Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

45. Phẩm “Chơn Thiện Hữu" Phẩm "Biện Sự" (Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu, Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Thiện Duyên, Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Lê)

06/07/202009:02(Xem: 7105)
45. Phẩm “Chơn Thiện Hữu" Phẩm "Biện Sự" (Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu, Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Thiện Duyên, Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Lê)

 
49. Pham Chon Thien Huu

TỔNG LUẬN 

KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***

 

PHẨM “CHƠN THIỆN HỮU"

Phần sau quyển 313 đến đầu quyển 316, Hội thứ I, ĐBN.

(Tương đương với quyển thứ 17, phẩm “Thiện Tri Thức", MHBNBLM)


Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Lê



Gợi ý:

Thiện tri thức không phải chỉ dành cho Bồ Tát hay Phật, danh hiệu này được dùng rất rộng rãi. Theo từ điển Phật Quang: Bạn lành, tức chỉ cho người chính trực, có đức hạnh, có năng lực dẫn dắt người khác hướng về Chánh đạo thì được gọi là Thiện tri thức. Theo phẩm Thường đề trong Kinh Đại phẩm Bát Nhã quyển thứ 27 thì người có khả năng nói các pháp không, vô tướng, vô tác, vô sinh, vô diệt và Nhất thiết chủng trí, khiến người nghe vui vẻ tin ưa, cũng được gọi là Thiện tri thức. Phẩm Nhập pháp giới trong Kinh Hoa nghiêm ghi rằng trong quá trình cầu đạo, Thiện tài đồng tử đã tham vấn 55 vị Thiện tri thức (thông thường nói chỉ có 53 vị), tức từ chư Phật, Bồ Tát đến người, trời, vua chúa kể cả đồng tử đang nô đùa trên đường phố, kỹ nữ trong kỹ viện, những tay buôn gian bán lận tục tằng ngoài chợ… và bất ai xuất hiện dưới bất cứ hình thức nào, hễ có khả năng dắt dẫn chúng sinh bỏ ác tu thiện để bước vào Phật đạo, thì đều có thể được gọi là Thiện tri thức. Còn Thích Thị Yếu Lãm quyển thượng, trích dẫn luận Du Già Sư Địa nêu lên 10 thứ công đức của Thiện tri thức là: Điều phục, tịch tĩnh, trừ hoặc, tăng đức, dũng mãnh, kinh phú, giác chân, thiện thuyết, bi thâm và ly thoái (nếu người có các công đức như vậy thì được coi là Thiện tri thức). Lại theo Luật Tứ phần quyển 41 thì Thiện thân hữu phải có đủ 7 điều kiện là: Cho được cái khó cho, làm được việc khó làm, nhẫn được điều khó nhẫn, đem việc kín bảo cho nhau biết, khuyên nhau không che giấu điều lỗi, gặp khổ nạn không bỏ nhau và nghèo hèn không khinh nhau, gọi là Thiện hữu thất sự (bảy việc của người bạn lành). Trong Kinh luận có nêu các loại Thiện tri thức khác nhau, cứ theo Ma Ha Chỉ quán quyển 4 hạ của Ngài Trí Khải thì có 3 loại Thiện tri thức dưới đây: 1- Ngoại hộ: Giúp đỡ ở bên ngoài để bạn được an ổn tu đạo. 2- Đồng hành: Cùng nhau hành động, khích lệ lẫn nhau. 3- Giáo thụ: Nói pháp khéo léo. Theo Câu Xá Luận Tụng sớ quyển 29 của Ngài Viên Huy thì người bạn cho pháp là Thượng thân hữu, người cho của và pháp là Trung thân hữu, còn người chỉ cho của không thôi thì là Hạ thân hữu; trên đây gọi là Tam hữu. Hoa nghiêm Kinh Thám Huyền kí quyển 18 cũng nêu ra 3 loại Thiện tri thức là Nhận, Pháp và Nhân pháp hợp biện. Cứ theo phẩm Ly thế gian trong Kinh Hoa nghiêm quyển 36 (bản dịch cũ) thì có 10 loại Thiện tri thức đó là: 1- Thiện tri thức thường giúp đỡ bạn an trụ nơi tâm Bồ đề. 2- Thiện tri thức có năng lực khiến bạn tu tập các căn lành. 3- Thiện tri thức có năng lực giúp bạn tu các Ba la mật một cách rốt ráo. 4- Thiện tri thức có năng lực giúp bạn phân biệt giảng nói tất cả pháp. 5- Thiện tri thức có năng lực giúp bạn an trụ và thành thục tất cả chúng sinh. 6- Thiện tri thức có năng lực giúp bạn có đủ biện tài giải đáp được các nghi vấn. 7- Thiện tri thức có năng lực giúp bạn không bám víu tất cả sinh tử. 8- Thiện tri thức có năng lực giúp bạn tu hạnh Bồ Tát trong tất cả kiếp mà tâm không chán mỏi. 9- Thiện tri thức có năng lực giúp bạn an trụ nơi hạnh Phổ hiền. 10- Thiện tri thức có năng lực giúp bạn tiến sâu vào tất cả trí của Phật.

Trong phẩm này, ĐBN cũng như MHBNBLMĐ không định nghĩa Thiện tri thức mà chỉ nêu ra một số điều kiện cho những ai muốn trở thành Thiện tri thức để cứu rỗi chúng sanh. Thực hiện những điều kiện đó chính là hành Bồ Tát đạo hay Bồ Tát hạnh là trên (thượng) cầu quả vị Giác ngộ tối cao, dưới (hạ) hóa độ chúng sanh.

 

Tóm lược:

 

Điều kiện tiên quyết cho người muốn trở thành Thiện tri thức thì người ấy phải có khả năng tuyên thuyết, ban phát cho chúng hữu tình lục Ba la mật và tất cả pháp Phật, rồi cùng chung hồi hướng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Nhưng dẫu vậy, người ấy không nên thủ đắc, tham đắm tất cả pháp kể cả quả vị Vô thượng Bồ đề. Một khi có thủ đắc thì không đắc, không thể giác ngộ, mà không đắc, không giác ngộ thì làm sao có khả năng làm đuốc tuệ, làm ánh sáng, làm đạo sư, làm cồn đảo, làm chỗ nương tựa, làm chỗ hướng đến… để giải thoát các nỗi thống khổ đồng thời mang lại nhiều phúc lợi cho toàn thể chúng sanh.

Kinh thuyết:

“Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát khi mới bắt đầu sự nghiệp nên học lục Ba la mật như thế nào?

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát mới bắt đầu sự nghiệp, nếu muốn tu học Bát Nhã, tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật thì trước hết phải gần gũi, cung kính, cúng dường chơn thiện tri thức có khả năng giỏi nói Bát Nhã, tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật, nghĩa là khi nói Kinh Bát nhã Ba la mật thậm thâm, nói như thế này: Thiện nam tử! Hãy đến đây! Khi ngươi bố thí thì, nên nghĩ thế này, việc tu bố thí này ban khắp cho tất cả hữu tình, cùng chung hồi hướng quả vị Giác ngộ tối cao; khi ngươi trì giới, nên nghĩ thế này, việc tu tịnh giới này ban khắp cho tất cả hữu tình, cùng chung hồi hướng quả vị Giác ngộ tối cao; khi ngươi tu an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã thì nên nghĩ thế này, việc tu an nhẫn, việc tu tinh tấn, tịnh lư, Bát Nhã này ban khắp cho tất cả hữu tình, cùng chung hồi hướng quả vị Giác ngộ tối cao.

Này thiện nam tử! Ngươi chẳng nên dựa vào sắc để thủ đắc quả vị Giác ngộ tối cao, cũng chẳng nên dựa vào thọ, tưởng, hành, thức để thủ đắc quả vị Giác ngộ tối cao. Vì sao? Vì nếu chẳng chấp thủ sắc thì mới có thể chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao; chẳng chấp thủ thọ, tưởng, hành, thức mới chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao. Ngươi chẳng nên dựa vào mười hai xứ, mười tám giới và tất cả pháp Phật từ tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, tứ Thánh đế, mười hai duyên khởi, ba mươi bảy pháp trợ đạo, Nhất thiết trí… để thủ đắc quả vị Giác ngộ tối cao.

Này thiện nam tử! Ngươi chẳng nên dựa vào quả vị Giác ngộ tối cao của chư Phật để thủ đắc quả vị Giác ngộ tối cao. Vì sao? Vì nếu không chấp thủ quả vị Giác ngộ tối cao thì mới có thể chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao.

Này thiện nam tử! Đối với sắc, ngươi chớ sanh tham ái, đối với thọ, tưởng, hành, thức, cũng chớ sanh tham ái. Vì sao? Vì sắc, thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải là pháp có thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp là không. Này thiện nam tử! Đối với mười hai xứ, mười tám giới và tất cả pháp Phật từ tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, Tứ Thánh đế, mười hai duyên khởi, ba mươi bảy pháp trợ đạo, Nhất thiết trí…cho đến quả vị Giác ngộ tối cao, ngươi cũng chớ sanh tham ái. Vì sao? Vì tất cả pháp Phật chẳng phải là pháp có thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp là không.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát có khả năng làm việc khó làm, là ở trong tự tánh không của tất cả pháp, mà lại mong cầu quả vị Giác ngộ, lại muốn chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao?

Phật dạy: Đúng vậy! Đúng như lời ông nói! Các đại Bồ Tát có khả năng làm việc khó làm, là ở trong tự tánh không của tất cả pháp, lại mong cầu quả vị Giác ngộ, lại muốn chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao.

Này Thiện Hiện: Tất cả những ai tuy biết tất cả pháp như huyễn, như mộng, như tiếng vang, như ảnh tượng, như bóng sáng, như bóng nắng, như sự biến hóa, như ảo thành, tự tánh đều không, nhưng vì nghĩa lợi thế gian mà phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ tối cao; vì khiến cho thế gian được lợi ích mà phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ tối cao; vì khiến thế gian được an lạc mà phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ tối cao; vì muốn cứu vớt thế gian; vì muốn làm nơi nương tựa cho thế gian; vì muốn làm nơi cư trú cho thế gian; vì muốn làm đạo rốt ráo cho thế gian; vì làm cù lao cho thế gian; vì làm ánh sáng cho thế gian; vì làm ngọn đuốc cho thế gian; vì làm đạo sư, làm tướng soái, làm chỗ hướng đến cho thế gian mà phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ tối cao.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ Tát vì khiến thế gian được nghĩa lợi mà phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ tối cao?

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát vì muốn tất cả hữu tình giải thoát các nỗi thống khổ mà tu hành bố thí, tịnh giới, tu hành an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật, phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ tối cao.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ Tát vì khiến cho thế gian được lợi ích mà phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ tối cao?

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát vì cứu vớt hữu tình ra khỏi sự sợ hãi của năm thú(1), đặt họ ở bờ Niết bàn vô úy(2) mà phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ tối cao.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Tại sao đại Bồ Tát vì khiến thế gian được an lạc mà phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ tối cao?

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát vì cứu vớt hữu tình khỏi ưu, sầu, khổ não đặt họ ở bờ Niết bàn an ổn kia mà phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ tối cao.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Tại sao đại Bồ Tát vì muốn cứu vớt thế gian mà phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ tối cao?

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát vì muốn cứu vớt các khổ sanh tử của hữu tình mà phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ tối cao; khi chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao mới có khả năng nói đúng như thật pháp đoạn khổ; hữu tình nghe rồi, nương vào giáo pháp ba thừa mà lần lượt tu hành để được giải thoát.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Tại sao đại Bồ Tát vì làm chỗ nương tựa cho thế gian mà phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ tối cao?

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát vì muốn giải thoát tất cả hữu tình khỏi sanh, lão, bệnh, tử, sầu, than, khổ, ưu, não, an trụ cõi Vô dư y Niết bàn mà phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ tối cao.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ Tát vì làm chỗ cư trú cho thế gian mà hướng đến quả vị Giác ngộ tối cao?

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát muốn vì hữu tình nói tất cả pháp đều chẳng hòa hợp mà phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ tối cao.

Thiện Hiện lại bạch: Bạch Thế Tôn! Tại sao tất cả pháp đều chẳng hòa hợp?

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Sắc chẳng hòa hợp tức là sắc chẳng hệ thuộc(3) nhau; sắc chẳng hệ thuộc nhau tức là sắc vô sanh; sắc vô sanh tức là sắc vô diệt; sắc vô diệt tức là sắc chẳng hòa hợp. Thọ, tưởng, hành, thức chẳng hòa hợp tức là thọ, tưởng, hành, thức chẳng hệ thuộc nhau; thọ, tưởng, hành, thức chẳng hệ thuộc nhau tức là thọ, tưởng, hành, thức vô sanh; thọ, tưởng, hành, thức vô sanh tức là thọ, tưởng, hành, thức vô diệt; thọ, tưởng, hành, thức vô diệt tức là thọ, tưởng, hành, thức chẳng hòa hợp. Mười hai xứ, mười tám giới, tất cả pháp chẳng hòa hợp tức là tất cả pháp chẳng hệ thuộc nhau; tất cả pháp chẳng hệ thuộc nhau tức là tất cả pháp vô sanh; tất cả pháp vô sanh tức là tất cả pháp vô diệt; tất cả pháp vô diệt tức là tất cả pháp chẳng hòa hợp.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát muốn vì hữu tình nói tất cả pháp đều có tướng chẳng hòa hợp như vậy mà phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ tối cao.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Tại sao đại Bồ Tát muốn tạo đạo cứu cánh cho thế gian mà phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ tối cao?

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ tối cao vì muốn hữu tình nói pháp thế này: Sắc rốt ráo tức chẳng phải là sắc, thọ, tưởng, hành, thức rốt ráo tức chẳng phải là thọ, tưởng, hành, thức; mười hai xứ, mười tám giới rốt ráo tức chẳng phải là mười hai xứ, mười tám giới. Bốn tĩnh lự rốt ráo tức chẳng phải bốn tĩnh lự; bốn vô lượng, bốn định vô sắc, rốt ráo tức chẳng phải bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Tám giải thoát rốt ráo tức chẳng phải tám giải thoát; tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ rốt ráo tức chẳng phải tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ. Ba mươi bảy pháp trợ đạo rốt ráo tức chẳng phải ba mươi bảy pháp trợ đạo. Không giải thoát môn rốt ráo tức chẳng phải không giải thoát môn; vô tướng, vô nguyện giải thoát môn rốt ráo tức chẳng phải vô tướng, vô nguyện giải thoát môn. Bồ Tát thập địa rốt ráo tức chẳng phải Bồ Tát thập địa. Năm nhãn sáu thần thông rốt ráo tức chẳng phải năm nhãn, sáu thần thông. Phật mười lực rốt ráo tức chẳng phải Phật mười lực; bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng rốt ráo tức chẳng phải bốn vô sở úy cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Pháp vô vong thất rốt ráo tức chẳng phải pháp vô vong thất; tánh hằng trụ xả rốt ráo tức chẳng phải tánh hằng trụ xả. Nhất thiết trí rốt ráo tức chẳng phải Nhất thiết trí; Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí rốt ráo tức chẳng phải Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Tất cả Đà la ni môn rốt ráo tức chẳng phải tất cả Đà la ni môn; tất cả Tam ma địa môn rốt ráo tức chẳng phải tất cả tam ma địa môn. Quả Dự lưu rốt ráo tức chẳng phải quả Dự lưu; quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán rốt ráo tức chẳng phải quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán. Độc giác Bồ đề rốt ráo tức chẳng phải Độc giác Bồ đề. Tất cả hạnh Bồ Tát rốt ráo tức chẳng phải tất cả hạnh Bồ Tát. Chư Phật Vô Thượng Bồ đề rốt ráo tức chẳng phải Chư Phật Vô Thượng Bồ đề .

Thiện Hiện! Tướng rốt ráo của các pháp này như thế nào thì tướng tất cả pháp cũng như vậy.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Nếu tướng của tất cả pháp như tướng rốt ráo thì làm sao đại Bồ Tát đối với tất cả pháp, ứng hiện Đẳng giác? Vì sao? Bạch Thế Tôn! Chẳng phải trong cái rốt ráo của sắc có sự phân biệt thế này: Đây là sắc; cũng chẳng phải trong cái rốt ráo của thọ, tưởng, hành, thức có sự phân biệt thế này: Đây là thọ, tưởng, hành, thức. Chẳng phải trong cái rốt ráo của mười hai xứ, mười tám giới có sự phân biệt thế này: Đây là mười hai xứ, mười tám giới. Cũng chẳng phải trong cái rốt ráo của tất cả pháp Phật có sự phân biệt thế này: Đây là tất cả pháp Phật?

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Này Thiện Hiện! Trong cái rốt ráo của sắc không có sự phân biệt thế này: Đây là sắc; trong cái rốt ráo của thọ, tưởng, hành, thức cũng không có sự phân biệt thế này: Đây là thọ, tưởng, hành, thức…cho đến trong cái rốt ráo của tất cả pháp Phật không có sự phân biệt thế này: Đây là tất cả pháp Phật.

Này Thiện Hiện! Đây là việc khó khăn của đại Bồ Tát, đó là tuy quán tất cả pháp đều là tướng tịch diệt nhưng tâm không chìm đắm và tự nghĩ: Ta đối với pháp ấy, hiện đẳng giác rồi, chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao, vì các hữu tình tuyên thuyết, khai thị pháp vi diệu tịch diệt như vậy.

Này Thiện Hiện! Đó là đại Bồ Tát vì muốn tạo con đường rốt ráo cho thế gian nên phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ tối cao.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Tại sao đại Bồ Tát vì muốn tạo cù lao cho thế gian mà phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ tối cao?

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Thí như ở trong biển cả, sông ngòi lớn nhỏ, có chỗ nhô cao lên khỏi mặt nước, có thể ở được thì gọi đó là cù lao.

Này Thiện Hiện! Cũng vậy, khoảng trước, sau của sắc đều dứt, khoảng trước, sau của thọ, tưởng, hành, thức đều dứt; khoảng trước, sau của mười hai xứ, mười hai giới đều dứt, khoảng trước, sau của tất cả pháp Phật đều dứt. Này Thiện Hiện! Do khoảng trước, khoảng sau này đều dứt nên tất cả pháp đều dứt.

Này Thiện Hiện! Khoảng trước, sau của tất cả pháp Phật đều dứt tức là tịch diệt, tức là vi diệu, tức là như thật, đó là không, không có sở đắc, con đường dứt ái hết, lìa nhiễm không còn gì, vĩnh viễn Niết bàn. Đại Bồ Tát cầu chứng quả vị Giác ngộ tối cao, muốn vì hữu tình tuyên thuyết khai thị pháp vi diệu tịch diệt như thế.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Tại sao đại Bồ Tát vì làm ánh sáng cho thế gian mà phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ tối cao?

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát vì phá tan đêm dài vô minh, đập vỡ vỏ trứng che khuất hữu tình nhiều lớp đen tối, vì trị liệu mắt nhặm vô tri của hữu tình khiến cho trong sáng, vì tất cả hữu tình ngu tối làm ánh sáng chiếu soi mà phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ tối cao.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Tại sao đại Bồ Tát vì làm ngọn đuốc cho thế gian mà phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ tối cao?

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát muốn vì hữu tình tuyên thuyết sáu phép Ba la mật và Kinh điển tương ưng bốn nhiếp pháp, nghĩa thú chơn thật để phương tiện giáo hóa dẫn dắt, khuyên họ tu học mà phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ tối cao.

Cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật: Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ Tát vì cùng thế gian làm đạo sư, nên phát thú Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề?

Phật bảo: Thiện Hiện! Thiện Hiện! Bồ Tát Ma ha tát không muốn hữu tình sa vào tà đạo, xa lìa tứ chủng chướng chẳng nên hành, nên thuyết nhất đạo(4) khiến quay về no chánh(5). Vì kẻ tạp nhiễm được thanh tịnh, vì kẻ sầu não được vui, vì kẻ buồn khổ được hoan lạc, vì hữu tình phi lý chứng pháp như lý, vì hữu tình trôi lăn được vào Niết bàn, phát thú Vô Thượng Bồ đề. Thiện Hiện! Đấy là đại Bồ Tát vì cùng thế gian làm đạo sư, nên phát thú Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Tại sao đại Bồ Tát vì làm tướng soái cho thế gian mà phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ tối cao?

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát mong cầu quả vị Giác ngộ tối cao là muốn vì hữu tình tuyên thuyết khai thị sắc vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh; thọ, tưởng, hành, thức vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh; muốn vì hữu tình tuyên thuyết khai thị mười hai xứ, mười tám giới và tất cả pháp Phật cũng như vậy.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Tại sao đại Bồ Tát vì làm nơi hướng đến cho thế gian mà phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ tối cao?

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát mong cầu quả vị Giác ngộ tối cao muốn vì hữu tình tuyên thuyết khai thị sắc lấy hư không làm chỗ hướng đến; thọ, tưởng, hành, thức cũng lấy hư không làm chỗ hướng đến; muốn vì hữu tình tuyên thuyết khai thị mười hai xứ, mười tám giới cho đến tất cả pháp Phật cũng như thế.

Vì các hữu tình tuyên thuyết khai thị sắc chẳng phải chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ chẳng hướng đến(6). Vì sao? Vì tánh của sắc là không; trong tánh không, không có chỗ hướng đến, không có chỗ chẳng hướng đến; thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng phải chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ chẳng hướng đến. Vì sao? Vì tánh của thọ, tưởng, hành, thức là không; trong tánh không, không có chỗ hướng đến, không có chỗ chẳng hướng đến. Vì các hữu tình tuyên thuyết khai thị mười hai xứ, mười tám giới chẳng phải chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ chẳng hướng đến. Vì sao? Vì tánh của mười hai xứ, mười tám giới là không; trong tánh không, không có chỗ hướng đến, không có chỗ chẳng hướng đến; tất cả pháp Phật cũng chẳng phải chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ chẳng hướng đến. Vì sao? Vì tánh của tất cả pháp Phật là không; trong tánh không, không có chỗ hướng đến, không có chỗ chẳng hướng đến.

Này Thiện Hiện! Vì tất cả pháp đều lấy không, làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể vượt qua được(7). Vì sao? Vì trong không, chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến đều chẳng thể nắm bắt được. Thiện Hiện! Tất cả pháp đều lấy vô tướng, vô nguyện làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, đều chẳng vượt qua được. Vì sao? Vì trong vô tướng, vô nguyện chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến đều chẳng thể nắm bắt được.

Này Thiện Hiện! Tất cả pháp đều lấy vô khởi, vô tác, vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh, làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể vượt qua được. Vì sao? Vì trong vô khởi đến vô nhiễm, vô tịnh, chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến đều chẳng thể nắm bắt được.

Này Thiện Hiện! Tất cả pháp đều lấy vô sở hữu làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể vượt qua được. Vì sao? Vì trong vô sở hữu, chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến đều chẳng thể nắm bắt được.

Này Thiện Hiện! Tất cả pháp đều lấy huyễn, mộng, tiếng vang, ảnh tượng, bóng sáng, bóng nắng, việc biến hóa, ảo thành làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể vượt qua được. Vì sao? Vì trong huyễn, mộng… đến ảo thành, chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến đều chẳng thể nắm bắt được.

Này Thiện Hiện! Tất cả pháp đều lấy vô lượng, vô biên làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể vượt qua được. Vì sao? Vì trong vô lượng, vô biên, chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến đều chẳng thể nắm bắt được.

Này Thiện Hiện! Tất cả pháp đều lấy việc chẳng cho, chẳng nhận, việc chẳng nâng, chẳng hạ, vô khứ, vô lai, vô tăng, vô giảm, bất nhập, bất xuất làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể vượt qua được. Vì sao? Vì trong chẳng cho, chẳng nhận cho đến chẳng hợp, chẳng lìa, chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến đều chẳng thể nắm bắt được.

Này Thiện Hiện! Tất cả pháp đều lấy ngã làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể vượt qua được. Vì sao? Vì ngã rốt ráo còn vô sở hữu, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến, có thể nắm bắt được. Tất cả pháp đều lấy hữu tình, dòng sanh mạng, khả năng sanh khởi, sự dưỡng dục, sự trưởng thành, chủ thể luân hồi, ý sanh, nho đồng, khả năng làm việc, khả năng khiến người làm việc, khả năng thọ báo, khả năng khiến người thọ báo, khả năng tạo nghiệp, khả năng khiến người tạo nghiệp, cái biết, cái thấy làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể vượt qua được. Vì sao? Vì hữu tình cho đến cái biết, cái thấy rốt ráo còn vô sở hữu, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến, có thể nắm bắt được.

Này Thiện Hiện! Tất cả pháp đều lấy thường, lạc, ngã, tịnh làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể vượt qua được. Vì sao? Vì thường, lạc, ngã, tịnh rốt ráo còn vô sở hữu, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến, có thể nắm bắt được.

Này Thiện Hiện! Tất cả pháp đều lấy vô thường, khổ, vô ngã, tịch tịnh, làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể vượt qua được. Vì sao? Vì vô thường, khổ, vô ngã, tịch tịnh rốt ráo còn vô sở hữu, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến, có thể nắm bắt được.

Này Thiện Hiện! Tất cả pháp đều lấy tham, sân, si làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể vượt qua được. Vì sao? Vì tham, sân, si rốt ráo còn vô sở hữu, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến, có thể nắm bắt được.

Tất cả pháp đều lấy chơn như làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, cũng chẳng thể vượt qua được. Vì sao? Vì trong chơn như, chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến rốt ráo đều chẳng thể nắm bắt được. Tất cả pháp đều lấy pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, cũng chẳng thể vượt qua được. Vì sao? Vì trong tất cả pháp ấy, chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến rốt ráo đều chẳng thể nắm bắt được.

Này Thiện Hiện! Tất cả pháp đều lấy sự bất động làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể vượt qua được. Vì sao? Vì trong sự bất động, chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến rốt ráo đều chẳng thể nắm bắt được.

Này Thiện Hiện! Tất cả pháp đều lấy sắc, thọ, tưởng, hành, thức làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể vượt qua được. Vì sao? Vì ngũ uẩn rốt ráo còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến. Tất cả pháp đều lấy mười hai xứ, mười tám giới và tất cả pháp Phật làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể vượt qua được. Vì sao? Vì mười hai xứ, mười tám giới và tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, tứ Thánh đế, thập nhị nhân duyên, ba mươi bảy pháp trợ đạo, mười tám pháp Phật bất cộng, Nhất thiết trí… rốt ráo còn vô sở hữu chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến.

Này Thiện Hiện! Tất cả pháp đều lấy tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu vượt. Vì sao? Vì tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác rốt ráo còn vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến.

Này Thiện Hiện! Như thế là đại Bồ Tát vì làm chỗ hướng đến cho thế gian mà phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ tối cao.

 

Thích nghĩa:

(1). Năm thú (Phạm: Paĩca gataya. Pàli: Paĩca gatiyo) Cũng gọi Ngũ đạo, Ngũ ác thú, Ngũ hữu. Năm cõi mà các loài hữu tình tùy theo nghiệp đã tạo, sẽ sanh đến đó sau khi chết. Đó là: 1- Địa ngục. 2- Ngạ quỉ Ngã quỉ. 3- Bàng sinh cũng gọi Súc sanh. 4- Nhân Người. 5- Thiên Trời, Thiên thượng.

Kinh thường nói là lục đạo luân hồi tức thêm A tu la.

(2). Niết bàn vô úy còn gọi là Vô dư y Niết bàn, Vô dư y bát Niết bàn: Đã thích nghĩa trong phần thứ I Tổng luận.

(3). Hệ thuộc: Bị trói buộc, bị cột chặt, bị dẫn dắt.

(4). và (5). Cụ thọ Thiện Hiện thưa với Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ Tát Ma ha tát vì cùng thế gian làm đạo sư, nên phát thú Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề? Phật nói: Thiện Hiện! Bồ Tát Ma ha tát vì muốn hữu tình hướng vào tà đạo lìa hạnh bốn thứ, chẳng nên hành xứ, vì thuyết nhất đạo khiến quy chánh vậy. Dịch như vậy khó hiểu. Nguyên văn đoạn Kinh này bằng chữ Hán là: Thế Tôn . vân Bồ Tát . Ma Ha Tát vi dữ thế gian tác đạo cố . phát thú Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề . Phật ngôn . Thiện Hiện . Bồ Tát Ma Ha Tát . dục linh thú hướng đạo hữu tình . ly hành tứ chủng bất ưng/ứng hành xứ . vi thuyết nhất đạo linh quy chánh cố”. Câu vì muốn hữu tình lạc vào tà đạo “lìa hạnh bốn thứ”. Chữ Hán là ly hành tứ chủng. Từ “bốn thứ” dịch từ chữ Hán là tứ chủng, không được chỉnh lắm. Vì vậy, đoạn Kinh này khó giải thích, nếu không so chiếu với bản chữ Hán. Tứ chủng nói đây có nghĩa là tứ chủng chướng (四種障) là bốn thứ chướng đạo gồm: Duyên tướng, Nhân tướng, Sanh tướng, và Hoại tướng. Có thể dịch là “Phật nói: Thiện Hiện! Bồ Tát Ma ha tát thấy hữu tình sa vào tà đạo, khuyến hữu tình lìa tứ chủng chướng chẳng nên hành, nên thuyết nhất đạo khiến quay về no chánh”. Dịch như vậy, đúng và dễ hiểu hơn?

(6). Chẳng phải chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ chẳng hướng đến: Từ “hướng đến” là dịch chữ kép “thú hướng” tức hướng đến mục tiêu nào đó. Luận Đại Trí Độ giải thích rằng:

“Thú có nghĩa là đến. “Thú hướng” có nghĩa là hướng đến một mục tiêu nào. Đây là hướng đến Niết Bàn an lạc, vô úy. Như vậy là “muốn an lạc chúng sanh” và “muốn làm chỗ thú hướng cho chúng sanh” đồng nghĩa với nhau.

“Được an lạc nơi Niết Bàn” là cứu cánh, và “thú hướng Niết Bàn” là phương tiện. Vì “Thú hướng Niết Bàn là phương tiện nên phải rộng nói.

Đoạn kinh trên đây cho thấy rằng, hướng đến Niết Bàn là hướng đến chỗ cứu cánh, chỗ rốt ráo không, tức là vào nơi thật tướng của các pháp vậy. Đến chỗ “không tướng” là chẳng đến và cũng chẳng phải chẳng đến.

Vì sao? Vì trong “không” thì “đến” và “chẳng đến” cũng đều là bất khả đắc.

(7). Hai bản dịch ĐBN của HT Thích Trí Nghiêm, một bản đăng trên Website thuvienhoasen.org dịch là: “Tất cả pháp đều lấy không làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, cũng chẳng thể siêu việt” và bản khác đăng trên Website tuvienquangduc.com lại dịch là “Tất cả pháp đều lấy không làm tới. Kia đối tới này chẳng thể vượt khỏi”. Hai đoạn Kinh trên dịch hơi khó hiểu. Nếu dịch là “Tất cả pháp đều lấy không làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, cũng chẳng thể vượt qua được có lẽ dễ hiểu hơn chăng?

 Từ “thú có nghĩa là đến. “thú hướng” có nghĩa là hướng đến một mục tiêu nào.

 

Lược giải:

 

1. Ai là người có thể làm thiện tri thức hay bạn lành chơn tịnh

của tất cả hữu tình?

 

Chủ đề của phẩm này thay vì thuyết “ai là người có thể làm thiện tri thức, làm bạn lành chơn tịnh của chúng hữu tình?” thì lại đề cập đến những điều kiện để trở thành thiện hữu tri thức của tất cả hữu tình:

Kinh trả lời là muốn trở thành Thiện tri thức thì người ấy phải có khả năng tuyên thuyết, ban phát cho chúng hữu tình lục Ba la mật và tất cả pháp Phật, rồi cùng chung hồi hướng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Nhưng dẫu vậy, người ấy không nên thủ đắc, tham đắm tất cả pháp kể cả quả vị Vô thượng Bồ đề. Một khi có thủ đắc thì không đắc, không thể giác ngộ, mà không đắc, không giác ngộ thì làm sao có khả năng làm đuốc tuệ, làm ánh sáng, làm đạo sư, làm cồn đảo, làm chỗ nương tựa, làm chỗ hướng đến… để giải thoát các nỗi thống khổ đồng thời mang lại nhiều phúc lợi cho toàn thể chúng sanh. Nên cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

“ Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát khi mới bắt đầu sự nghiệp nên học lục Ba la mật như thế nào?

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát mới bắt đầu sự nghiệp, nếu muốn tu học Bát Nhã, tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật thì trước hết phải gần gũi, cung kính, cúng dường chơn thiện tri thức có khả năng giỏi nói Bát Nhã, tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật, nghĩa là khi nói Kinh Bát nhã Ba la mật thậm thâm, nói như thế này: Thiện nam tử! Hãy đến đây! Khi ngươi bố thí thì, nên nghĩ thế này, việc tu bố thí này ban khắp cho tất cả hữu tình, cùng chung hồi hướng quả vị Giác ngộ tối cao; khi ngươi trì giới, nên nghĩ thế này, việc tu tịnh giới này ban khắp cho tất cả hữu tình, cùng chung hồi hướng quả vị Giác ngộ tối cao; khi ngươi tu an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã thì nên nghĩ thế này, việc tu an nhẫn, việc tu tinh tấn, tịnh lư, Bát Nhã này ban khắp cho tất cả hữu tình, cùng chung hồi hướng quả vị Giác ngộ tối cao”.

Rồi Phật khuyên:

Người tu chẳng nên dựa vào tất cả pháp Phật để thủ đắc quả vị Giác ngộ tối cao. Nếu không chấp thủ quả vị Giác ngộ tối cao thì mới có thể chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao”.

Kinh bảo: “Tất cả những ai tuy biết tất cả pháp như huyễn, như mộng, như tiếng vang, như ảnh tượng, như bóng sáng, như bóng nắng, như sự biến hóa, như ảo thành, tự tánh đều không, nhưng vì nghĩa lợi thế gian mà phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ tối cao; vì khiến cho thế gian được lợi ích mà phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ tối cao; vì khiến thế gian được an lạc mà phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ tối cao; vì muốn cứu vớt thế gian; vì muốn làm nơi nương tựa cho thế gian; vì muốn làm nơi cư trú cho thế gian; vì muốn làm đạo rốt ráo cho thế gian; vì làm cù lao cho thế gian; vì làm ánh sáng cho thế gian; vì làm ngọn đuốc cho thế gian; vì làm đạo sư cho thế gian; vì làm tướng soái cho thế gian; vì làm chỗ hướng đến cho thế gian mà phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ tối cao”.

Bất cứ những chúng sanh nào làm được như vậy thì có khả năng và xứng đáng làm thiện tri thức, làm bạn lành chơn tịnh cho tất cả hữu tình! Tất cả thế gian Trời Người nếu thân cận Thiện tri thức như thế thì có cơ hội tu sửa, sớm mở đạo nhãn thì có thể đem lại thường lạc ngã tịnh cho thế gian này!

 

2. Đâu là chỗ hướng đến của Bồ Tát?

 

Chỗ hướng đến là giải thoát các nỗi thống khổ của tất cả hữu tình; cứu vớt hữu tình ra khỏi sự sợ hãi của năm thú; cứu vớt hữu tình khỏi sanh, lão, bệnh, tử, ưu, sầu, khổ não và đặt họ ở bờ Niết bàn an ổn. Đó là mục tiêu.

Muốn thực hiên mục tiêu này thì phải tạo đạo cứu cánh cho thế gian. Tạo đạo cứu cánh cho thế gian là thuyết tất cả pháp rốt ráo không (pháp không), nói tất cả pháp rốt ráo là như tướng (pháp như)để chúng sanh hiểu biết tu tập đạt được đạo Bồ đề mà giải thoát. Muốn thế phải lập phương tiên.

Kinh bảo: Chỗ hướng đến thiết thực nhất là tạo cù lao cho thế gian vì muốn hữu tình dứt ái, lìa nhiễm. Chỗ hướng đến là làm ánh sáng cho thế gian vì muốn lột vỏ vô minh tâm tối cho hữu tình. Chỗ hướng đến là làm ngọn đuốc cho thế gian nên thuyết sáu pháp đưa người qua bờ bên kia. Chỗ hướng đến là làm đạo sư vì muốn hữu tình sa lìa tà đạo quay về no chánh. Chỗ hướng đến là làm tướng soái cho thế gian vì hữu tình tuyên thuyết khai thị tất cả pháp vô sanh-vô diệt, vô nhiễm-vô tịnh v.v…

Thực hiện được tất cả các điểm ấy, Bồ Tát mới được gọi là bạn lành chơn thiện của tất cả hữu tình.

Nhưng Phật lại nói đến những khó khăn: “Vì các hữu tình tuyên thuyết khai thị sắc chẳng phải chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ chẳng hướng đến. Vì sao? Vì tánh của sắc là không; trong tánh không, không có chỗ hướng đến, không có chỗ chẳng hướng đến; thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng phải chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ chẳng hướng đến. Vì sao? Vì tánh của thọ, tưởng, hành, thức là không; trong tánh không, không có chỗ hướng đến, không có chỗ chẳng hướng đến. Vì các hữu tình tuyên thuyết khai thị 12 xứ, 18 giới chẳng phải chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ chẳng hướng đến. Vì sao? Vì tánh của 12 xứ, 18 giới là không; trong tánh không, không có chỗ hướng đến, không có chỗ chẳng hướng đến; tất cả pháp Phật cũng chẳng phải chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ chẳng hướng đến. Vì sao? Vì tánh của tất cả pháp Phật là không; trong tánh không, không có chỗ hướng đến, không có chỗ chẳng hướng đến.

Vì tất cả pháp đều lấy không, làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu vượt. Vì sao? Vì trong không, chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến đều chẳng thể nắm bắt được. Thiện Hiện! Tất cả pháp đều lấy vô tướng, vô nguyện làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, đều chẳng siêu vượt. Vì sao? Vì trong vô tướng, vô nguyện chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến đều chẳng thể nắm bắt được.

Tất cả pháp đều lấy vô sở hữu làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu vượt. Vì sao? Vì trong vô sở hữu, chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến đều chẳng thể nắm bắt được.

Này Thiện Hiện! Tất cả pháp đều lấy huyễn, mộng, tiếng vang, ảnh tượng, bóng sáng, bóng nắng, việc biến hóa, ảo thành làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu vượt. Vì sao? Vì trong huyễn, mộng… đến ảo thành, chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến đều chẳng thể nắm bắt được.

Này Thiện Hiện! Tất cả pháp đều lấy vô lượng, vô biên làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu vượt. Vì sao? Vì trong vô lượng, vô biên, chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến đều chẳng thể nắm bắt được”.

 Đó là chỗ nan hành của Bồ Tát, biết rằng tất cả pháp đều như huyễn như hóa, tất cả pháp là không, vô tướng, vô tác, vô sỡ hữu không thể nắm bắt, không thể siêu vượt… Đó là công trình nan hành mà năng hành (khó làm mà vẫn thường làm). Nhưng Bồ Tát tu nhẫn kiên cố, vẫn thực hành đạo pháp, vẫn làm Phật sự thành thục chúng sanh, thanh tịnh Phật đạo. Đó là chỗ uyên áo (sâu xa, huyền bí) của Bồ Tát hạnh hay Bồ Tát đạo trong việc thực thi công hạnh làm đẹp thế gian này.

 

3. Chỗ hướng đến chẳng thể siêu vượt.

 

“Này Thiện Hiện! Tất cả pháp đều lấy việc chẳng cho-chẳng nhận, việc chẳng nâng-chẳng hạ, vô khứ-vô lai, không tăng-không giảm, bất nhập-bất xuất, chẳng hợp-chẳng lìa làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu vượt. Vì sao? Vì trong chẳng cho-chẳng nhận cho đến chẳng hợp-chẳng lìa, chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến đều chẳng thể nắm bắt được”.

Chỗ hướng đến của chúng sanh là chẳng cho-chẳng nhận cho đến chẳng hợp-chẳng lìa là lưỡng nguyên, là bất khả đắc cũng gọi là đệ nhất nghĩa đế tức không. Đã là không rồi thì làm gì có đến có đi, có vượt qua, vượt trên hay siêu vượt(1). Vì vậy, không có gì là siêu việt, kỳ đặc ở đây.

Đừng tưởng tượng bốc cao là có thể vượt qua và vượt trên những thứ ấy. Một khi muốn vượt qua và vượt trên chỗ siêu việt và một khi đạt được cảnh giới đó rồi thì siêu việt bị giới hạn, siêu việt không còn là siêu việt nữa. Siêu việt chỉ trở thành siêu việt khi không có một giới hạn nào, nó là tuyệt đối không, là vô sở hữu. Nên Kinh nói: “rốt ráo là vô sở hữu chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến”.

Thật là ngược đời khi Phật bảo phải lấy huyễn mộng... của tất cả pháp làm chỗ hướng đến. Phật cốt phủ nhận tánh cách bất thực của tất cả pháp và nói rằng khi tri nhận các pháp chỉ là huyễn mộng... rồi, thì sẽ thấy cái chẳng huyễn (phi huyễn) đằng sau nó. Nhưng cái chẳng huyễn cũng chẳng phải là chỗ hướng đến vì tất cả đều không thể nắm bắt được. Vậy chỗ nào là chỗ cần hướng đến? Khi đã thâm nhập được tất cả các pháp không, tất cả pháp như rồi, biết tất cả pháp đều bình đẳng, thì chẳng có gì ngược đời. Với cái tâm đại bi bình đẳng, Bồ Tát có thể thực hiện bất cứ công trình nan hành nào trong việc đem lại phúc lợi cho toàn thể chúng sanh.

Thích nghĩa cho phần lược giải này:

(1). Siêu vượt: Vượt qua năng lực hay sự hiểu biết thông thường cũng có nghĩa là siêu việt./.

 

---o0o---

 

 


 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567