pháp thật chẳng khá được, thì Ta làm sao khá thi thiết đây địa ngục, đây bàng sanh, đây quỷ giới, đây người, đây trời, đây Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, đây Độc giác, đây Bồ Tát, đây Như Lai, đây tất cả pháp. Thiện Hiện! Các Bồ Tát khi hành Bát Nhã thẳm sâu, nên học tất cả pháp đều chẳng thể thi thiết (an lập) thì mới có thể đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

 

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Khi các đại Bồ Tát hành Bát Nhã sâu xa, chẳng lẽ không nên học sắc, chẳng lẽ không nên học thọ, tưởng, hành, thức. Nói rộng, cho đến chẳng lẽ không nên học Nhất thiết trí trí?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Khi các đại Bồ Tát hành Bát Nhã sâu xa nên học sắc không tăng, không giảm, nên học thọ, tưởng, hành, thức không tăng, không giảm. Nói rộng, cho đến nên học Nhất thiết trí trí không tăng, không giảm.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát hành Bát Nhã nên học sắc không tăng, không giảm như thế nào, nên học thọ, tưởng, hành, thức không tăng, không giảm như thế nào? Nói rộng, cho đến nên học Nhất thiết trí trí không tăng, không giảm như thế nào?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Khi các đại Bồ Tát hành Bát Nhã nên lấy vô sanh, vô diệt để học sắc, nên lấy vô sanh, vô diệt để học thọ, tưởng, hành, thức. Nói rộng, cho đến nên lấy vô sanh, vô diệt để học Nhất thiết trí trí.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Khi các đại Bồ Tát hành Bát Nhã làm thế nào lấy vô sanh, vô diệt để học sắc, làm thế nào lấy vô sanh, vô diệt để học thọ, tưởng, hành, thức? Nói rộng, cho đến làm thế nào lấy vô sanh, vô diệt để học Nhất thiết trí trí?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Các Bồ Tát khi hành Bát Nhã thẳm sâu nên đối sắc chẳng khởi chẳng tác các hành hoặc tu hoặc khiển mà học.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Khi các đại Bồ Tát hành Bát Nhã, vì sao nên học chẳng khởi chẳng tác các hành hoặc tu hoặc khiển mà học?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Các Bồ Tát khi hành Bát Nhã thẳm sâu nên quán tất cả pháp tự tướng đều không, đối sắc chẳng khởi chẳng tác các hành hoặc tu hoặc khiển mà học. Nên quán tất cả pháp tự tướng đều không, đối thọ tưởng hành thức chẳng khởi chẳng tác các hành hoặc tu hoặc khiển mà học. Như vậy, cho đến nên quán tất cả pháp tự tướng đều không, đối Nhất thiết trí trí hoặc chẳng khởi chẳng tác các hành, hoặc tu hoặc khiển mà học. (Q.525, ĐBN)

 

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Khi các đại Bồ Tát hành Bát Nhã quán tự tướng của tất cả pháp đều Không như thế nào?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát khi hành Bát Nhã thậm thâm nên quán sắc, do tướng sắc không; quán thọ tưởng hành thức, do tướng thọ tưởng hành thức không. Nói rộng, cho đến nên quán chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, do tướng chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề không. Nên quán Nhất thiết trí trí, do tướng Nhất thiết trí trí không.

Này Thiện Hiện! Như vậy là các đại Bồ Tát hành Bát Nhã nên quán tự tướng của các pháp đều Không. (Q.525, ĐBN)

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Nếu sắc do tướng sắc không; thọ tưởng hành thức, do tướng thọ tưởng hành thức không. Nói rộng, cho đến chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, do tướng chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề không. Nhất thiết trí trí, do tướng Nhất thiết trí trí không, đại Bồ Tát làm sao hành Bát Nhã sâu xa?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Nếu các đại Bồ Tát hoàn toàn vô sở hành thì đó là hành Bát Nhã.

 

(Hành hữu sở đắc và vô sở đắc)

 

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vì sao mà đại Bồ Tát hoàn toàn vô sở hành, đó là hành Bát Nhã?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Do Bát Nhã sâu xa bất khả đắc, các đại Bồ Tát cũng bất khả đắc, sở hành cũng bất khả đắc, người hành, do đây mà hành, thời hành, chỗ hành đều bất khả đắc.

Cho nên, này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát hoàn toàn vô sở hành, đó là hành Bát Nhã sâu xa, vì trong đó tất cả hý luận đều bất khả đắc.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Nếu đại Bồ Tát hoàn toàn vô sở hành, thì đó là hành Bát Nhã, thì tân học Bồ Tát làm sao hành Bát Nhã?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Tân học Bồ Tát, từ lúc mới phát tâm, đối với tất cả pháp luôn luôn học vô sở đắc. Học như vậy xong, dùng vô sở đắc để làm phương tiện nên tu bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Nói rộng, cho đến dùng vô sở đắc làm phương tiện để tu Nhất thiết trí trí.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Sao gọi là hữu sở đắc? Sao gọi là vô sở đắc?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Cái gì có hai thì gọi là hữu sở đắc, không hai thì gọi là vô sở đắc.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Vì sao có hai thì gọi là hữu sở đắc? Vì sao không hai thì gọi là vô sở đắc?   

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Nhãn và sắc là hai, cho đến ý và pháp là hai, nói rộng cho đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật và chư Phật là hai. Tất cả có hý luận như vậy đều gọi là hai, mà hễ có hai thì đều có sở đắc. Phi nhãn và phi sắc là không hai, nói rộng cho đến phi ý, phi pháp là không hai cho đến phi quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, phi Phật là không hai. Tất cả lìa hý luận như vậy đều gọi là không hai, mà hễ không hai thì đều vô sở đắc.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Do hữu sở đắc nên vô sở đắc, hay do vô sở đắc nên vô sở đắc?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Chẳng phải do hữu sở đắc nên vô sở đắc, cũng chẳng phải do vô sở đắc nên vô sở đắc. Nhưng hữu sở đắc và vô sở đắc tánh đều bình đẳng, nên gọi là vô sở đắc.

Này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát nên siêng năng tu học trong tánh bình đẳng của hữu sở đắc và vô sở đắc như vậy.

Thiện Hiện nên biết! Khi các đại Bồ Tát học như vậy gọi là học nghĩa vô sở đắc Bát Nhã, thì xa lìa được các lỗi lầm.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Khi các đại Bồ Tát hành Bát Nhã, không chấp trước hữu sở đắc, không chấp trước vô sở đắc thì đại Bồ Tát ấy làm sao tu hành Bát Nhã, để có thể từ địa vị này tiến lên địa vị khác, lần lượt được viên mãn, nhờ đây chứng đắc Nhất thiết trí trí?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Khi các đại Bồ Tát hành Bát Nhã, chẳng trụ vào hữu sở đắc, chẳng trụ vào vô sở đắc để hành Bát Nhã thì có thể từ địa này tiến lên địa khác, từ từ được viên mãn cho đến chứng đắc Nhất thiết trí trí. Vì sao? Vì Bát Nhã vô sở đắc, Nhất thiết trí trí cũng vô sở đắc, người hành Bát Nhã, chỗ hành, thời hành cũng vô sở đắc. Vô sở đắc này cũng vô sở đắc nốt.

Thiện Hiện nên biết! Các đại Bồ Tát nên hành Bát nhã Ba la mật sâu xa như vậy.

 

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu Bát Nhã sâu xa bất khả đắc, Nhất thiết trí trí cũng bất khả đắc, người hành Bát Nhã, chốn hành, thời hành cũng bất khả đắc. Bất khả đắc này cũng bất khả đắc, vậy thì khi hành Bát Nhã sâu xa, vì sao các đại Bồ Tát ưa thích giản trạch (lựa chọn) tất cả pháp: Nói đây là sắc; đây là thọ, tưởng, hành, thức. Nói rộng, cho đến đây là quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, đây là Nhất thiết trí trí?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Khi các đại Bồ Tát hành Bát Nhã sâu xa, mặc dù ưa thích giản trạch các pháp nhưng không đắc sắc, không đắc thọ, tưởng, hành, thức cho đến không đắc Nhất thiết trí trí.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Khi các đại Bồ Tát hành Bát Nhã sâu xa, nếu không đắc sắc, không đắc thọ, tưởng, hành, thức, cho đến không đắc Nhất thiết trí trí thì làm sao có thể viên mãn sáu pháp Ba la mật? Nếu không viên mãn sáu pháp Ba la mật, thì làm sao có thể nhập vào địa vị Bồ Tát Chánh tánh ly sanh. Nếu không nhập địa vị Bồ Tát Chánh tánh ly sanh thì làm sao có thể trang nghiêm cõi Phật, thành thục hữu tình? Nếu không thể trang nghiêm cõi Phật, thành thục hữu tình thì làm sao đắc Nhất thiết trí trí. Nếu không đắc Nhất thiết trí trí, thì làm sao có thể chuyển bánh xe diệu pháp, làm các Phật sự? Nếu không thể chuyển bánh xe diệu pháp, làm các Phật sự, thì làm sao giải thoát hữu tình khỏi các khổ sanh tử, để họ được Niết bàn rốt ráo an lạc?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Khi các đại Bồ Tát hành Bát Nhã sâu xa, không vì sắc mà hành Bát Nhã; không vì thọ, tưởng, hành, thức mà hành Bát Nhã. Nói rộng, cho đến không vì quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề mà hành Bát Nhã, không vì Nhất thiết trí trí mà hành Bát Nhã.

 

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát vì việc gì mà hành Bát nhã Ba la mật sâu xa?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát không vì việc gì(2) mà hành Bát nhã Ba la mật sâu xa. Vì sao? Vì tất cả pháp đều hoàn toàn vô tạo, hoàn toàn vô tác. Bát Nhã sâu xa cũng không tạo không tác. Quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề cũng không tạo không tác. Các đại Bồ Tát cũng không tạo không tác. Như vậy, này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát lấy không tạo không tác làm phương tiện hành Bát Nhã sâu xa.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp đều không tạo không tác thì không nên tạo lập sự khác nhau giữa ba thừa là Thanh văn thừa, Độc giác thừa và Vô thượng thừa?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Nếu pháp không tạo không tác thì làm sao tạo lập được, cần phải có pháp có tạo có tác mới tạo lập được. Vì sao? Vì các hữu tình phàm phu ngu si thiếu trí chấp trước các sắc, thọ, tưởng, hành, thức nói rộng cho đến Nhất thiết trí trí. Bởi chấp trước nhớ nghĩ sắc thì (cho là) đắc sắc, nhớ nghĩ thọ, tưởng, hành, thức thì đắc thọ, tưởng, hành, thức. Nói rộng, cho đến nhớ nghĩ Nhất thiết trí trí thì đắc Nhất thiết trí trí. Do nhớ nghĩ như thế nên nói: Ta nhất định sẽ đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, độ thoát các hữu tình ra khỏi khổ lớn sanh tử để đắc Niết bàn rốt ráo an lạc.

Thiện Hiện nên biết! Kẻ phàm phu ngu si thiếu trí ấy do điên đảo nên suy nghĩ như vậy, đó là phỉ báng Phật. Vì sao? Vì Phật dùng năm loại mắt tìm sắc bất khả đắc, tìm thọ, tưởng, hành, thức bất khả đắc. Cho đến tìm quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề cũng bất khả đắc, tìm hữu tình cũng bất khả đắc. Các phàm phu ngu si thiếu trí ấy mờ mịt không có mắt tuệ nên chấp trước vào các pháp.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều dùng năm loại mắt tìm sắc chẳng thể được, tìm thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng thể được, cho đến tìm quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề cũng chẳng thể được, tìm các hữu tình cũng chẳng thể được, thì đúng ra sẽ không ai có thể chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, độ thoát các hữu tình ra khỏi khổ lớn sanh tử, để đắc Niết bàn thường lạc rốt ráo. Nếu vậy, thì làm sao Thế Tôn chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, an lập hữu tình thành ba nhóm khác nhau, đó là nhóm chánh tánh định, nhóm tà tánh định và nhóm bất định?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Ta dùng năm loại mắt quán sát như thật, quyết định: Ta thật không chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, an lập hữu tình thành ba nhóm khác nhau. Nhưng các hữu tình vì ngu si điên đảo nên đối với pháp chẳng thật mà tưởng pháp thật; đối với hữu tình chẳng thật mà tưởng hữu tình thật. Để diệt trừ kiến chấp hư vọng đó, Ta căn cứ vào thế tục mà nói chứ không căn cứ vào thắng nghĩa.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Chẳng lẽ Như Lai không an trụ vào thắng nghĩa chứng đại Bồ đề hay sao?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không!

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Chẳng lẽ Như Lai không an trụ vào vọng tưởng điên đảo để chứng đại Bồ đề hay sao?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không!

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu Như Lai không an trụ vào thắng nghĩa chứng đại Bồ đề, cũng không an trụ vào vọng tưởng điên đảo để chứng đại Bồ đề, lẽ ra thì Như Lai cũng không chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không phải vậy! Mặc dù Ta chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề nhưng không có chỗ trụ. Nghĩa là không trụ vào cảnh giới hữu vi, cũng không trụ vào cảnh giới vô vi. 

Thiện Hiện nên biết! Ví như những người do chư Phật biến hóa, tuy không trụ vào cảnh giới hữu vi, cũng không trụ vào cảnh giới vô vi, nhưng có những việc đi, đứng, ngồi, nằm. Người do chư Phật biến hóa, hoặc hành bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Hoặc trụ vào pháp nội không cho đến pháp vô tánh tự tánh không; trụ vào chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì; trụ vào Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo; tu bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo; tu bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; tu pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện; tu tám giải thoát cho đến mười biến xứ; tu Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa; tu tất cả pháp môn Đà la ni, pháp môn Tam ma địa; tu năm loại mắt, sáu phép thần thông; tu Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng; tu đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả; tu pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; tu Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí; tu Bồ Tát hạnh. Hoặc chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, chuyển bánh xe diệu pháp, làm các Phật sự. Người được biến hóa lại chuyển hóa làm vô lượng hữu tình, trong đó an lập thành ba nhóm khác nhau. Ý ngươi thế nào? Người do chư Phật biến hóa đó thật có những việc đi, đứng, ngồi, nằm, cho đến thật có an lập hữu tình thành ba nhóm khác nhau không?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Không!

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Chư Phật Thế Tôn biết tất cả pháp đều như biến hóa, nói tất cả pháp cũng như biến hóa, tuy có sở vi mà không chơn thật. Tuy độ hữu tình mà không sở độ, như kẻ được hóa, độ hóa hữu tình.

Như vậy, này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát hành Bát Nhã sâu xa giống như người do Phật biến hóa, mặc dù có sở tác nhưng không chấp trước.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp đều như sự biến hóa thì chư Phật cũng vậy. Chư Phật và người được biến hóa có gì khác nhau?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Phật và người được biến hóa cùng tất cả pháp thật sự không khác nhau. Vì sao? Vì tất cả sự nghiệp chư Phật đã làm ra thì người do Phật biến hóa cũng đều có thể làm. Sự nghiệp mà người do Phật biến hóa đã làm thì chư Phật Thế Tôn cũng có thể làm. Cho nên, chư Phật và người được biến hóa cùng tất cả pháp thật sự không khác nhau.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu không có người do chư Phật biến hóa thì riêng Phật có thể làm ra sự nghiệp được không? Còn nếu không có chư Phật thì người được hóa kia có thể riêng mình làm các việc được không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Họ cũng có thể làm được.

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Việc ấy như thế nào?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Như có Như Lai hiệu là Thiện Tịch Huệ, đã độ xong những người đáng được độ. Khi ấy, không có Bồ Tát nào được Phật thọ ký, Ngài liền hóa một vị Phật để trụ thế gian, rồi tự nhập vào Vô dư y đại Niết bàn. Hóa Phật đó làm các Phật sự trong nửa kiếp, qua hơn nửa kiếp rồi, thọ ký cho một Bồ Tát rồi hiện nhập Niết bàn. Khi đó chư thiên, người, A tu la v.v… đều cho rằng Phật ấy nay nhập Niết bàn, nhưng thân của hóa Phật ấy thật không sanh diệt.

Như vậy, này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát hành Bát Nhã sâu xa nên tin các pháp đều như biến hóa.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu thân chư Phật như thân biến hóa thì làm sao có thể làm ruộng phước chơn tịnh? Nếu các hữu tình vì giải thoát nên cung kính, cúng dường chư Phật, cho đến khi Niết bàn thì phước đức ấy vô tận. Đối với hóa Phật mà cung kính, cúng dường thì phước đức ấy cũng phải rốt ráo vô tận?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Như thân chư Phật do pháp tánh nên có thể cùng thí chủ làm tịnh phước điền. Thân Phật hóa ra cũng lại như thế, đều khiến thí chủ cung kính cúng dường hết ngằn sanh tử phước ấy vô tận.

Thiện Hiện nên biết! Hãy gác phước đức thu được do cung kính, cúng dường chư Phật và hóa thân Phật qua một bên. Nếu thiện nam, thiện nữ v.v... đối với chư Phật có lòng từ, cung kính, suy nghĩ, nhớ đến công đức chơn tịnh thì thiện nam, thiện nữ v.v... ấy đến khi dứt sanh tử căn lành vẫn vô tận.

Thiện Hiện nên biết! Lại gác phước đức đạt được do có lòng từ cung kính, tâm suy nghĩ nhớ các công đức chơn tịnh qua một bên. Nếu thiện nam, thiện nữ v.v... vì cúng dường Phật thậm chí rải một cánh hoa trong hư không thì các thiện nam, thiện nữ v.v... ấy đến tận lúc chấm dứt sanh tử được căn lành vô lượng.

Thiện Hiện nên biết! Lại gác phước đức đạt được vì muốn cúng dường Phật, thậm chí rải một cánh hoa trong hư không qua một bên. Nếu thiện nam, thiện nữ v.v... thậm chí xưng “Nam mô Phật đại từ đại bi”, thì các thiện nam, thiện nữ v.v... ấy đến lúc chấm dứt sanh tử căn lành vẫn vô tận, luôn được hưởng thọ phước lạc trong cõi trời, cho đến cuối cùng đắc Niết bàn.

Như vậy, này Thiện Hiện! Cung kính, cúng dường chư Phật và hóa thân Phật đạt được những lợi ích rộng lớn như vậy. Cho nên, này Thiện Hiện! Chư Phật và hóa thân Phật đều là ruộng phước chơn tịnh không khác nhau của thí chủ, vì lấy pháp tánh các pháp làm định lượng.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát lấy pháp tánh các pháp ấy để làm định lượng, làm phương tiện thiện xảo hành Bát Nhã sâu xa. Sau khi nhập vào pháp tánh các pháp rồi, nhưng đối với các pháp không làm hư hoại pháp tánh. Nghĩa là không phân biệt đây là Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật. Đây là pháp tánh Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật. Nói rộng, cho đến đây là Nhất thiết trí trí, đây là pháp tánh Nhất thiết trí trí. (Q.525, ĐBN),

Thiện Hiện nên biết! Khi các đại Bồ Tát hành Bát Nhã sâu xa, không nên phân biệt sự sai khác pháp tánh các pháp mà làm hư hoại pháp tánh.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu các đại Bồ Tát hành Bát Nhã sâu xa, không nên phân biệt pháp tánh các pháp, mà làm hư hoại pháp tánh thì tại sao Thế Tôn tự nói pháp tánh các pháp sai khác mà chẳng hoại pháp tánh? Nghĩa là Phật thường nói: Đây là sắc cho đến thức. Đây là nhãn xứ cho đến ý xứ. Đây là sắc xứ cho đến pháp xứ. Đây là nhãn giới cho đến ý giới. Đây là sắc giới cho đến pháp giới. Đây là nhãn thức giới cho đến ý thức giới. Đây là sáu xúc, đây là sáu thọ, đây là sáu giới. Đây là nhân duyên. Đây là vô minh cho đến lão tử. Đây là nội pháp, đây là ngoại pháp. Đây là pháp lành, đây là pháp ác. Đây là pháp hữu lậu, đây là pháp vô lậu. Đây là pháp thế gian, đây là pháp xuất thế gian. Đây là pháp cộng, đây là pháp bất cộng. Đây là pháp hữu vi, đây là pháp vô vi v.v… Phật đã thường nói những pháp sai khác như vậy, đâu Thế Tôn chẳng tự hoại pháp tánh?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Ta không tự hoại pháp tánh các pháp, chỉ dùng danh tướng làm phương tiện giả nói, để các hữu tình ngộ vào pháp tánh bình đẳng của các pháp, thoát khỏi sanh tử, chứng đắc Niết bàn. 

Cho nên, này Thiện Hiện! Mặc dù Như Lai nói các pháp khác nhau nhưng không gọi là làm hư hoại pháp tánh các pháp.

Cụ thọ Tiện Hiện lại thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Nếu Phật chỉ đem danh tướng giả nói pháp tánh các pháp khiến các hữu tình phương tiện ngộ vào pháp tánh bình đẳng, vì sao Phật đối pháp không danh tướng đem danh tướng ra nói, mà bảo chẳng hoại?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Ta theo thế tục, đối với các pháp giả lập ra danh tướng, vì các hữu tình mà dùng phương tiện để giảng nói, vì không chấp trước nên không hư hoại.

Thiện Hiện nên biết! Giống như những kẻ ngu si nghe nói các khổ liền chấp trước danh tướng mà không hiểu rõ đó là giả nói. Chẳng phải chư Như Lai và đệ tử Phật nghe nói các khổ rồi chấp trước danh tướng. Nhưng như thật biết tùy thế tục nói danh tướng các pháp không có chơn thật.

Thiện Hiện nên biết! Nếu các bậc Thánh đối với danh mà chấp trước danh, đối với tướng mà chấp trước tướng, thì đối với không cũng chấp trước không, đối với vô tướng chấp trước vô tướng, đối với vô nguyện chấp trước vô nguyện, đối với chơn như chấp trước chơn như, đối với thật tế chấp trước thật tế, đối với pháp giới chấp trước pháp giới, đối với vô vi chấp trước vô vi.

Thiện Hiện nên biết! Tất cả pháp ấy chỉ có giả danh, chỉ có giả tướng, không chơn thật. Trong đó, bậc Thánh cũng không chấp trước chỉ mượn danh tướng.

Như vậy, này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát trụ vào tất cả pháp nhưng chỉ mượn danh tướng, hành Bát Nhã sâu xa nhưng trong đó không chấp trước.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Nếu các pháp chỉ có danh tướng thì các đại Bồ Tát vì việc gì mà phát tâm Bồ đề chịu các khổ cực để hành Bồ Tát đạo. Nghĩa là tự mình chịu khổ cực để tu hành bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Nói rộng, cho đến khổ cực tu hành Nhất thiết trí trí cho được viên mãn?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Tất cả pháp chỉ có danh và tướng. Danh tướng ấy chỉ là giả tạo, tánh của danh tướng là Không. Các loài hữu tình vì điên đảo vọng chấp nên bị luân hồi sanh tử, chịu các khổ não, không thể giải thoát. Cho nên, Bồ Tát vì làm lợi ích cho họ mà phát tâm Bồ đề, chịu các khổ cực hành Bồ Tát đạo, lần lượt chứng đắc Nhất thiết trí trí, chuyển bánh xe diệu pháp, lấy pháp ba thừa làm phương tiện để cứu giúp họ ra khỏi sanh tử, mà trụ vào cảnh giới Niết bàn. Nhưng các danh tướng không sanh không diệt cũng không trụ khác, khá thi thiết được. (Q.525, ĐBN)

 

(Thế nào là tam trí?)

 

Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Phật nói Nhất thiết trí trí vì Nhất thiết trí trí ư?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Ta nói Nhất thiết trí trí vì Nhất thiết trí trí.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thế Tôn thường nói Nhất thiết trí trí tóm lược có ba, đó là Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Ba loại trí này tướng của nó có khác nhau không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Nhất thiết trí nghĩa là trí chung của Thanh văn và Độc giác. Đạo tướng trí là trí chung của đại Bồ Tát. Nhất thiết tướng trí là diệu trí riêng của chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng giác.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vì sao Nhất thiết trí là trí chung của Thanh văn và Độc giác?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Nhất thiết trí là pháp môn sai khác các pháp trong ngoài. Thanh văn, Độc giác cũng rõ biết được pháp môn sai khác các pháp trong ngoài đây, mà chẳng năng biết được Nhất thiết trí là tướng đạo và tướng tất cả pháp tất cả chủng, nên Nhất thiết trí là cộng trí của Thanh văn và Độc giác.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vì sao Đạo tướng trí là trí cộng của đại Bồ Tát?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát cần học biết khắp tất cả đạo tướng Thanh văn, đạo tướng Độc giác, đạo tướng Bồ Tát, đạo tướng Như Lai. Các đại Bồ Tát đối các đạo đây thường nên tu học đều khiến viên mãn, mặc dù khiến đạo làm việc nên làm mà chẳng cho họ chứng thật tế, nên Đạo tướng trí là trí cộng của đại Bồ Tát.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát tu đạo của Như Lai, sau khi được viên mãn, lẽ nào chẳng chứng thật tế hay sao?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát thành thục hữu tình, trang nghiêm cõi Phật, nếu tu các đại nguyện chưa viên mãn thì vẫn chưa chứng thật tế. Nếu đã viên mãn thì mới có thể chứng thật tế.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát trụ vào đạo mà chứng thật tế phải không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không!

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát trụ vào phi đạo mà chứng thật tế phải không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không!

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát trụ vào đạo và phi đạo mà chứng thật tế phải không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không!

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát vì trụ vào phi đạo và chẳng phải phi đạo mà chứng thật tế phải không?

Phật dạy:

Thiện Hiện! Không!

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu như vậy thì các đại Bồ Tát trụ vào đâu để chứng thật tế?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Ý ngươi thế nào? Nhờ trụ vào đạo mà ngươi dứt sạch lậu hoặc, tâm giải thoát phải không?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Này Thiện Hiện! Nhờ trụ vào phi đạo mà ngươi dứt sạch lậu hoặc, tâm giải thoát phải không?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Không!

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Ngươi trụ vào đạo, phi đạo mà dứt sạch lậu hoặc, tâm giải thoát phải không?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Không!

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Ngươi trụ vào phi đạo, chẳng phải phi đạo mà dứt sạch lậu hoặc, tâm giải thoát phải không?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Không!

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Vậy ngươi trụ vào đâu để dứt sạch lậu hoặc, tâm hoàn toàn giải thoát?

Thiện Hiện thưa:

- Con chẳng phải do trụ được hết các lậu, tâm giải thoát. Nhưng con hết lậu, tâm được giải thoát đều vô sở trụ.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát cũng vậy, hành Bát Nhã sâu xa hoàn toàn không có chỗ trụ mà chứng thật tế.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vì sao Nhất thiết tướng trí gọi Nhất thiết tướng trí?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Vì biết tất cả pháp đồng một tướng, đó là tướng tịch diệt, cho nên gọi là Nhất thiết tướng trí.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Các hành tướng trạng có thể biểu hiện các pháp. Như Lai như thật năng khắp giác biết, vậy nên gọi là Nhất thiết tướng trí.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Hoặc Nhất thiết trí, hoặc Đạo tướng trí, hoặc Nhất thiết tướng trí, ba trí này đoạn trừ các phiền não có khác nhau không? Có hữu dư đoạn, vô dư đoạn không?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Chẳng phải các phiền não đoạn có khác nhau. Nhưng chư Như Lai đã đoạn hẳn tất cả phiền não tập khí tương tục. Còn Thanh văn, Độc giác thì chưa đoạn hẳn tập khí tương tục.

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Dứt các phiền não được vô vi chăng?

Phật nói:

- Có.

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Thanh văn, Độc giác chẳng đắc vô vi có dứt phiền não chăng?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không!

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Trong pháp vô vi có sự khác nhau không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không!

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Nếu pháp vô vi không khác nhau thì vì sao Phật nói tất cả đã đoạn hẳn tập khí tương tục, Thanh văn, Độc giác vẫn chưa đoạn hẳn tập khí tương tục?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Tập khí tương tục thật sự chẳng phải phiền não. Nhưng các Thanh văn, Độc giác đã đoạn phiền não nhưng vẫn còn có một phần nhỏ tướng trạng giống như tham, sân, si phát ra từ thân, ngữ, nên nói: Đây là tập khí tương tục.

 

Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đạo cùng Niết bàn đều vô tự tánh, duyên nào Phật nói đây là Dự lưu cho đến Độc giác, đây là Bồ Tát, hoặc các Như Lai, tất cả đều là vô vi hiển ra.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Hoặc là Dự lưu cho đến Độc giác, hoặc là Bồ Tát, hoặc là Như Lai, tất cả đều là vô vi hiển ra.

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:

- Trong pháp vô vi thật có nghĩa Dự lưu cho đến Như Lai sai khác chăng?

Phật nói:

- Chẳng có.

Thiện Hiện lại hỏi:

- Nếu vậy duyên nào Phật nói Dự lưu cho đến Như Lai tất cả đều là vô vi hiển ra?

Phật bảo:

- Thiện Hiện: Ta nương lời nói thế tục chỉ rõ có Dự lưu thảy hiển ra sai khác, chẳng nương thắng nghĩa, chẳng phải trong thắng nghĩa có chỉ rõ được. Sở dĩ vì sao? Chẳng phải trong thắng nghĩa có đạo ngôn ngữ hoặc huệ phân biệt, hoặc lại hai thứ. Nhưng bởi vì lời nói thế tục đoạn dứt các pháp, nên giả lập lời nói thế tục là ngằn sau các pháp vậy.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp tự tướng đều không, ngằn trước hãy không, huống có ngằn sau, tại sao giả lập có ngằn sau?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Tự tướng của tất cả pháp đều Không, ngằn trước còn không có thì làm sao có ngằn sau? Nếu ngằn sau thật có thì điều đó chắc chắn không xảy ra. Nhưng các hữu tình không hiểu rõ tự tướng của tất cả các pháp đều Không. Vì làm lợi ích cho họ nên dùng phương tiện giả nói đây là ngằn trước, đây là ngằn sau. Nhưng trong tự tướng Không của tất cả pháp thì ngằn trước, ngằn sau đều bất khả đắc.

Như vậy, này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát đã thông đạt tự tướng của tất cả pháp là Không để tu hành Bát Nhã sâu xa.

Thiện Hiện nên biết! Các đại Bồ Tát thông đạt tự tướng của tất cả pháp đều Không, nên hành Bát Nhã sâu xa mà không chấp trước vào các pháp. Nghĩa là không chấp trước nội hay ngoại, thiện hay bất thiện, thế gian hay xuất thế gian, hữu lậu hay vô lậu, hữu vi hay vô vi, pháp Thanh văn hay pháp Độc giác, pháp Bồ Tát hay pháp chư Phật, chỉ căn cứ vào thế tục mà thi thiết là có, không căn cứ vào thắng nghĩa nên không chấp trước. (Q.525, ĐBN)

 

(Nương nghĩa nào mà gọi là Bát nhã Ba la mật)

 

Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Ngài thường nói Bát Nhã sâu xa. Vậy, Bát Nhã sâu xa nương vào nghĩa nào được gọi là Bát nhã Ba la mật?

Phật dạy:

Này Thiện Hiện! Do Bát nhã Ba la mật này vì có khả năng đạt đến bờ giác, là cứu cánh của tất cả pháp, nương vào nghĩa này gọi là Bát nhã Ba la mật. (Q.526, ĐBN)

Lại nữa, này Thiện Hiện! Do tất cả Thanh văn, Độc giác, Bồ Tát, Như Lai đều nương vào Bát nhã Ba la mật này để đạt đến bờ giác, nương nghĩa này nên gọi là Bát nhã Ba la mật.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Do Bát nhã Ba la mật đây y theo lý thắng nghĩa phân tách các pháp cho đến không có chút phần khá được, nương nghĩa đây nên gọi là Bát nhã Ba la mật.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Do Bát nhã Ba la mật này vì bao trùm tất cả chơn như, pháp giới, pháp tánh, nói rộng cho đến cảnh giới bất tư nghì, nương nghĩa này nên gọi là Bát nhã Ba la mật.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Đối với Bát nhã Ba la mật này vì không có pháp nhỏ nhặt nào mà nó tương ưng hoặc chẳng tương ưng, hoặc có sắc hoặc không sắc, hoặc có thấy hoặc không thấy, hoặc có đối hoặc không đối, nương nghĩa này nên gọi là Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Vì Bát Nhã sâu xa này chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, không sắc, không thấy, không đối, một tướng chỗ gọi là vô tướng.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Do Bát nhã Ba la mật này có khả năng sanh tất cả pháp lành thù thắng, sanh tất cả trí tuệ biện tài, đưa đến các quả vui thế gian và xuất thế gian, chiếu soi tất cả nghĩa lý sâu xa, nương nghĩa này nên gọi là Bát nhã Ba la mật.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Do nghĩa lý Bát nhã Ba la mật này chắc thật, không lay động, không hư hoại, nương nghĩa này nên gọi là Bát nhã Ba la mật.

Thiện Hiện nên biết! Nếu đại Bồ Tát hành Bát Nhã sâu xa này thì tất cả ác ma và quyến thuộc của ma, hàng Thanh văn, Độc giác, ngoại đạo Phạm chí, bạn ác, oán thù đều không thể phá hoại được. Vì sao? Vì trong Kinh Bát Nhã sâu xa này nói tự tướng tất cả pháp là Không, nên các ác ma không thể làm gì được.

Thiện Hiện nên biết! Các đại Bồ Tát nên theo nghĩa chơn thật này mà hành Bát Nhã, tức là tự tướng tất cả pháp đều Không, nên tất cả ác duyên không làm lay động, không hư hoại.

 

Lại nữa, này Thiện Hiện! Vì muốn hành nghĩa lý Bát Nhã sâu xa này nên các đại Bồ Tát đem vô sở đắc làm phương tiện để thực hành các nghĩa vô thường, khổ, không, vô ngã; cũng hành các nghĩa khổ trí, tập trí, diệt trí, đạo trí, các nghĩa pháp trí, loại trí, thế tục trí, tha tâm trí, tận trí, vô sanh trí, như thuyết trí.

Thiện Hiện! Các Bồ Tát vì hành Bát Nhã nghĩa thú thậm thâm, nên hành Bát Nhã như vậy. (Q.526, ĐBN)

 

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Ở trong lý Bát nhã Ba la mật-đa thâm diệu đây, nghĩa cùng phi nghĩa đều bất khả đắc. Làm sao Bồ Tát vì hành Bát Nhã nghĩa thú thẳm sâu, nên hành Bát Nhã như vậy?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Vì hành nghĩa lý sâu xa của Bát nhã Ba la mật nên các đại Bồ Tát phải suy nghĩ: Ta chẳng nên hành tham nghĩa phi nghĩa, chẳng nên hành sân nghĩa phi nghĩa, chẳng nên hành si nghĩa phi nghĩa, chẳng nên hành mạn nghĩa phi nghĩa, chẳng nên hành tà kiến nghĩa phi nghĩa, cho đến chẳng nên hành tất cả kiến thú nghĩa phi nghĩa. Cũng chẳng nên hành tham dục, sân hận, ngu si, kiêu mạn, tà kiến, kiến thú và các pháp nghĩa khác. Vì sao? Vì chơn như, thật tế của tham, sân, si v.v… không cùng với các pháp làm nghĩa hay phi nghĩa.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Vì hành Bát nhã Ba la mật nghĩa lý sâu xa nên các đại Bồ Tát phải suy nghĩ: Ta chẳng nên hành nghĩa, phi nghĩa của sắc; chẳng nên hành nghĩa, phi nghĩa của thọ, tưởng, hành, thức. Nói rộng, cho đến chẳng nên hành nghĩa, phi nghĩa của quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề; chẳng nên hành nghĩa, phi nghĩa của Nhất thiết trí trí. Vì sao? Vì khi ta đạt quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, tìm nghĩa, phi nghĩa của tất cả pháp đều bất khả đắc.

Thiện Hiện nên biết! Nếu chư Phật ra đời hoặc chẳng ra đời, các pháp, pháp giới, pháp trụ, pháp định... vốn vẫn thường trụ, không có pháp đối với pháp làm nghĩa hay phi nghĩa.

Như vậy, này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát nên lìa sự chấp trước nghĩa, phi nghĩa để hành nghĩa lý Bát Nhã sâu xa. (Q.526, ĐBN)

 

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vì sao Bát Nhã sâu xa này không cùng với các pháp làm nghĩa hay phi nghĩa?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Bát Nhã sâu xa này đối với các pháp hữu vi, vô vi đều không có làm, chẳng ơn, chẳng oán, không ích, không tổn. Vì lý do này nên không cùng các pháp làm nghĩa hay phi nghĩa.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Có phải chư Phật, hàng đệ tử và tất cả Hiền Thánh đều lấy vô vi làm chỗ hướng đến hay không?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như lời ngươi đã nói! Tất cả Hiền Thánh đều lấy vô vi làm chỗ hướng đến. Nhưng pháp vô vi ấy không cùng với các pháp làm tăng ích hay tổn hại. Ví như hư không, chơn như, thật tế không cùng các pháp làm tăng ích hay tổn hại. Các pháp Bát Nhã sâu xa của các đại Bồ Tát cũng lại như vậy, không cùng các pháp làm tăng ích hay tổn hại. Cho nên, Bát nhã Ba la mật không cùng các pháp làm nghĩa hay phi nghĩa.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Có phải các đại Bồ Tát cần học Bát nhã Ba la mật vô vi mới có thể chứng đắc Nhất thiết trí trí không?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như lời ngươi đã nói! Các đại Bồ Tát cần phải học Bát Nhã vô vi sâu xa mới có thể chứng đắc Nhất thiết trí trí, đem pháp không hai làm phương tiện.

Thiện hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Có phải nhờ vào pháp không hai để được pháp không hai không?

Phật dạy:

- Không!

Thiện hiện thưa:

- Vậy thì nhờ vào hai pháp có được pháp không hai không?

Phật dạy:

- Không!

Thiện hiện thưa:

- Nếu không hai pháp, không nhờ hai pháp, đắc pháp không hai, thì các đại Bồ Tát làm sao đạt được Nhất thiết trí trí?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Pháp hai chẳng hai đều bất khả đắc. Vậy, sở đắc Nhất thiết trí trí chẳng nhờ vào hai pháp để được pháp chẳng hai. Nhưng pháp vô sở đắc có khả năng đạt vô sở đắc. Vì sao? Vì Bát Nhã sâu xa và Nhất thiết trí trí đều bất khả đắc, nên không đắc mà đắc mới gọi là chân đắc. (Q.526, ĐBN)

Thích nghĩa cho phân đoạn này:

(1). Nhiều thứ học: Hàm ngụ về học xứ (學處) Phạm: Ziksàpada. Pàli: Sikkhàpada. Những chỗ (điều) cần phải học. Chỉ chung cho giới luật. Tức là những giới điều mà Tỷ khưu, Tỷ khưu ni phải tuân thủ, như 5 giới, 8 giới, 10 giới, v.v... gọi là Học xứ. Phật giáo Nam truyền gọi giới học, định học, tuệ học là Tam học xứ. Còn theo Kinh Bồ Tát địa trì quyển 1, thì Bồ Tát có 7 học xứ là: Tự lợi, lợi tha, chân thực nghĩa, lực, thành thục chúng sinh, tự thục Phật pháp và Vô thượng Bồ đề. Ngoài ra, phẩm Thụ phương tiện học xứ trong Kinh Đại nhật quyển 6 chia ra Hiển, Mật để nói về sở học và dịch là Học cú. (Từ điển Phật Quang).  Đã thích nghĩa rồi, chỉ gợi lại để nhớ.

(2). Các đại Bồ Tát “không vì việc gì” mà hành Bát nhã Ba la mật sâu xa. Nguyên văn chữ Hán trong quyển 525, là chư Bồ Tát Ma Ha Tát . sở vi cố hành thâm . Bát Nhã Ba La Mật Đa”. Cụm từ “không vì việc gì” dịch từ cụm từ chữ Hán “vô sở vi”. Bản dịch nguyên tác của HT. Thích Trí Nghiêm trong tuvienquangduc.com giữ y nguyên văn là “vô sở vi”, trong khi các bản dịch của Quangduc.com và bản dịch của Thuvienhoasen.org dịch là “không có làm việc gì”. Từ kép “sở vi” đôi khi được dịch là sở tạo, nhưng trong nhiều bản dịch thường giữ nguyên văn là sở vi vì không có từ tương đương trong Việt ngữ!

 

4. (Đoạn Kinh sau đây tương đương với phẩm “Thọ Dụ” hay “Dụ Cây”,

phần sau quyển 463, Hội thứ II, ĐBN)

 

Khi ấy, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bát nhã Ba la mật như thế rất là sâu xa. Các đại Bồ Tát thường làm việc khó làm, chẳng đắc hữu tình cũng lại chẳng đắc thi thiết hữu tình mà vì hữu tình cầu tới Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Ví như có người trồng cây giữa hư không là việc rất khó. Các đại Bồ Tát cũng lại như thế, chẳng đắc hữu tình và thi thiết hữu tình, mà vì hữu tình cầu tới Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề là việc cực khó. (Q.526, ĐBN)

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như lời ngươi đã nói! Bát nhã Ba la mật này rất sâu xa. Các đại Bồ Tát có thể làm việc khó làm, chẳng đắc hữu tình cũng lại chẳng đắc thi thiết hữu tình, mà vì hữu tình cầu tới Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Thiện Hiện nên biết! Các đại Bồ Tát mặc dù không thấy có thật hữu tình và sự hoạt động chơn thật của họ. Nhưng các hữu tình ngu si điên đảo chấp là thật có, trầm luân sanh tử, chịu khổ vô cùng. Vì cứu độ họ nên các Bồ Tát cầu đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Được Bồ đề rồi dùng phương tiện thiện xảo để độ thoát họ. Ví như có người trồng cây thuốc chỗ đất tốt, mặc dù người ấy không biết gốc, thân, nhánh, lá, hoa, quả của cây này ai sẽ hưởng. Khi trồng cây rồi, tùy thời tiết, người ấy siêng năng tưới bón, chăm sóc, giữ gìn. Về sau thân cây này to lớn, gốc, thân, nhánh, lá, hoa quả sum suê, được nhiều người dùng đến, chữa lành bệnh, được an vui. Các đại Bồ Tát cũng lại như vậy, mặc dù không thấy có quả vị Phật, có hữu tình, nhưng vì hữu tình nên cầu đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, lần lần tu hành sáu pháp đạt đến bờ giác và vô lượng Bồ đề phần pháp khác. Đã viên mãn rồi mới chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, khiến hữu tình thọ dụng nhánh, lá, hoa, quả ở cây Phật đều được lợi ích.

Thiện Hiện nên biết! Sự lợi ích của nhánh lá có nghĩa là các hữu tình nương cây Phật này để được thoát cảnh giới ác thú đầy đau khổ. Sự lợi ích của hoa nghĩa là các hữu tình nương cây Phật này, được sanh vào dòng đại tộc Sát đế lợi, cho đến sanh vào đại tộc Cư sĩ, hoặc sanh vào cõi trời Tứ thiên vương, cho đến sanh vào cõi trời Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Sự lợi ích của quả nghĩa là các hữu tình nương cây Phật này chứng được quả Dự lưu cho đến quả Độc giác Bồ đề, hoặc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Các hữu tình này được Bồ đề rồi lại dùng nhánh, lá, hoa, quả, cây Phật làm lợi ích cho loài hữu tình khác, khiến họ cũng thoát khỏi ác thú, được vui nơi cõi trời, người, lần lần an trụ trong ba thừa, vào cõi Niết bàn.

Thiện Hiện nên biết! Mặc dù các đại Bồ Tát làm việc lợi ích lớn như vậy, nhưng không thấy có thật hữu tình được Niết bàn, chỉ thấy dứt bặt các khổ vọng tưởng.

Như vậy, Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát hành Bát Nhã sâu xa, chẳng đắc hữu tình và thi thiết hữu tình, nhưng vì trừ vọng tưởng điên đảo kia, cầu tới Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Do nhân duyên này nên nói các Ngài làm việc rất khó. (Q.526, ĐBN)

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát nên biết y như Phật. Vì sao? Vì nhờ các đại Bồ Tát này mới đoạn trừ vĩnh viễn các nỗi khổ trong cảnh giới địa ngục, bàng sanh, ngạ quỷ, cũng có thể đoạn trừ vĩnh viễn nỗi khổ không an ổn, bần cùng, hèn kém trong ba cõi.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như lời ngươi đã nói! Các đại Bồ Tát phải biết y như Phật, nếu thế gian này không có chúng Bồ Tát hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, thì không có mười phương ba đời chư Phật, cũng không có Độc giác và các Thanh văn, không thể đoạn trừ vĩnh viễn các nỗi khổ trong địa ngục, bàng sanh, ngạ quỷ, không an ổn, bần cùng, hèn kém trong ba cõi.

Vì vậy, này Thiện Hiện! Đúng như lời ông đã nói. Các đại Bồ Tát phải biết y như Phật.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Ông nên biết, các đại Bồ Tát tức là Như Lai. Vì sao? Vì do như này thi thiết Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, tức do như này thi thiết Độc giác. Do như này thi thiết Độc giác tức do như này thi thiết Thanh văn. Do như này thi thiết Thanh văn tức do như này thi thiết tất cả Hiền Thánh. Do như này thi thiết tất cả Hiền Thánh tức do như này thi thiết sắc uẩn. Do như này thi thiết sắc uẩn tức do như này thi thiết thọ, tưởng, hành, thức uẩn. Do như này thi thiết thọ, tưởng, hành, thức uẩn tức do như này thi thiết mười hai xứ. Do như này thi thiết mười hai xứ tức do như này thi thiết mười tám giới. Cứ lần lượt như vậy, cho đến do như này thi thiết quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề tức do như này thi thiết Nhất thiết trí trí. Do như này thi thiết Nhất thiết trí trí tức do như này thi thiết cảnh giới hữu vi. Do như này thi thiết cảnh giới hữu vi tức do như này thi thiết cảnh giới vô vi. Do như này thi thiết cảnh giới vô vi tức do như này thi thiết tất cả pháp. Do như này thi thiết tất cả pháp tức do như này thi thiết tất cả hữu tình. Do như này thi thiết tất cả hữu tình tức do như này thi thiết tất cả đại Bồ Tát.

Như vậy, này Thiện Hiện! Hoặc là Như Lai như, Độc giác như, Thanh văn như, tất cả Hiền Thánh như, tất cả các sắc như, tất cả các pháp như, tất cả hữu tình như, tất cả đại Bồ Tát như, các như ấy như thật, đều không sai khác. Do không khác nên gọi là như như. Đối với như như đây, các đại Bồ Tát tu học viên mãn, chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề nên gọi là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác.

Vì vậy, này Thiện Hiện! Ông nên biết, chúng đại Bồ Tát tức là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, vì tất cả hữu tình đều lấy như làm định lượng vậy.

Vì vậy, này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát cần nên học Bát Nhã như này. Nếu các đại Bồ Tát ấy học Bát Nhã như thì có thể học tất cả pháp như. Nếu có thể học được tất cả pháp như thì có thể viên mãn tất cả pháp như. Nếu có thể viên mãn tất cả pháp như, thì đối với tất cả pháp như được tự tại. Nếu đối với tất cả pháp như được tự tại, thì có thể khéo biết căn tánh thắng liệt của tất cả hữu tình. Nếu biết được tất cả căn tánh thắng liệt của hữu tình, thời năng biết đủ tất cả thắng giải sai khác của hữu tình. Nếu năng biết đủ tất cả thắng giải sai khác của hữu tình, thời biết tất cả hữu tình tự nghiệp thọ quả. Nếu biết tất cả hữu tình tự nghiệp thọ quả, thì viên mãn nguyện và trí. Nếu viên mãn nguyện và trí, thì có thể tịnh tu Diệu trí trong ba đời. Nếu có thể tịnh tu Diệu trí trong ba đời, thì có thể viên mãn Nhất thiết trí trí.

Nếu có thể viên mãn Nhất thiết trí trí, thì có thể hành Bồ Tát hạnh không điên đảo. Nếu có thể hành Bồ Tát hạnh không điên đảo, thì có thể thành thục hữu tình. Nếu có thể thành thục hữu tình, thì có thể trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật. Nếu có thể trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, thì có thể chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề đã mong cầu. Nếu có thể chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề đã mong cầu, thì có thể chuyển bánh xe diệu pháp như thật. Nếu có thể chuyển bánh xe diệu pháp như thật, thì có thể an trụ chúng sanh vào đạo ba thừa một cách chắc chắn. Nếu có thể an trụ chúng sanh vào đạo ba thừa một cách chắc chắn, thì mới có thể dẫn dắt chúng sanh vào cõi Vô dư y bát Niết bàn.

Như vậy, này Thiện Hiện! Vì thấy tất cả công đức tự lợi, lợi tha như vậy, nên các đại Bồ Tát mới phát tâm quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, nỗ lực dõng mãnh không thối chuyển để hành Bát Nhã sâu xa. (Q.526, ĐBN)

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ Tát muốn làm lợi ích cho các hữu tình, có thể phát tâm quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, tu hành Bát Nhã sâu xa này đúng như pháp, thì được thế gian, trời, người, A tu la v.v... đều lễ kính.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như lời ngươi đã nói! Nếu các đại Bồ Tát vì muốn làm lợi ích cho các hữu tình, có thể phát tâm quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, tu hành đúng như pháp Bát Nhã này, thì được thế gian, trời, người, A tu la v.v... đều cung kính, cúng dường.

 

(Phước đức của Như Lai Chánh Đẳng Chánh Giác)

 

Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu các đại Bồ Tát khắp vì tất cả hữu tình làm những việc lợi ích, có thể phát tâm quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thì được bao nhiêu phước?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát này được phước vô lượng, không thể tính đếm hay thí dụ được.

Thiện Hiện nên biết! Giả sử tất cả hữu tình đầy khắp trong Tam thiên đại thiên thế giới Phật, đều hướng đến địa vị Thanh văn, Độc giác. Ý ngươi thế nào? Các hữu tình này phước đức có nhiều không?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều! Họ được phước vô lượng, vô biên!

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Phước đức của họ đạt được so với phước đức của một vị Bồ Tát đạt được do phát tâm quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề vì muốn làm lợi ích cho các hữu tình, mà ngươi đã hỏi thì trăm phần không bằng một, ngàn phần không bằng một, cho đến trăm ngàn, triệu ức phần cũng không bằng một. Vì sao? Vì hàng Thanh văn, Độc giác đều nương vào các đại Bồ Tát mà xuất sanh.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Hãy tạm gác lại việc phước đức đạt được của tất cả hữu tình trong Tam thiên đại thiên thế giới do hướng đến bậc Thanh văn, Độc giác, giả sử tất cả hữu tình đầy trong Tam thiên đại thiên thế giới đều trụ Tịnh quán địa. Ý ngươi thế nào? Các hữu tình này phước đức có nhiều không?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều! Họ được phước vô lượng, vô biên!

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Phước đức của họ đạt được so với phước đức của một đại Bồ Tát đạt được do phát tâm quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề vì muốn làm lợi ích cho các hữu tình, theo lời ngươi hỏi thì trăm phần không bằng một, ngàn phần không bằng một, cho đến trăm ngàn, triệu ức phần không bằng một. Vì sao? Vì hàng Thanh văn, Độc giác đều nương vào các đại Bồ Tát mà xuất sanh, chẳng phải đại Bồ Tát nương Thanh văn, Độc giác mà xuất sanh.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Hãy tạm gác việc phước đức đạt được của tất cả hữu tình trong Tam thiên đại thiên thế giới đều trụ Tịnh quán địa, giả sử tất cả hữu tình đầy trong Tam thiên đại thiên thế giới đều trụ Chủng tánh địa, hoặc Đệ bát địa, Cụ kiến địa, Bạc địa, Ly dục địa, Dĩ biện địa, Độc giác địa. Ý ngươi thế nào? Các hữu tình này phước đức có nhiều không?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều! Họ được phước vô lượng, vô biên!

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Phước đức của họ so với phước đức của một đại Bồ Tát đạt được do phát tâm quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề vì muốn làm lợi ích cho các hữu tình, theo lời ngươi hỏi thì trăm phần không bằng một, ngàn phần không bằng một, cho đến trăm ngàn, triệu ức phần không bằng một. Vì sao? Vì hàng Thanh văn, Độc giác đều nương vào các đại Bồ Tát mà xuất sanh, chẳng phải đại Bồ Tát nương Thanh văn, Độc giác mà xuất sanh.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Giả sử tất cả hữu tình đầy khắp trong Tam thiên đại thiên thế giới Phật, đều phát tâm quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, vì muốn làm lợi ích cho các hữu tình. Phước đức của chúng đại Bồ Tát này đạt được so với phước đức của một vị đại Bồ Tát trụ vào Bồ Tát Chánh tánh ly sanh thì trăm phần không bằng một, ngàn phần không bằng một, cho đến trăm ngàn, triệu ức phần không bằng một.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Giả sử tất cả hữu tình đầy khắp trong Tam thiên đại thiên thế giới Phật, đều trụ Bồ Tát Chánh tánh ly sanh. Phước đức của chúng đại Bồ Tát này đạt được so với phước đức của một đại Bồ Tát do hướng đến Bồ đề thì trăm phần không bằng một, ngàn phần không bằng một, cho đến trăm ngàn, triệu ức phần không bằng một.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Giả sử tất cả hữu tình đầy khắp trong Tam thiên đại thiên thế giới Phật, đều hướng đến Bồ đề. Phước đức của chúng đại Bồ Tát này đạt được so với phước đức của một Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thì trăm phần không bằng một, ngàn phần không bằng một, cho đến trăm ngàn, triệu ức phần không bằng một. (Q. 526, ĐBN)

 

(Tất cả pháp đều không có tự tánh, nên lấy vô tánh làm tự tánh)

 

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát mới phát tâm quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề phải tư duy pháp gì?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát này thường chánh tư duy Nhất thiết tướng trí.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nhất thiết tướng trí lấy gì làm tánh? Duyên vào đâu? Tăng thượng gì? Hành tướng gì? Có tướng gì?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Nhất thiết tướng trí lấy vô tánh làm tánh, không tướng, không nhân, không chỗ cảnh giác, không sanh, không hiện.

Lại nữa, câu hỏi của ngươi về Nhất thiết tướng trí duyên vào đâu, tăng thượng gì, hành tướng gì, có tướng gì? Thiện Hiện nên biết! Nhất thiết tướng trí lấy vô tánh làm chỗ duyên, lấy chánh niệm làm tăng thượng, lấy vắng lặng làm hành tướng, lấy vô tướng làm tướng.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Chỉ riêng Nhất thiết tướng trí lấy vô tánh làm tánh, hay là sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng lấy vô tánh làm tánh? Nói rộng, cho đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật cũng lấy vô tánh làm tánh, hay cảnh giới hữu vi và cảnh giới vô vi cũng lấy vô tánh làm tánh?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Chẳng những Nhất thiết tướng trí lấy vô tánh làm tánh, mà sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng lấy vô tánh làm tánh. Cho đến cảnh giới hữu vi và cảnh giới vô vi cũng lấy vô tánh làm tánh.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vì lý do gì mà Nhất thiết tướng trí lấy vô tánh làm tánh? Sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng lấy vô tánh làm tánh, cho đến cảnh giới hữu vi và cảnh giới vô vi cũng lấy vô tánh làm tánh?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Do Nhất thiết tướng trí không có tự tánh, pháp nào không có tự tánh thì pháp ấy lấy vô tánh làm tánh. Sắc, thọ, tưởng, hành, thức cho đến cảnh giới hữu vi và cảnh giới vô vi cũng không có tự tánh. Pháp nào không có tự tánh thì pháp ấy lấy vô tánh làm tánh.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vì lý do gì Nhất thiết tướng trí không có tự tánh. Sắc, thọ, tưởng, hành, thức cho đến cảnh giới hữu vi và cảnh giới vô vi cũng không có tự tánh?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Do Nhất thiết tướng trí không có tự tánh hòa hợp. Nếu pháp không có tự tánh hòa hợp, thì pháp ấy lấy vô tánh làm tánh. Sắc, thọ, tưởng, hành, thức cho đến cảnh giới hữu vi và cảnh giới vô vi cũng không có tự tánh hòa hợp. Nếu pháp không có tự tánh hòa hợp, thì pháp ấy lấy vô tánh làm tánh. Vì lý do này nên các đại Bồ Tát biết tất cả pháp đều lấy vô tánh làm tự tánh.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Tất cả pháp đều lấy không, vô tướng, vô nguyện làm tự tánh. Vì lý do này nên các đại Bồ Tát biết tất cả pháp đều lấy vô tánh làm tự tánh.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Tất cả pháp đều lấy chơn như làm tự tánh, nói rộng cho đến lấy cảnh giới bất tư nghì làm tự tánh. Vì lý do này nên các đại Bồ Tát biết tất cả pháp đều lấy vô tánh làm tự tánh. (Q.526, ĐBN)

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp ấy đều vô tánh thì các đại Bồ Tát mới phát tâm quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, được thành tựu những phương tiện thiện xảo nào mà có thể hành bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật thành thục hữu tình, trang nghiêm cõi Phật? Nói rộng, cho đến thành tựu những phương tiện thiện xảo nào mà có thể thực hành Nhất thiết trí trí, thành thục hữu tình, trang nghiêm cõi Phật?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát này được thành tựu phương tiện thiện xảo vi diệu, mặc dù biết tất cả pháp đều lấy vô tánh làm tự tánh, nhưng vẫn tinh tấn thành thục hữu tình, trang nghiêm cõi Phật. Tuy tinh tấn thành thục hữu tình, trang nghiêm cõi Phật, nhưng vẫn thông suốt tất cả hữu tình, các cõi Phật đều lấy vô tánh làm tự tánh.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ Tát này mặc dù hành bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật, học đạo Bồ đề, nhưng vẫn biết bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật, đạo Bồ đề này đều lấy vô tánh làm tự tánh. Nói rộng, cho đến tuy hành Nhất thiết trí trí, học đạo Bồ đề, nhưng vẫn biết Nhất thiết trí trí và đạo Bồ đề đều lấy vô tánh làm tự tánh.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ Tát này tu sáu độ đạt đến bờ giác, học đạo Bồ đề như vậy, nói rộng cho đến tu hành Nhất thiết trí trí, học đạo Bồ đề như vậy, nhưng nếu chưa thành tựu Như Lai mười lực, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí và vô lượng, vô biên các pháp Phật khác, thì gọi là học đạo Bồ đề chưa viên mãn.

Trái lại, nếu đại Bồ Tát học đạo này đã được viên mãn, thì cũng viên mãn Ba la mật. Vì pháp Ba la mật viên mãn, nên trong một sát na tương ưng Bát Nhã liền có thể chứng đắc Nhất thiết tướng trí. Bấy giờ, tất cả tập khí phiền não nhỏ nhặt vĩnh viễn không còn phát sanh tức Vô dư y đoạn đắc, nên gọi là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác.

Lại nữa, Bồ Tát này dùng Phật nhãn thanh tịnh vô ngại quán các pháp trong mười phương ba đời còn chẳng đắc Vô huống gì đắc Hữu.

Như vậy, này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát nên hành Bát nhã Ba la mật, quán tất cả pháp đều lấy vô tánh làm tự tánh. Đây gọi là các đại Bồ Tát đầy đủ phương tiện thiện xảo vi diệu. Nghĩa là Bồ Tát hành Bát nhã Ba la mật, quán tất cả pháp còn chẳng đắc Vô huống gì đắc Hữu.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ Tát này hành Bát nhã Ba la mật. Khi tu bố thí, đối với việc bố thí, người nhận, vật thí cùng tâm Bồ đề còn chẳng thấy không huống gì thấy có. Đại Bồ Tát tu tịnh giới, đối với tịnh giới này, hoặc đối tượng giữ tịnh giới, kẻ trì tịnh giới, tâm giữ tịnh giới còn chẳng thấy không huống gì thấy có. Đại Bồ Tát khi tu an nhẫn, đối với pháp an nhẫn này, đối tượng tu an nhẫn, người tu an nhẫn, tâm tu an nhẫn, còn chẳng thấy không huống gì thấy có. Đại Bồ Tát khi tu tinh tấn, đối với sự tinh tấn này, đối tượng tu tinh tấn, người hành tinh tấn, tâm tu tinh tấn, còn chẳng thấy không huống gì thấy có. Đại Bồ Tát khi tu tịnh lự, đối với pháp tịnh lự này, đối tượng tịnh lự, kẻ hành tịnh lự, tâm tu tịnh lự, còn chẳng thấy không huống gì thấy có. Đại Bồ Tát khi tu Bát Nhã, đối với pháp Bát Nhã này, đối tượng tu Bát Nhã, kẻ hành Bát Nhã, tâm tu Bát Nhã, còn chẳng thấy không huống gì thấy có. Nói rộng, cho đến khi chứng Nhất thiết trí trí, đối với Nhất thiết trí trí này, hoặc người được, hoặc do đây được và thời gian chốn được còn chẳng thấy không huống gì thấy có. Vì sao? Vì đại Bồ Tát này nghĩ: Các pháp đều lấy vô tánh làm tự tánh.

Pháp vô tánh, bản tánh nó vốn như vậy, chẳng phải Phật, Thanh văn, Độc giác làm ra, cũng không có ai làm, vì tất cả pháp đều không tác giả, đều lìa tác giả. (Q. 526, ĐBN)

 

(Chấp CÓ chấp KHÔNG)

 

Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Chẳng phải các pháp lìa pháp tánh hay sao?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy!

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp đều lìa pháp tánh thì làm thế nào pháp lìa đó biết được pháp lìa là có hoặc không? Vì sao? Vì pháp không không thể biết được pháp không, pháp có không thể biết pháp có, pháp không không thể biết pháp có, pháp có không thể biết pháp không. Như vậy, tất cả pháp đều lấy vô vi làm tánh thì làm thế nào đại Bồ Tát khi hành Bát Nhã sâu xa chỉ rõ các pháp có hoặc không?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Khi hành Bát Nhã sâu xa, các đại Bồ Tát tùy theo thế tục chỉ rõ các pháp có hoặc không, chẳng phải tùy thuộc thắng nghĩa.

 

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thế tục và thắng nghĩa có khác nhau không?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Ngoài thế tục không có thắng nghĩa. Vì sao? Vì thế tục như tức là thắng nghĩa. Do các loài hữu tình điên đảo vọng chấp, đối với pháp như này không biết, không thấy. Các đại Bồ Tát vì lợi ích chúng sanh, tùy theo tướng của thế tục chỉ rõ các pháp có hoặc không, không dựa vào thắng nghĩa.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các loại hữu tình đối năm uẩn v.v… khởi tưởng thật có, chẳng biết chẳng phải có. Các đại Bồ Tát vì nhiêu ích kia chỉ rõ uẩn v.v… hoặc có hoặc không, khiến các hữu tình nhân đây biết rõ các uẩn các pháp chẳng có chẳng không, chẳng phải muốn khiến chấp tướng thật có không.

Như vậy, Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát nên siêng tinh tấn lìa chấp có không, mới có khả năng hành Bát Nhã thậm thâm vì các hữu tình làm nhiêu ích lớn! (Q. 526, ĐBN)

 

5. (Đoạn Kinh sau đây tương đương với phẩm “Bồ Tát Hạnh”,

phần đầu quyển 464, Hội thứ II, ĐBN)

 

Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Như Lai thường nói các Bồ Tát hạnh, các hạnh đó là gì?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Hạnh Bồ Tát nghĩa là vì cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề mà hành, hoặc làm những việc lợi ích cho chúng sanh. Đó gọi là Bồ Tát hạnh.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát hành Bồ Tát hạnh ở đâu?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát nên đối với Không của sắc hành Bồ Tát hạnh, nên đối với Không của thọ, tưởng, hành, thức hành Bồ Tát hạnh. Nói rộng, cho đến đối với Không của Nhất thiết trí hành Bồ Tát hạnh; đối với Không của Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí hành Bồ Tát hạnh; đối với Không của trang nghiêm cõi Phật hành Bồ Tát hạnh; đối với Không của thành thục hữu tình hành Bồ Tát hạnh; đối với Không của Đà la ni nhờ biện tài mà dẫn phát để hành Bồ Tát hạnh; đối với Không của Đà la ni nhờ văn tự mà dẫn phát để hành Bồ Tát hạnh; đối với Không của Đà la ni nhờ vô văn tự để ngộ nhập mà hành Bồ Tát hạnh; đối với Không của cảnh giới hữu vi hành Bồ Tát hạnh; đối với Không của cảnh giới vô vi hành Bồ Tát hạnh.

Thiện Hiện nên biết! Các đại Bồ Tát khi tu hành Bồ Tát hạnh, giống như Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề đối với các pháp không hành hai tướng.

Thiện Hiện nên biết! Các đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã thậm thâm như thế gọi là vì Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề và vì hữu tình hành Bồ Tát hạnh.

 

Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Như Lai thường nói Phật đà ở khắp nơi, vậy tên Phật đà y vào nghĩa nào để nói?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Vì có thể giác ngộ nghĩa chơn thật nên gọi Phật đà, giác ngộ được pháp chơn thật nên gọi Phật đà. Đối với nghĩa chơn thật có thể hiểu thông suốt, có thể hiện Đẳng giác nên gọi Phật đà. Đối với các pháp, giác ngộ hoàn toàn thật tánh của nó, tận cùng tánh của nó nên gọi là Phật đà. Như thật khai ngộ cho tất cả hữu tình xa lìa các điên đảo nên gọi Phật đà.

 

Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Như Lai thường nói Bồ đề ở khắp nơi, vậy tên Bồ đề này y vào nghĩa nào để nói?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Bồ đề có nghĩa là Không, là chơn như, là thật tế, là pháp giới, là pháp tánh.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Giả lập danh tướng, đặt bày ngôn ngữ để làm cho giác ngộ chơn thật, đưa đến tối thượng, tối diệu nên gọi Bồ đề.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Bồ đề là chơn thật, chẳng hư dối, chẳng biến dị.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Bồ đề nghĩa là không thể phá hoại, không thể phân biệt.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Giác ngộ sự thanh tịnh chơn chánh của chư Phật nên gọi Bồ đề.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Do đây chư Phật đối với tất cả pháp, tất cả chủng tướng hiện Chánh đẳng giác nên gọi Bồ đề. (Q.526, ĐBN)

Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát vì Bồ đề nên tu hành sáu pháp Ba la mật, nói rộng cho đến Nhất thiết trí trí, khi tích tụ các căn lành vị ấy đối với pháp nào làm lợi ích hoặc làm tổn hại, không sanh, không diệt,  không nhiễm, không tịnh?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát vì Bồ đề nên tu sáu pháp Ba la mật, nói rộng cho đến Nhất thiết trí trí, khi tích tụ các căn lành, vị ấy đối với tất cả pháp không làm lợi ích hay tổn hại, không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh. Vì sao? Vì đại Bồ Tát này vì Bồ đề nên tu Bát Nhã sâu xa, đối với tất cả pháp đem vô sở duyên làm phương tiện, nên không làm lợi ích, tổn hại, không làm tăng giảm, không làm sanh diệt, không làm nhiễm tịnh mà được hiện tiền.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ Tát vì Bồ đề nên hành Bát Nhã sâu xa, đối với tất cả pháp đem vô sở duyên làm phương tiện, chẳng làm lợi ích, tổn hại, chẳng tăng giảm, chẳng sanh diệt, chẳng nhiễm tịnh. Đại Bồ Tát này hành Bát Nhã sâu xa, làm thế nào để nhiếp lấy các pháp bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật, và làm thế nào nhiếp cả Nhất thiết tướng trí để vượt qua bậc Thanh văn, Độc giác và bậc phàm phu, thẳng vào Bồ Tát Chánh tánh ly sanh, tu Bồ Tát hạnh, lần lần chứng đắc Nhất thiết trí trí này?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát hành Bát Nhã sâu xa không dựa vào hai, gìn giữ bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Nói rộng, cho đến không dựa vào hai cho nên lần lần sẽ chứng đắc Nhất thiết trí trí.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ Tát hành Bát Nhã sâu xa, không dựa vào hai, gìn giữ bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật, cũng không dựa vào hai, nên lần lần chứng đắc Nhất thiết trí trí. Đại Bồ Tát làm thế nào từ lúc mới phát tâm cho đến ngồi tòa Bồ đề, luôn luôn tăng trưởng pháp lành thù thắng?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát lấy hai mà hành, thời các thiện pháp chẳng thể tăng trưởng. Vì sao? Ngu phu dị sanh đều nương đối đãi, nên sở khởi thiện pháp chẳng tăng trưởng được. Nếu đại Bồ Tát hành chẳng hai, từ sơ phát tâm cho đến khi thành chánh quả, hằng thời tăng trưởng tất cả thiện pháp.

Vì vậy, này Thiện Hiện! Căn lành của các đại Bồ Tát vững chắc không thể khuất phục. Dù thế gian, trời, người, A tu la v.v... cũng không thể phá hoại, không thể làm rơi vào địa vị Thanh văn, Độc giác, không bị các pháp ác bất thiện của thế gian dẫn dắt, sai khiến làm cho pháp Ba la mật, cho đến Nhất thiết trí trí không được tăng trưởng. Như vậy, này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát nên hành Bát Nhã sâu xa không hai. (Q.526, ĐBN)

 

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát vì căn lành nên hành Bát Nhã sâu xa chăng?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Không phải vậy. Thiện Hiện! Phải biết các đại Bồ Tát chẳng vì căn lành nên hành Bát Nhã sâu thẳm, cũng chẳng vì căn chẳng lành nên hành Bát Nhã sâu thẳm. Vì sao? Các đại Bồ Tát lẽ phải như vậy. Nếu chưa gần gũi cúng dường cung kính chư Phật Thế Tôn, nếu các căn lành chưa cực viên mãn, nếu bạn lành chơn thiện chưa nhiều nhiếp thọ, quyết chẳng thể chứng Nhất thiết trí trí.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Làm thế nào các đại Bồ Tát gần gũi cúng dường chư Phật Thế Tôn, làm cho căn lành viên mãn hoàn toàn, được nhiều bạn lành chơn tịnh hộ trì, mau chứng đắc Nhất thiết trí trí?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát từ lúc mới phát tâm gần gũi cúng dường chư Phật Thế Tôn, được nghe Phật thuyết Khế Kinh cho đến Luận nghị (12 bộ Kinh). Nghe rồi thọ trì, đọc tụng, ôn tập cho được thông suốt hoàn toàn. Đã thông suốt hoàn toàn rồi mới tư duy đúng lý. Đã tư duy rồi hiểu thấu ý nghĩa sâu xa. Thấu rõ ý nghĩa sâu xa rồi mới có thể thông đạt hoàn toàn, thông đạt được Đà la ni phát sanh hiểu biết vô ngại, cho đến chứng đắc Vô thượng Bồ đề. Dù sanh ở chỗ nào đối với giáo nghĩa chánh pháp đã được nghe, thọ trì chẳng quên mất, trồng nhiều căn lành với chư Phật. Nhờ năng lực giữ vững căn lành nên vị ấy chẳng đọa vào ác thú, sanh chỗ an vui. Lại nhờ giữ vững căn lành nên an vui thanh tịnh, thường không điên đảo, thành thục hữu tình, trang nghiêm cõi Phật. Lại nhờ giữ vững căn lành nên không xa lìa bạn lành chơn tịnh, đó là chư Như Lai, Bồ Tát, Độc giác, Thanh văn cùng những người hay khen ngợi Phật, Pháp, Tăng.

Như vậy, này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát gần gũi cúng dường chư Phật Thế Tôn, làm cho căn lành viên mãn hoàn toàn, tận lực phục vụ bạn lành chơn tịnh, mau chứng đắc Nhất thiết trí trí. Vì vậy, này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát hành Bát Nhã sâu xa, muốn mau chứng đắc Nhất thiết trí trí phải siêng năng, tinh tấn gần gũi cúng dường chư Phật Thế Tôn, thành tựu viên mãn căn lành thù thắng, phục vụ bạn lành chơn tịnh không bao giờ nhàm chán.

 

6. (Đoạn Kinh sau đây tương đương với phẩm "Thân Cận" hay "Gần gũi",

phần giữa quyển 464, Hội thứ II, ĐBN)

 

Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu như các đại Bồ Tát chẳng gần gũi cúng dường chư Phật, không thành tựu căn lành thù thắng, không tận lực phục vụ bạn lành chơn tịnh, thì có thể chứng đắc Nhất thiết trí trí không?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát chẳng gần gũi cúng dường chư Phật, không thành tựu căn lành thù thắng, không tận lực phục vụ bạn lành chơn tịnh thì chẳng xứng đáng nhận tên Ma ha tát, huống chi có thể chứng đắc Nhất thiết trí trí. Vì sao? Vì có đại Bồ Tát gần gũi cúng dường chư Phật Thế Tôn, trồng nhiều căn lành, tận lực phục vụ bạn lành chơn tịnh, còn chưa thể chứng đắc Nhất thiết trí trí, huống gì chẳng gần gũi cúng dường chư Phật, chẳng trồng căn lành, chẳng tận lực phục vụ bạn lành chơn tịnh mà có thể chứng đắc Nhất thiết trí trí. Nếu đại Bồ Tát ấy có thể chứng đắc Nhất thiết trí trí, nhất định không có việc ấy.

Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát muốn nhận tên Bồ Tát Ma ha tát (đại Bồ Tát), muốn mau chứng đắc Nhất thiết trí trí thì thường nên gần gũi cúng dường chư Phật, trồng nhiều căn lành thù thắng một cách rốt ráo, tận lực phục vụ bạn lành chơn tịnh không sanh nhàm chán. (Q.526, ĐBN)

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vì lý do gì có đại Bồ Tát gần gũi cúng dường chư Phật, trồng nhiều căn lành, tận lực phục vụ bạn lành chơn tịnh, nhưng không chứng đắc Nhất thiết trí trí?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Vì đại Bồ Tát này xa lìa phương tiện thiện xảo Bát nhã Ba la mật, nên tuy có gần gũi cúng dường chư Phật, có trồng nhiều căn lành, tận lực phục vụ bạn lành chơn tịnh nhưng vị ấy không thể chứng đắc Nhất thiết trí trí.

 

(Phương tiện thiện xảo)

 

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là phương tiện thiện xảo? Các đại Bồ Tát thành tựu phương tiện thiện xảo phải làm gì để chứng đắc Nhất thiết trí trí?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát sơ phát tâm, khi tu hành bố thí Ba la mật đem tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí, hoặc thí chư Phật, hoặc thí Bồ Tát, hoặc thí Độc giác, hoặc thí Thanh văn, hoặc thí các người phi người thảy. Đại Bồ Tát này trọn nên tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí như thế, tuy hành bố thí mà không tưởng thí, không tưởng kẻ thọ, cũng không tưởng tất cả ngã, ngã sở. Vì sao? Vì đại Bồ Tát này quán tất cả pháp tánh tướng đều không, không khởi không thành, không chuyển không diệt, vào tướng các pháp. Biết tất cả pháp không tác không năng, vào các hành tướng. Đại Bồ Tát này trọn nên phương tiện khéo léo như thế hằng thời tăng lớn căn lành thắng diệu. Nhờ căn lành đây tăng trưởng nên thường hành bố thí Ba la mật thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật. Mặc dù hành bố thí mà chẳng mong cầu quả thí sở đắc, nghĩa là chẳng tham đắm thắng báo sanh tử. Chỉ vì cứu hộ kẻ không cứu hộ và muốn giải thoát kẻ chưa giải thoát siêng tu bố thí Ba la mật.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát từ lúc mới phát tâm tu hành tịnh giới Ba la mật, đem tác ý tương ưng với Nhất thiết trí trí, để thọ trì tịnh giới, tâm không phát sanh tham, sân, si, không bị tùy miên ràng buộc, cũng không phát sanh các pháp ác bất thiện làm ngăn ngại Bồ đề, như là xan tham, ác giới, phẫn hận, giải đãi, tán loạn, yếu mềm, ác tuệ và ngã mạn v.v…, cũng không phát sanh tác ý tương ưng với Thanh văn, Độc giác. Vì sao? Vì đại Bồ Tát này quán tất cả pháp tánh tướng đều Không, không khởi, không thành, không chuyển, không diệt, nhập vào các pháp tướng, biết tất cả pháp không tác, không động vào các hành tướng. Đại Bồ Tát này thành tựu phương tiện thiện xảo như vậy thì tăng trưởng căn lành thắng diệu. Nhờ căn lành này tăng trưởng, đại Bồ Tát có thể hành tịnh giới Ba la mật, thành thục hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật. Mặc dù hành tịnh giới nhưng các vị ấy vẫn không mong cầu phước báo của sự tịnh giới, tức là chẳng tham đắm thắng báo sanh tử, chỉ vì cứu độ người chưa được cứu hộ và muốn giải thoát người chưa được giải thoát, nên các vị ấy siêng tu tịnh giới cho đến Bát nhã Ba la mật. Mỗi mỗi đều nói rộng như trên.

 

(Kinh thuyết chỉ có hai phương tiện thiện xảo là Bố thí Ba la mật và Tịnh giới Ba la mật rồi ngừng ngang tại đây. Trong khi phẩm “Thân Cận hay Gần Gũi” của Hội thứ II thuyết đủ sáu pháp Ba la mật. Để được đầy đủ sáu phương tiện thiện xảo nên chúng tôi thêm vào 4 phương tiện nữa là an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự và Bát nhã Ba la mật. Việc thêm vào không làm sai lạc ý Kinh, trái lại làm cho phẩm này được đầy đủ như phẩm “Thân Cận hay Gần Gũi” của Hội thứ II).

 

Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào từ lúc mới phát tâm tu hành an nhẫn Ba la mật, dùng tác ý tương ưng với Nhất thiết trí trí làm phương tiện để tu học an nhẫn, cho đến để bảo vệ tánh mình, đại Bồ Tát này cũng không phát sanh một niệm giận hờn, một lời nói ác, hay một tâm oán hận báo thù. Giả sử có một người muốn đến hại mạng mình, cướp đoạt của cải, xâm chiếm vợ con, nhà cửa, vu khống mạ nhục, chia rẽ, khinh khi, hoặc đánh, hoặc đâm, hoặc cắt, hoặc chặt và gây ra đủ thứ tai hại khác thì vị ấy hoàn toàn không giận hờn hữu tình đó. Chỉ cầu mong làm cho người kia được lợi ích an lạc. Vì sao? Vì đại Bồ Tát này quán tự tướng của tất cả pháp đều không, không thật, không thành, không chuyển, không diệt, nhập vào các pháp tướng, biết tất cả các pháp vô tác, vô năng, nhập vào các hành tướng. Đại Bồ Tát này thành tựu phương tiện thiện xảo như vậy, thường tăng trưởng giác phần thiện căn. Nhờ thiện căn thường tăng trưởng nên vị ấy có thể thực hành an nhẫn Ba la mật, thành thục hữu tình, trang nghiêm cõi Phật. Tuy thực hành an nhẫn, nhưng vị ấy không mong cầu phước báo của việc an nhẫn, nghĩa là không hồi hướng đến cảnh giới đáng yêu và nơi sanh tốt đẹp, chỉ vì cứu hộ kẻ không ai cứu hộ và muốn giải thoát những ai chưa được giải thoát, nên vị ấy tu hành an nhẫn Ba la mật.

Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào từ lúc mới phát tâm tu hành tinh tấn Ba la mật, dùng tác ý tương ưng với Nhất thiết trí trí, phát tâm siêng năng dõng mãnh một cách chân chính không khiếp sợ, xa lìa tâm giải đãi, hèn yếu. Vì cầu Bồ đề, vị ấy không sợ các khổ, không phế bỏ việc tu tập các pháp lành. Vì sao? Vì đại Bồ Tát này quán tự tướng của tất cả pháp đều không, không thật, không thành, không chuyển, không diệt, nhập vào các pháp tướng, biết tất cả các pháp vô tác, vô năng, nhập vào các hành tướng. Đại Bồ Tát này thành tựu phương tiện thiện xảo như vậy, thường tăng trưởng giác phần thiện căn. Nhờ thiện căn này thường tăng trưởng nên có thể thực hành tinh tấn Ba la mật, thành thục hữu tình, trang nghiêm cõi Phật. Tuy thực hành tinh tấn, nhưng vị ấy không mong cầu phước báo của việc tinh tấn, cũng không mong hưởng cảnh giới đáng yêu và nơi sanh tốt đẹp, chỉ vì cứu hộ kẻ không ai cứu hộ và muốn giải thoát những ai chưa được giải thoát, nên vị ấy tu hành tinh tấn Ba la mật.

Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào từ lúc mới phát tâm tu hành tịnh lự Ba la mật, dùng tác ý tương ưng với Nhất thiết trí trí để tu học các định. Khi mắt thấy các sắc, tai nghe âm thanh, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân cảm giác xúc chạm, ý phân biệt các pháp, đại Bồ Tát này không nắm giữ các tướng, không nắm bắt những thứ ưa thích. Tức là giữ gìn các căn ngay nơi đối tượng ấy, không sống phóng dật, không cho phát sanh các pháp ác ở thế gian như tham ái và các phiền não, chuyên tu niệm định để giữ gìn các căn. Đại Bồ Tát này hoặc đi, hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm, hoặc nói năng, hoặc im lặng thường không xa lìa định thù thắng, xa lìa các pháp dơ bẩn, thân tâm yên tịnh, không trái oai nghi phép tắc, hành động đều đoan chánh, tâm thường ổn định, không sanh phân biệt. Vì sao? Vì đại Bồ Tát này quán tự tướng tất cả pháp đều không, không thật, không thành, không chuyển, không diệt, nhập vào các pháp tướng, biết tất cả các pháp vô tác, vô năng, nhập vào các hành tướng. Đại Bồ Tát này thành tựu phương tiện thiện xảo như vậy, thường tăng trưởng giác phần thiện căn. Nhờ thiện căn này thường tăng trưởng nên có thể thực hành tịnh lự Ba la mật, thành thục hữu tình, trang nghiêm cõi Phật. Tuy thực hành tịnh lự, nhưng vị ấy không mong cầu phước báo của việc thiền định, cũng không muốn hưởng cảnh giới đáng yêu và nơi sanh tốt đẹp, chỉ vì cứu hộ kẻ không ai cứu hộ và muốn giải thoát những ai chưa được giải thoát, nên vị ấy tu hành tịnh lự Ba la mật.

Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào từ lúc mới phát tâm tu hành Bát nhã Ba la mật, dùng tác ý tương ưng với Nhất thiết trí trí tu học diệu tuệ. Đại Bồ Tát này lìa các ác tuệ, tâm không bị kẻ khác gây chấp ngã và ngã sở, xa lìa tất cả cái thấy của ngã, cái thấy của hữu tình, cho đến cái thấy của người biết, người thấy, cái thấy của cái có hoặc không, và các cảnh giới ác kiến, xa lìa kiêu mạn, không có phân biệt, làm phát sanh đủ loại căn lành thù thắng. Vì sao? Vì đại Bồ Tát này quán tự tướng tất cả pháp đều không, không thật, không thành, không chuyển, không diệt, nhập vào các pháp tướng, biết tất cả các pháp vô tác, vô năng, nhập vào các hành tướng. Đại Bồ Tát này thành tựu phương tiện thiện xảo như vậy, thường tăng trưởng giác phần thiện căn. Nhờ thiện căn này tăng trưởng nên có thể thực hành Bát Nhã, thành thục hữu tình, trang nghiêm cõi Phật. Tuy thực hành Bát Nhã, nhưng vị ấy không mong cầu phước báo của trí tuệ, cũng không mong mõi cảnh giới đáng yêu và nơi sanh tốt đẹp, chỉ vì cứu hộ kẻ không ai cứu hộ và muốn giải thoát những ai chưa được giải thoát, nên vị ấy tu hành Bát nhã Ba la mật.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát từ lúc mới phát tâm, dùng phương tiện thiện xảo, đem tác ý tương ưng với Nhất thiết trí trí để vào bốn tịnh lự, bốn vô lượng và bốn định vô sắc. Đại Bồ Tát này tuy đối với tịnh lự, vô lượng, vô sắc vào ra tự tại nhưng không nhận lấy quả dị thục ấy. Vì sao? Vì đại Bồ Tát này đầy đủ phương tiện thiện xảo tối thắng, quán tánh tướng các tịnh lự, vô lượng, vô sắc đều Không, không sanh, không thành, không chuyển, không diệt, nên thể nhập vào các pháp tướng, biết tất cả pháp không tác, không động vào các hành tướng. Nếu đại Bồ Tát này thành tựu phương tiện thiện xảo như vậy, thì tăng trưởng căn lành thắng diệu. Nhờ căn lành này tăng trưởng, đại Bồ Tát có thể hành tịnh lự, vô lượng, vô sắc. Do hành tịnh lự, vô lượng, vô sắc nên các vị ấy có thể tự tại thành thục hữu tình, trang nghiêm cõi Phật.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát từ lúc mới phát tâm, dùng phương tiện thiện xảo, đem tác ý tương ưng với Nhất thiết trí trí, tuy hành kiến đạo sở đoạn, tu đạo sở đoạn nhưng không chịu chứng quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề. Vì sao? Vì đại Bồ Tát này quán tánh tướng của tất cả pháp đều Không, không khởi, không thành, không chuyển, không diệt nên thể nhập vào tướng các pháp, biết tất cả pháp không tác, không động vào các hành tướng. Nếu đại Bồ Tát này thành tựu phương tiện thiện xảo tối thắng thì mới tăng trưởng căn lành thù thắng. Nhờ căn lành này tăng trưởng, nên đại Bồ Tát có thể hành tất cả Bồ đề phần pháp, vượt qua bậc Thanh văn, Độc giác, nhập địa vị Bồ Tát Chánh tánh ly sanh. Đây gọi là Vô sanh pháp nhẫn của Bồ Tát, và cũng do có pháp nhẫn này nên đại Bồ Tát có thể tự tại thành thục hữu tình, trang nghiêm cõi Phật.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát hành Bát nhã Ba la mật, dùng phương tiện thiện xảo đem tác ý tương ưng với Nhất thiết trí trí, tuy tự tại vào ra theo chiều thuận nghịch đối với tám định giải thoát, chín định thứ đệ nhưng không chứng đắc quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề. Vì sao? Vì đại Bồ Tát này quán tánh tướng của tất cả pháp đều Không, không khởi, không thành, không chuyển, không diệt nên thể nhập vào tướng các pháp, biết tất cả pháp không tác, không động vào các hành tướng. Nếu đại Bồ Tát này thành tựu phương tiện thiện xảo tối thắng thì mới tăng trưởng căn lành thù thắng. Nhờ căn lành này tăng trưởng, đại Bồ Tát có thể tự tại thành thục hữu tình, trang nghiêm cõi Phật, chứng được địa vị Bồ Tát Bất thối chuyển, được thọ ký nhẫn.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát hành Bát nhã Ba la mật, dùng phương tiện thiện xảo đem tác ý tương ưng với Nhất thiết trí trí, tinh tấn tu hành Như Lai mười lực và vô lượng, vô biên các Phật pháp khác, nhưng nếu chưa thành thục hữu tình, trang nghiêm cõi Phật, thì vẫn chưa chứng đắc Nhất thiết trí trí. Vì sao? Vì đại Bồ Tát này quán tánh tướng của tất cả pháp đều Không, không khởi, không thành, không chuyển, không diệt nên thể nhập vào pháp tướng, biết tất cả pháp không tác, không động vào các hành tướng. Nếu đại Bồ Tát này đầy đủ phương tiện thiện xảo tối thắng, thì mới tăng trưởng căn lành thù thắng. Nhờ căn lành này tăng trưởng, đại Bồ Tát có thể tự tại thành thục hữu tình, trang nghiêm cõi Phật, lần lần chứng đắc Nhất thiết trí trí. Như vậy, gọi là phương tiện thiện xảo.

Nếu đại Bồ Tát thành tựu phương tiện thiện xảo mà lại thực hành các thiền định thì mới có thể chứng đắc Nhất thiết trí trí. Phương tiện thiện xảo thù thắng như vậy đều do Bát nhã Ba la mật mà được thành tựu. Vì vậy, này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát nên siêng năng tu học Bát Nhã sâu xa. (Q.526, ĐBN)

 

Sơ giải:

 

Có thể xem phẩm “Phương Tiện Thiện Xảo” này là phẩm dài của Hội thứ III. Như trong phần gợi ý có nói phẩm này tương đương với 6 phẩm của Hội thứ II hay Hội thứ I hợp lại.  Chúng tôi không muốn trùng tuyên nên ghi lại chi tiết các phẩm tương đương với Hội thứ III này, để Quý vị nào cần tham cứu có thể quay lại đọc tụng:

 

1. Phẩm “Vô Tận” của Hội thứ II tương đương với phẩm “Vô Tận” của Hội thứ I

2. Phẩm “Tương Nhiếp” của Hội thứ II tương đương với phẩm “Dẫn Nhiếp Nhau” của Hội thứ I

3. Phẩm “Phương Tiện Thiện Xảo” của Hội thứ II tương đương với phẩm “Đa Vấn Bất Nhị” của Hội thứ I

4. Phẩm “Thọ Dụ hay Dụ Cây” của Hội thứ II tương đương với phẩm “Nói Thật” của Hội thứ I

5. Phẩm “Bồ Tát Hạnh” của Hội thứ II tương đương với phẩm “Xảo Tiện Hành” của Hội thứ I

6. Phẩm “Thân Cận hay Gần Gũi” của Hội thứ II tương đương với phẩm “Xảo Tiện Hành” của Hội thứ I.

 

Chúng tôi cố gắng so chiếu để đưa ra các chỉ dẫn này cốt giúp Quý vị đọc tụng đỡ nhọc công tìm kiếm. Như nhiều lần lưu ý Hội thứ I và Hội thứ II thích nghĩa và lược giải nhiều nhất. Nếu có gặp bất trở ngại nào trong việc tụng đọc, Quý vị nên quay lại Hội thứ I và II tham khảo là tốt nhất!

Hội thứ IV tiếp theo sẽ là Hội để chúng ta ôn lại tất cả những gì đã học, chúng tôi sẽ thích nghĩa và lược giải chi tiết hơn. Như vậy, đọc đi đọc lại lại nhiều lần sẽ thông suốt thôi!

 

---o0o---

 

 


 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567