Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

61. Phẩm "Đồng Tánh"

05/09/202018:26(Xem: 8450)
61. Phẩm "Đồng Tánh"

 TỔNG LUẬN
 KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***
buddha-451

PHẨM "ĐỒNG TÁNH"

Phần sau quyển 455 đến phần đầu quyển 456, Hội thứ II, ĐBN.

(Nằm trong phẩm “Học Phương Tiện Xảo”, từ Q.338 trở đi, Hội thứ I, ĐBN)



Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh, Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước, Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le

 

Gợi ý:

Phẩm này của Hội thứ II mà chúng ta sẽ trì tụng có tên là “Đồng Tánh”, tương đương với phẩm thứ 63, có tên là “Đẳng Học”, tập 4, quyển 77, Đại Trí Độ Luận. Phẩm trước của hai Kinh đều có đồng một tên là “Đồng Học”, nghĩa là các Bồ Tát cùng sống chung, cùng ăn cùng ở cùng học với nhau xem nhau như đồng hội đồng thuyền. Chúng ta đã đọc qua rồi.

Riêng phẩm này của Hội thứ II, ĐBN có tên là “Đồng Tánh”, trong khi Kinh MHBNBLMĐ thì gọi là “Đẳng Học”. Phẩm tựa có khác nhưng nội dung không khác.

 

Tóm lược:

 

(Thế nào gọi là đồng tánh của đại Bồ Tát?)

 

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là đồng tánh của đại Bồ Tát, do học ở trong đó nên gọi là đồng học?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Pháp nội không là đồng tánh của đại Bồ Tát, pháp ngoại không, cho đến pháp vô tính tự tính không là đồng tánh của Bồ Tát, vì các đại Bồ Tát học ở trong đó nên gọi là đồng học. Do sự đồng học này nên đại Bồ Tát mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Lại nữa Thiện Hiện! Sắc, sắc tánh không; thọ, tưởng, hành, thức, thọ, tưởng, hành, thức tánh không là đồng tánh của đại Bồ Tát. Mười hai xứ, mười hai xứ tánh không; cho đến mười tám giới, mười tám giới tánh không là đồng tánh của đại Bồ Tát. Nhãn xúc, nhãn xúc tánh không cho đến ý xúc, ý xúc tánh không là đồng tánh của đại Bồ Tát. Các cảm thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, các cảm thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra tánh không cho đến các cảm thọ do ý xúc làm duyên sanh ra, các cảm thọ do ý xúc làm duyên sanh ra tánh không là đồng tánh của đại Bồ Tát. Địa giới, địa giới tánh không cho đến thức giới, thức giới tánh không là đồng tánh của đại Bồ Tát. Bố thí, bố thí tánh không cho đến Bát nhã Ba la mật, Bát nhã Ba la mật tánh không là đồng tánh của đại Bồ Tát. Pháp nội không, pháp nội không tánh không cho đến pháp vô tính tự tính không, vô tánh tự tánh không tánh không là đồng tánh của đại Bồ Tát. Chơn như, chơn như tánh không cho đến cảnh giới bất tư nghì, cảnh giới bất tư nghì tánh không là đồng tánh của đại Bồ Tát. Tứ Thánh đế, tứ Thánh đế tánh không, 37 pháp trợ đạo, ba mươi bảy pháp trợ đạo tánh không là đồng tánh của đại Bồ Tát. Như Lai mười lực Như Lai, Như Lai mười lực Như Lai tánh không cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, mười tám pháp Phật bất cộng tánh không là đồng tánh của đại Bồ Tát. Pháp không quên mất, pháp không quên mất tánh không, tánh luôn luôn xả, tánh luôn luôn xả tánh không là đồng tánh của đại Bồ Tát. Nhất thiết trí, Nhất thiết trí tánh không, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí tánh không là đồng tánh của đại Bồ Tát cho đến Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề tánh không là đồng tánh đại Bồ Tát. Vì đại Bồ Tát trụ ở trong đó để học nên gọi là đồng học. Do sự đồng học này mà các Bồ Tát mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Khi ấy, Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ Tát vì sắc tận nên học, vì thọ, tưởng, hành, thức dứt nên học là học Nhất thiết trí trí chăng? Vì sắc lìa nên học, vì thọ, tưởng, hành, thức lìa nên học là học Nhất thiết trí trí chăng? Vì sắc diệt nên học, vì thọ, tưởng, hành, thức diệt nên học là học Nhất thiết trí trí chăng? Vì sắc không sanh nên học, vì thọ, tưởng, hành, thức không sanh nên học là học Nhất thiết trí trí chăng?

Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ Tát cho đến vì Bồ Tát hạnh, vì quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề dứt nên học là học Nhất thiết trí trí chăng? Vì hạnh của đại Bồ Tát, vì quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề lìa nên học là học Nhất thiết trí trí chăng?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Nếu đại Bồ Tát vì sắc tận, vì ly, vì diệt, vì bất sanh nên học là học Nhất thiết trí trí chăng? Vì thọ tưởng hành thức tận, vì ly, vì diệt, vì bất sanh nên học, là học Nhất thiết trí trí chăng? Như vậy, cho đến vì Bồ Tát hạnh tận, vì ly, vì diệt, vì bất sanh nên học, là học Nhất thiết trí trí chăng? Vì Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề tận, vì ly, vì diệt, vì bất sanh nên học, là học Nhất thiết trí trí chăng?

Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Sắc như có tận, ly, diệt, đoạn chăng? Thọ, tưởng, hành, thức như có tận, ly, diệt, đoạn chăng? Như vậy, cho đến Bồ Tát hạnh như có tận, ly, diệt, đoạn chăng? Quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề như có tận, ly, diệt, đoạn chăng?

Thiện Hiện đáp:

- Bạch Thế Tôn! Chẳng có. Bạch Thiện Thệ! Chẳng có.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Nếu đại Bồ Tát đối chơn như học như thế, là học Nhất thiết trí trí. Thiện Hiện! Phải biết chơn như vô tận, vô ly, vô diệt, vô đoạn, chẳng thể tác chứng. Nếu đại Bồ Tát đối chơn như học như thế là học Nhất thiết trí trí. (Q. 455, ĐBN)

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát khi học như thế là học bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Là học nội không cho đến vô tánh tự tánh không. Là học chơn như cho đến bất tư nghì giới. Là học khổ tập diệt đạo Thánh đế. Là học bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo. Là học bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Là học tám giải thoát cho đến mười biến xứ. Là học không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn. Là học tất cả Đà la ni, Tam ma địa môn. Là học năm nhãn, sáu thần thông. Là học Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Là học pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả. Là học Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Là học tất cả Bồ Tát hạnh. Là học chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát học bố thí Ba la mật cho đến chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, phải biết là học Nhất thiết trí trí.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát khi học như thế đến bờ bên kia, học tất cả rốt ráo tất cả thiên ma và các ngoại đạo chẳng thể uốn dẹp được, mau chứng Bồ Tát Bất thối chuyển, đi chỗ đáng đi mà Tổ Phụ tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đã đi. Chuyển vận theo pháp có thể hộ trì, có thể làm pháp cần làm là xa lìa sự tối tăm, thường khéo thành thục tất cả hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật. Gọi là khéo học đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả và vô lượng vô biên các Phật pháp khác.

Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát học được như thế là học ba lần chuyển mười hai hành pháp luân. Là học an để trăm ngàn trăm ức muôn ức chúng nơi cõi Vô dư y Niết Bàn. Là học diệu hành chẳng dứt giống Phật. Là học chư Phật mở cửa Cam lồ. Là học an lập vô lượng vô số vô biên hữu tình trụ pháp Tam thừa. Là học thị hiện tất cả hữu tình cõi rốt ráo tịch diệt vô vi. Đấy là tu học Nhất thiết trí trí. Học như thế ấy, những kẻ kém cỏi chẳng thể học được.

Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát muốn khéo cứu vớt tất cả hữu tình khổ lớn sanh tử, nên học như thế.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát khi học như thế, quyết định chẳng đọa địa ngục, bàng sanh, quỷ giới. Quyết định chẳng sanh biên địa hạ tiện, chẳng xa lìa Tam Bảo. Quyết định chẳng sanh nhà hàng thịt, nhà gánh thây chết và những nhà bần cùng hạ tiện bất luật nghi. Trọn chẳng đui điếc câm ngọng, cùi cụt, các căn thiếu sót, lưng gù, điên cuồng, ung thư, hủi lác. Chẳng cao, chẳng lùn, cũng chẳng đen đủi và không có các thứ ghẻ lở ghê tởm.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát học như thế đời đời thường được quyến thuộc viên mãn, hình mạo đoan nghiêm, lời nói nghiêm nghị, nhiều người mến kính. Sanh ở chỗ nào lìa hại sanh mạng cho đến tà kiến, trọn chẳng nhiếp thọ tà pháp hư dối, chẳng dùng tà pháp mà tự nuôi sống, cũng chẳng nhiếp thọ hữu tình  phá giới, ác kiến, hủy báng chánh pháp... làm bạn thân.

Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào học như thế thì chẳng sanh vào cõi trời trường thọ là nơi chìm đắm trong thú vui và ít có trí huệ. Vì sao? Đại Bồ Tát này trọn nên thế lực phương tiện khéo léo. Do thế lực phương tiện khéo léo đây, nên tuy thường vào tĩnh lự, vô lượng và định vô sắc mà chẳng theo thế lực kia thọ sanh. Vì được Bát Nhã thẳm sâu nhiếp thọ, trọn nên phương tiện khéo léo như thế, ở trong các định tuy thường vào ra tự tại, mà chẳng theo thế lực các định kia sanh ở trời Trường thọ, bỏ tu Bồ Tát diệu hạnh thù thắng. Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát khi học như thế, đối Phật mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng thảy vô lượng vô biên diệu pháp chư Phật đều thanh tịnh. Do thanh tịnh nên chẳng đọa các bậc Thanh văn, Độc giác thảy.

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp bản tánh thanh tịnh, các đại Bồ Tát làm sao lại đối diệu pháp chư Phật mà được thanh tịnh?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Như vậy, như ngươi đã nói! Các pháp bản lai tự tánh thanh tịnh. Đại Bồ Tát này đối tất cả pháp trong bản tánh tịnh, tinh siêng tu học Bát nhã Ba la mật như thật thông suốt không bê trễ, xa lìa tất cả phiền não nhiễm đắm, nên nói đại Bồ Tát được thanh tịnh.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tuy tất cả pháp bản tánh thanh tịnh, nhưng ngu phu dị sanh chẳng biết thấy giác, đại Bồ Tát này vì muốn khiến họ biết thấy giác, nên tu hành bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. An trụ nội không cho đến vô tánh tự tánh không. An trụ chơn như cho đến bất tư nghì giới. An trụ khổ tập diệt đạo Thánh đế. Tu hành bốn niệm trụ cho đến tám Thánh đạo chi. Tu hành bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Tu hành tám giải thoát cho đến mười biến xứ. Tu hành không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn. Tu hành Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa. Tu hành năm nhãn, sáu thần thông. Tu hành Phật mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Tu hành pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả. Tu hành tất cả Đà la ni, Tam ma địa môn. Tu hành Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Đại Bồ Tát này đối tất cả pháp bản tánh thanh tịnh, khi học như thế vô lượng vô biên các Phật pháp khác đều được thanh tịnh, chẳng đọa bậc Thanh văn, Độc giác. Đối các hữu tình tâm hành sai khác đều năng thông suốt đến cực rốt ráo, phương tiện khéo léo khiến các hữu tình giác biết tất cả pháp bản tánh thanh tịnh, chứng được Niết Bàn rốt ráo an vui.

Thiện Hiện phải biết: Ví như đại địa ít chỗ sanh ra vàng bạc, ngọc ngà, nhiều chỗ sanh ra cát đá ngói gạch. Các các hữu tình cũng như vậy ít người có thể học Bát Nhã thẳm sâu, nghĩa là các Bồ Tát trụ vào đại thừa, mà phần lớn đều học pháp Thanh văn, Độc giác là người cầu tự lợi thuộc trung và hạ thừa. Thiện Hiện phải biết: Ví như đời phần ít năng tu nghiệp Chuyển luân vương, phần nhiều thọ hành nghiệp tiểu quốc vương. Các loại hữu tình cũng lại như thế, phần ít tu đạo Nhất thiết trí trí, phần nhiều thọ hành pháp Thanh văn, Độc giác.

Thiện Hiện phải biết: Chúng Bồ Tát cầu tới Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, phần ít chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, phần nhiều đọa vào Thanh văn và bậc Độc giác.

Thiện Hiện nên biết! Chúng sanh nào trụ nơi Bồ Tát thừa nếu không xa lìa phương tiện thiện xảo Bát Nhã thẳm sâu thì chắc chắn đạt được địa vị Bất thối chuyển, nếu ai xa lìa phương tiện thiện xảo Bát Nhã thẳm sâu thì chắc chắn sẽ bị thối chuyển đối với quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì vậy, đại Bồ Tát nào muốn đạt được địa vị Bồ Tát Bất thối chuyển, muốn nhập vào trong số Bồ Tát Bất thối chuyển, phải siêng năng tu học Bát Nhã thẳm sâu không được ngưng nghỉ.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát tu học Bát Nhã thẳm sâu phương tiện khéo léo như thế, trọn chẳng phát khởi tâm xan tham, phá giới, giận dữ, biếng lười, tán động, ác huệ. Cũng chẳng hành tham dục, sân hận, ngu si, kiêu mạn. Cũng chẳng chấp trước sắc thọ tưởng hành thức. Cũng chẳng chấp trước mười hai xứ cho đến mười tám giới. Cũng chẳng chấp trước nhãn xúc cho đến ý xúc. Cũng chẳng chấp nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ. Cũng chẳng chấp trước địa giới cho đến thức giới. Cũng chẳng chấp trước vô minh cho đến lão tử. Cũng chẳng chấp trước bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Cũng chẳng chấp trước nội không cho đến vô tánh tự tánh không. Cũng chẳng chấp trước chơn như cho đến bất tư nghì giới. Nói rộng ra, cũng chẳng chấp trước tất cả pháp Phật. Vì sao? Vì đại Bồ Tát này thực hành phương tiện thiện xảo Bát Nhã thẳm sâu không thấy có pháp nào là pháp có thể nắm bắt được, do không có chỗ được nên không phát khởi tâm hành chấp trước hết thảy các pháp… (Q. 455, ĐBN)

 

(Công đức, diệu dụng của việc tu tập hành trì Bát nhã Ba la mật)

 

Lại nữa Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào tu học Bát Nhã thẳm sâu như vậy thì nhờ sức oai đức của phương tiện thiện xảo nên nắm giữ tất cả Ba la mật, tăng trưởng tất cả Ba la mật, dẫn dắt tất cả Ba la mật. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì Bát Nhã thẳm sâu dung chứa tất cả Ba la mật. Thiện Hiện! Giống như thân kiến có thể dung chứa sáu mươi hai tà kiến, cũng vậy Bát Nhã thẳm sâu cũng dung chứa tất cả Ba la mật. Này Thiện Hiện! Giống như tất cả người chết, do mạng căn diệt nên các căn cũng diệt theo, Bát Nhã thẳm sâu cũng như vậy, năm Ba la mật như bố thí, trì giới, an nhẫn… đều tùy theo nó. Nếu không có Bát Nhã thẳm sâu thì cũng không có tất cả Ba la mật. Vì vậy, này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào muốn đến bờ kia, rốt ráo tất cả Ba la mật thì nên học Bát Nhã thẳm sâu này.

Lại nữa Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào có thể học Bát Nhã thẳm sâu như vậy thì trở thành người tôn quí, thù thắng nhất đối với các hữu tình. Vì sao? Vì đại Bồ Tát này tu học pháp cao siêu hơn hết.

Lại nữa Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Các loài hữu tình trong Tam thiên đại thiên thế giới có nhiều không?

Thiện Hiện đáp:

- Bạch Thế Tôn! Các loại hữu tình ở châu Thiệm bộ còn nhiều vô số, huống gì là các loài hữu tình trong Tam thiên đại thiên thế giới sao lại không nhiều.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đúng vậy! Đúng như ông đã nói. Thiện Hiện! Giả sử các loài hữu tình trong Tam thiên đại thiên thế giới đồng thời đều được thân người. Khi được thân người, họ đều phát tâm hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề và tu Bồ Tát hạnh cùng một lượt. Sau khi tu hành viên mãn, họ đều chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề cùng một lúc. Có đại Bồ Tát trọn đời đem các thứ vòng hoa xinh đẹp bậc nhất, hương xoa, hương bột, y phục, anh lạc, tràng phan báu, dù lộng, âm nhạc, đèn sáng, nhà cửa, giường nằm, đồ ăn uống, thuốc trị bệnh để cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen các vị Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác này thì theo ý ông nhờ nhân duyên đó đại Bồ Tát này được phước có nhiều không?

Thiện Hiện đáp:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Nếu Đại Bồ Tát nào thường thích lắng nghe, thọ trì, đọc tụng Bát Nhã thẳm sâu này hoàn toàn thông suốt, tư duy như lý, tu hành theo lời dạy, biên chép, truyền bá thì thu được phước đức nhiều hơn phước đức nói trên vô lượng lần. Vì sao? Vì Bát Nhã thẳm sâu có đầy đủ ý nghĩa và công dụng to lớn có thể giúp các vị đại Bồ Tát sớm đạt được quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Vì vậy, này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào muốn đứng đầu tất cả hữu tình, muốn làm lợi ích tất cả hữu tình, muốn cứu giúp những người không có ai cứu giúp, làm nơi nương tựa cho những người không nơi nương tựa, làm nơi hướng đến cho những người không nơi hướng đến, làm mắt cho những người mù, làm ánh sáng cho người không có ánh sáng, chỉ đường chánh cho người lạc đường, làm cho người chưa đạt Niết bàn đạt được Niết bàn thì phải học Bát Nhã thẳm sâu này.

Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào muốn đạt được quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, muốn đi cảnh giới Như Lai đi, muốn dạo chơi ở nơi Phật dạo chơi, muốn rống tiếng rống sư tử của Như Lai, muốn đánh trống pháp vô thượng của chư Phật, muốn dộng chuông pháp vô thượng của chư Phật, muốn thổi tù của chư Phật, muốn lên pháp tòa vô thượng của chư Phật, muốn tuyên bày nghĩa pháp vô thượng của chư Phật, muốn phá tan lưới nghi của tất cả hữu tình, muốn vào cảnh giới cam lồ vi diệu của chư Phật, muốn hưởng thọ pháp lạc vi diệu của chư Phật, muốn chứng công đức thù thắng của Như Lai thì hãy học Bát Nhã thẳm sâu như vậy.

Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát năng học Bát Nhã thẳm sâu như thế, không có công đức căn lành nào mà chẳng năng nhiếp, không có công đức căn  lành nào mà chẳng năng đắc. Sở dĩ vì sao? Vì Bát Nhã thẳm sâu là chỗ nương dựa cho tất cả công đức căn lành vậy.

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát học Bát Nhã thẳm sâu này sao có thể nắm giữ và chứng đắc công đức thiện căn của tất cả Thanh văn và Độc giác được?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Đại Bồ Tát này cũng đối với công đức thiện căn của tất cả Thanh văn, Độc giác năng nhiếp năng đắc. Nhưng với trong ấy không trụ không mắc; đem thắng trí quán sát rồi, vượt khỏi Thanh văn và bậc Độc giác, vào Bồ Tát Chánh tánh ly sanh. Nên chúng đại Bồ Tát đây không có công đức căn lành nào mà chẳng năng nhiếp năng đắc.

Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào học Bát Nhã thẳm sâu này thì gần với Nhất thiết trí trí, mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào học Bát Nhã thẳm sâu thì làm ruộng phước chơn thật cho tất cả thế gian, trời, người, A tu la… vượt lên trên phước điền của các thế gian, Sa môn, Phạm chí, Thanh văn, Độc giác và mau chứng Nhất thiết trí trí, sanh ở đâu cũng không bỏ, không lìa Bát nhã Ba la mật, thường thực hành Bát nhã Ba la mật thẳm sâu.

Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào có thể học Bát Nhã thẳm sâu này thì nên biết vị ấy đã được bất thối chuyển đối với Nhất thiết trí trí, có thể hiểu biết chân chánh đối với tất cả các pháp, xa lìa địa vị Thanh văn, Độc giác, gần gũi quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào nghĩ như vầy: Đây chẳng phải là Bát Nhã thẳm sâu, đây chẳng phải là lúc tu, đây chẳng phải chỗ tu, đây chẳng phải là người tu, chẳng phải nhờ Bát Nhã thẳm sâu mà xa lìa tất cả các pháp nên xả bỏ, chẳng phải nhờ Bát nhã Ba la mật mà chắc chắn chứng được Nhất thiết trí trí. Vì sao? Vì tất cả các pháp đều đứng vững ở chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì mọi thứ ở trong đó đều không sai khác. Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào thực hành như vậy là thực hành Bát nhã Ba la mật.

 

Thích nghĩa:

(1). Đồng tánh: Không tìm thấy từ này trong các tự điển. Phần đầu của phẩm “Đồng Tánh” của Hội thứ II Phật bảo rằng: “Sắc, sắc tánh không; thọ, tưởng, hành, thức, thọ, tưởng, hành, thức tánh không là đồng tánh của đại Bồ Tát. Mười hai xứ, 18 giới tánh không; 12 xứ 18 giới tánh không là đồng tánh của đại Bồ Tát. Địa giới, địa giới tánh không cho đến thức giới, thức giới tánh không là đồng tánh của đại Bồ Tát. Bố thí, bố thí tánh không cho đến Bát nhã Ba la mật, Bát nhã Ba la mật tánh không là đồng tánh của đại Bồ Tát. Pháp nội không, pháp nội không tánh không cho đến pháp vô tính tự tính không, vô tánh tự tánh không là đồng tánh của đại Bồ Tát. Chơn như, chơn như tánh không cho đến cảnh giới bất tư nghì, cảnh giới bất tư nghì tánh không là đồng tánh của đại Bồ Tát”.  

Tất cả pháp tánh không, tất cả Bồ Tát cũng không, tất cả môn học cũng không. Bồ Tát học tất cả pháp môn Phật học đều không như vậy, nên gọi là đồng tánh của đại Bồ Tát. “Vì đại Bồ Tát trụ ở trong đó để học nên gọi là đồng học(đẳng học). Do sự đồng học này mà các Bồ Tát mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề”.

Tất cả Bồ Tát trong Tam thiên Đại thiên thế giới trụ ở trong tất cả pháp tánh không để học, nên gọi là đồng học mới có thể cùng chứng quả vị Vô Thượng Bồ đề.

Câu nói của Phật có thể xem là một giải thích của từ “đồng tánh”.

 

Sơ giải:

 

Đại Trí Độ Luận, phẩm thứ 63, “Đẳng Học”, tập 4, quyển 77, nói:

“Phàm phu thấy các pháp, mỗi mỗi đều sai khác, còn người tu khi đã vào được pháp không, thì sẽ thấy hết thảy các pháp đều bình đẳng, chẳng có gì sai khác, biết rõ hết thảy các pháp đều là tự tướng không.

Bồ Tát dụng tâm bình đẳng, trú trong bình đẳng pháp như vậy, mới đến được Vô Thượng Bồ Đề”.

 

--o0o--

 

Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bồ Tát vì sắc tận, vì sắc ly, vì sắc diệt, vì sắc bất sanh, nên học. Học như vậy là học Bát nhã Ba la mật chăng?

Phật dạy: Vì sắc là vô thường, vì niệm sanh diệt, chẳng trú, nên khi đã quán tâm bình đẳng, thì ly được sắc; khi đã ly được sắc rồi, thì các phiền não liền diệt, khi tận diệt các phiền não rồi, thì được vô sanh pháp.

Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Học như vậy là học Nhất thiết chủng trí chăng?

Phật dạy: Ý ông nghĩ sao? sắc như… dẫn đến Vô Thượng Bồ Đề như, Phật như. Các pháp như đó có tận, có diệt, có đoạn chăng? Ngài Tu Bồ Đề đáp: Chẳng phải vậy.

Vì sao? Vì các pháp đều là tánh như. Pháp như, từ vô thỉ đến nay, chẳng có tập tán, nên là chẳng tận; vốn chẳng sanh (vô sanh), nên là chẳng diệt (vô diệt); vốn chẳng có định tướng, nên là chẳng đoạn.

Phật dạy: Bồ Tát học các pháp như đó là học Nhất thiết chủng trí.

Vì sao? Vì như là chân thường, là chẳng thể chứng, chẳng thể diệt, chẳng thể đoạn. Nói tận, nói ly, nói đoạn v.v... là chỉ nhằm tận trừ các phiền não, chẳng phải là rốt ráo. Nay nói về nghĩa rốt ráo, chẳng hư vọng, chẳng điên đảo, nên nói chẳng chứng, chẳng diệt, chẳng đoạn”.

Không những đại Bồ Tát học các pháp bình đẳng mà Đại Bồ Tát còn phải học các pháp như, như đó không tận, không ly, không diệt, không đoạn chẳng thể tác chứng. Nếu đại Bồ Tát đối với các pháp như học như thế là học Nhất thiết trí trí.

Thay vì ở đây đại Bồ Tát học các pháp là không thật, do duyên hợp mà có, nên gọi là giả danh, các pháp như huyễn như mộng, các pháp là trì độn vô tri, thì ở đây đại Bồ Tát học các pháp không, các pháp như. Nếu học được như thế thì đạt tánh bình đẳng của tất cả pháp. Khi đạt tánh bình đẳng của tất cả pháp, liền giác biết các pháp bản lai tự tánh thanh tịnh, đến lúc đó thì cánh cửa trí tuệ sẵn sàng mở.

 

Đại Trí Độ Luận giảng tiếp:

“Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Nếu nói các pháp, từ vô thỉ đến nay, vốn thanh tịnh, vốn rốt ráo không, thì vì sao còn nói ở nơi hết thảy pháp, Bồ Tát đều được thanh tịnh?

Phật dạy: Đúng như vậy! Các pháp, từ xưa đến nay, vốn là rốt ráo không, là rốt ráo thanh tịnh. Nếu Bồ Tát ở nơi hết thảy các pháp mà tâm được thông đạt, chẳng vướng mắc, chẳng nghi, chẳng sanh tà kiến, thì mới vào được Bát nhã Ba la mật. Phàm phu do chẳng biết, chẳng thấy các pháp bản lai thanh tịnh, nên mới phải chìm đắm trong khổ đau.

Bồ Tát biết rõ như vậy, nên mới vì chúng sanh hành 6 pháp Ba la mật, hành các trợ đạo pháp, để phương tiện giáo hóa chúng sanh.

Bồ Tát phải được thanh tịnh ở nơi hết thảy pháp, thì mới xa lìa được 3 cõi hư vọng, mới vượt lên hàng Thanh Văn và Bích Chi Phật được.

Do được thanh tịnh ở nơi hết thảy các pháp, nên Bồ Tát được vô lượng các lực công đức, thấu rõ tâm nguyện của chúng sanh ở khắp 10 phương, để tùy thuận theo căn trí của từng đối tượng, mà thuyết pháp, nhằm khai hóa họ, dẫn dắt họ vào Phật đạo, khiến họ được nhiều lợi ích.

Bồ Tát được các công đức như vậy là nhờ học Bát nhã Ba la mật. Bởi vậy nên nói Bát nhã Ba la mật là chỗ tận cùng của sự tu học.

Vì có rất ít người học được như vậy, nên Phật nêu các thí dụ để chúng hội hiểu rõ nghĩa: Ví dụ trong quả đất ít chỗ có vàng, có bạc, có các châu báu khác; ví như trong loài người có rất người gieo nghiệp duyên Chuyển Luân Thánh Vương. Cũng như vậy trong số các người tu hành, chỉ có số ít người học Bát nhã Ba la mật, cầu Nhất thiết chủng trí, còn phần đông chỉ muốn hành đạo Thanh Văn và đạo Bích Chi Phật vậy.

 

--o0o--

Khi học Bát nhã Ba la mật, Bồ Tát chẳng khởi tâm xan tham, tật đố. Vì sao? Vì học Bát nhã Ba la mật là tiêu trừ được xan tham, tật đố, cùng các phiền não khác. Dù phiền não chưa được tận đoạn, nhưng chẳng còn sanh khởi nữa. Vì sao? Vì Bồ Tát hành Bát nhã Ba la mật, nên biết rõ các pháp tướng đều là hư vọng, chẳng nên chấp. Bồ Tát chẳng chấp sắc... dẫn đến chẳng chấp Vô Thượng Bồ Đề.

Bồ Tát chẳng trú chấp “có-không”, mà theo “trung đạo” để tu tập Bồ Tát hạnh.

Phật dạy: “Khi hành Bát nhã Ba la mật, Bồ Tát thấy chẳng có pháp đắc, chẳng thấy có người đắc pháp. Vì dụng tâm vô sở đắc như vậy, nên Bồ Tát tu tập hết thảy các pháp, mà chẳng chấp các pháp tướng, dù đó là thiện pháp”.

Bồ Tát học như vậy là học Bát nhã Ba la mật, là tổng nhiếp hết các Ba la mật khác, là ly hết thảy tà kiến”.

 

Vì vậy, phần cuối phẩm này, kinh ĐBN, Phật bảo:

“Đại Bồ Tát nào thường thích lắng nghe, thọ trì, đọc tụng Bát Nhã thẳm sâu này hoàn toàn thông suốt, tư duy như lý, tu hành theo lời dạy, biên chép, truyền bá thì thu được phước đức nhiều hơn phước đức nói trên vô lượng lần. Vì sao? Vì Bát Nhã thẳm sâu có đầy đủ ý nghĩa và công dụng to lớn có thể giúp các vị đại Bồ Tát sớm đạt được quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Vì vậy, này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào muốn đứng đầu tất cả hữu tình, muốn làm lợi ích tất cả hữu tình, muốn cứu giúp những người không có ai cứu giúp, làm nơi nương tựa cho những người không nơi nương tựa, làm nơi hướng đến cho những người không nơi hướng đến, làm mắt cho những người mù, làm ánh sáng cho người không có ánh sáng, chỉ đường chánh cho người lạc đường, làm cho người chưa đạt Niết bàn đạt được Niết bàn thì phải học Bát Nhã thẳm sâu này.

Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào muốn đạt được quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, muốn đi cảnh giới Như Lai đi, muốn dạo chơi ở nơi Phật dạo chơi, muốn rống tiếng rống sư tử của Như Lai, muốn đánh trống pháp vô thượng của chư Phật, muốn dộng chuông pháp vô thượng của chư Phật, muốn thổi tù của chư Phật, muốn lên pháp tòa vô thượng của chư Phật, muốn tuyên bày nghĩa pháp vô thượng của chư Phật, muốn phá tan lưới nghi của tất cả hữu tình, muốn vào cảnh giới cam lồ vi diệu của chư Phật, muốn hưởng thọ pháp lạc vi diệu của chư Phật, muốn chứng công đức thù thắng của Như Lai thì hãy học Bát Nhã thẳm sâu như vậy.

Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát năng học Bát Nhã thẳm sâu như thế, không có công đức căn lành nào mà chẳng năng nhiếp, không có công đức căn  lành nào mà chẳng năng đắc. Sở dĩ vì sao? Vì Bát Nhã thẳm sâu là chỗ nương dựa cho tất cả công đức căn lành vậy”.

 

Tất cả các diễn giảng ở đây rất bình dị dễ hiểu. Nên ai cũng có thể đọc tụng thọ trì, không cần giảng giải thêm nữa./.

 

---o0o---

 

 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com