Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

01. Phẩm “Thiện Hiện”

24/12/202011:01(Xem: 6450)
01. Phẩm “Thiện Hiện”

 TỔNG LUẬN
 KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***
buddha-506


 

V. PHẦN NĂM, HỘI THỨ V

 

 

Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh, Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước, Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le

 

 

 

Tóm lược:

 

Quyển thứ 556

 

Tôi nghe như vầy: Một thời Thế Tôn ngự ở đỉnh núi Thứu Phong, thuộc thành Vương Xá, cùng chúng đại Bí sô một vạn hai ngàn người(1) đều là bậc A la hán. Cụ thọ Thiện Hiện, Xá lợi Tử v.v... làm Thượng thủ, ngoại trừ hiền giả A Nan Đà còn ở bậc hữu học. Lại có vô lượng vô số đại Bồ Tát đắc vô ngại biện, Bồ Tát Từ Thị (Di Lạc), Bồ Tát Diệu Cát Tường (Văn Thù Sư Lợi) v.v... làm Thượng thủ.

Khi ấy, đức Thế Tôn bảo Thiện Hiện:

- Ngươi hãy dùng biện tài tuyên thuyết, chỉ dạy Bát nhã Ba la mật cho chúng đại Bồ Tát để cho các Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật mau được thành tựu.

Khi ấy, Xá lợi Tử nghĩ: Cụ thọ Thiện Hiện do tự lực của mình tuyên thuyết chỉ dạy Bát nhã Ba la mật cho các chúng đại Bồ Tát, hay là nhờ năng lực oai thần của Như Lai để thuyết?

Thiện Hiện biết được ý nghĩ của Ngài Xá lợi Tử liền thưa:

- Những lời chỉ dạy của đệ tử Phật đều là nhờ vào năng lực oai thần của Như Lai. Vì sao? Này Xá lợi Tử! Vì chư Phật giảng thuyết pháp yếu cho các đệ tử, các đệ tử y theo lời Phật dạy tinh tấn tu học cho đến lúc chứng được thật tánh của các pháp; chứng xong chỉ dạy lại cho người khác. Nếu không trái với thật tánh của các pháp thì đó là nhờ oai thần của Như Lai, cũng là sự chứng nhập dòng pháp tánh bình đẳng. Thế nên việc tôi sẽ chỉ dạy Bát nhã Ba la mật cho các Bồ Tát đều là nhờ năng lực oai thần của Như Lai.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thế Tôn dạy con chỉ dạy Bát nhã Ba la mật cho các chúng đại Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật mau được thành tựu.

Bạch Thế Tôn! Đã nói các Bồ Tát ấy là theo pháp nghĩa nào? Vì con chẳng thấy có pháp nào được gọi là Bồ Tát, cũng chẳng thấy có pháp nào được gọi là Bát nhã Ba la mật. Con chẳng thấy, chẳng đắc Bồ Tát và pháp Bồ Tát, cũng chẳng thấy, chẳng đắc Bát nhã Ba la mật thì làm sao bảo con chỉ dạy Bát nhã Ba la mật cho các chúng Bồ Tát? Con dạy những Bồ Tát nào, tu hành những Bát nhã Ba la mật gì để cho mau được thành tựu?

Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ Tát nào nghe thuyết những lời này, tâm không chìm đắm, cũng không thối lui, không kinh, không sợ, y như lời dạy mà an trụ, tu hành Bát nhã Ba la mật thì Bồ Tát đó đáng được chỉ dạy Bát nhã Ba la mật mau được thành tựu. Vì nếu không có chấp trước thì chính đó là Bát nhã Ba la mật.

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Nếu Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật thì nên học như vầy: Học rằng không nên chấp đắm tâm Bồ Tát này. Vì sao? Vì tâm này chẳng phải tâm, vì bản tánh thanh tịnh vậy.

Khi ấy, Xá lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Tâm này chẳng phải tâm tánh phải không?

Thiện Hiện hỏi lại Xá lợi Tử:

- Tâm chẳng phải tâm tánh, hoặc có hoặc không là có thể đắc, phải không?

Xá lợi Tử thưa:

- Thưa không, Thiện Hiện!

Thiện Hiện lại bảo:

- Này Xá lợi Tử! Tâm chẳng phải tâm tánh, hoặc có hoặc không và đã không thể đắc. Như vậy, thì làm sao có thể hỏi tâm này chẳng phải là tâm tánh phải không?

Khi ấy, Xá lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Những gì gọi là tâm, chẳng phải tâm tánh?

Thiện Hiện đáp:

- Nếu không hư hoại, cũng không sai khác thì chính đó gọi là tâm, chẳng phải tâm tánh.(2)

Xá lợi Tử khen Thiện Hiện:

- Lành thay! Lành thay! Đúng như lời ông nói, Phật dạy: Thầy là người trụ định Vô tránh cùng tột hàng đầu. Thật đúng như lời Thánh dạy. Nếu Bồ Tát nào nghe thuyết lời này, tâm không chìm đắm, cũng không thối lui, chẳng kinh, chẳng sợ, y như lời dạy mà an trụ, mà tu hành Bát nhã Ba la mật thì Bồ Tát này được Bất thối chuyển quả vị Vô thượng Bồ đề. Nếu Bồ Tát nào quán sát tâm chẳng phải tâm tánh như thế thì Bồ Tát này chẳng lìa Bát nhã Ba la mật. Nếu các hữu tình nào muốn siêng tu học hoặc địa vị Thanh văn, hoặc địa vị Độc giác, hoặc địa vị Bồ Tát thì thường nên lắng nghe, thọ trì, đọc tụng Bát nhã Ba la mật cho thông suốt hoàn toàn và đúng như lời dạy mà tu hành. Vì sao? Vì trong giáo nghĩa của Bát Nhã sâu xa này giảng thuyết rộng về tất cả pháp cần nên học. Nếu Bồ Tát nào siêng năng tinh tấn tu học Bát nhã Ba la mật này thì ở nơi nào cũng đều được an lành.

Bấy giờ, Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:

- Con đối tâm Bồ Tát chẳng biết cũng chẳng đắc, con đối chúng Bồ Tát và Bát nhã Ba la mật đều chẳng thấy thật sự có thể đắc, làm sao khiến vì chúng các Bồ Tát tuyên chỉ Bát nhã Ba la mật?

Bạch Thế Tôn! Con quán sát tất cả hoặc sanh hoặc diệt, hoặc nhiễm hoặc tịnh hoàn toàn bất khả đắc, nhưng trong đó nói có danh tự Bồ Tát và Bát Nhã v.v... nên có sự nghi ngờ.

Bạch Thế Tôn! Tên Bồ Tát v.v... hoàn toàn không xác định, cũng không có chỗ trụ. Vì sao? Vì tên Bồ Tát v.v... hoàn toàn vô sở hữu và pháp vô sở hữu thì không định, không trụ. Nếu Bồ Tát nào nghe thuyết như vậy, tâm không chìm đắm, cũng không thối lui, không kinh, không sợ thì nên biết Bồ Tát này chắc chắn an trụ địa vị Bất thối chuyển, dùng vô sở trụ làm phương tiện trụ không chỗ trụ.

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Các Bồ Tát tu hành Bát Nhã sâu xa không nên trụ sắc, cũng không nên trụ thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Vì nếu trụ sắc thì hành theo sắc, chẳng phải hành Bát Nhã sâu xa. Nếu trụ thọ, tưởng, hành, thức thì hành theo thọ, tưởng, hành, thức, chẳng phải hành Bát Nhã sâu xa. Vì sao? Vì chẳng phải người tạo tác có thể nhiếp thọ được Bát nhã Ba la mật. Nếu không thể nhiếp thọ được Bát nhã Ba la mật thì chẳng thể tu tập Bát nhã Ba la mật. Nếu chẳng thể tu tập Bát nhã Ba la mật thì chẳng thể viên mãn Bát nhã Ba la mật. Nếu chẳng thể viên mãn Bát nhã Ba la mật thì chẳng thể thành tựu Nhất thiết trí trí. Nếu chẳng thể thành tựu Nhất thiết trí trí thì chẳng thể làm lợi ích cho các hữu tình. Vì sao? Vì sắc chẳng thể nhiếp thọ; thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng thể nhiếp thọ; Bát nhã Ba la mật cũng chẳng thể nhiếp thọ; sắc chẳng thể nhiếp thọ nên chẳng phải sắc. Thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng thể nhiếp thọ nên chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức. Bát nhã Ba la mật cũng chẳng thể nhiếp thọ nên chẳng phải là Bát nhã Ba la mật. Các Bồ Tát nên học Bát Nhã như vậy.

Nếu học Bát Nhã thậm thâm như thế, đấy gọi Bồ Tát không sở nhiếp thọ tam ma địa luân()(3), tư cụ rộng lớn không lường không vượt hơn, chẳng bị tất cả Thanh văn, Độc giác dẫn cướp, cũng chẳng nhiếp thọ Nhất thiết trí trí. Vì sao? Vì Nhất thiết trí trí này chẳng phải lấy tướng tu đắc. Các kẻ lấy tướng đều là phiền não. Vì sao? Vì Nhất thiết trí trí này chẳng phải thủ tướng tu đắc. Người thủ đắc tướng đều là phiền não.

Nếu lấy tướng tu đắc Nhất thiết trí trí ấy, Phạm chí Thắng Quân đối Nhất thiết trí trí chẳng cần tin hiểu. Thắng Quân Phạm chí này do sức tin hiểu quay về Phật pháp gọi tùy tín hành, mà năng đem chút ít trí quán tất cả pháp tánh không, ngộ vào Nhất thiết trí trí. Đã ngộ vào rồi, chẳng thủ tướng sắc, cũng chẳng thủ tướng thọ tưởng hành thức. Chẳng lấy vui mừng quán thấy trí đây, chẳng nắm lấy được nghe quán thấy trí đây.

Chẳng lấy nội sắc quán thấy trí đây, chẳng lấy ngoại sắc quán thấy trí đây, chẳng lấy nội ngoại sắc quán thấy trí đây, cũng chẳng lìa sắc quán thấy trí đây. Chẳng lấy nội thọ tưởng hành thức quán thấy trí đây, chẳng lấy ngoại thọ tưởng hành thức quán thấy trí đây, chẳng lấy nội ngoại thọ tưởng hành thức quán thấy trí đây, cũng chẳng lìa thọ tưởng hành thức quán thấy trí đây.

Chẳng lấy vui mừng quán thấy trí đây, chẳng lấy được nghe quán thấy trí đây.

Thắng Quân Phạm chí dùng các môn ly tướng như thế thảy đối Nhất thiết trí trí rất sanh tin hiểu, gọi tùy tín hành, đối tất cả pháp đều không lấy đắm. Như vậy, Phạm chí dùng môn ly tướng đối Nhất thiết trí trí được tin hiểu rồi, đối tất cả pháp đều chẳng lấy tướng, cũng chẳng suy gẫm các pháp vô tướng. Như vậy Phạm chí do sức hiểu sâu, đối tất cả pháp chẳng lấy chẳng bỏ, chẳng chứng, chẳng đắc. Phạm chí kia đối với sự tin hiểu cho đến Niết bàn cũng chẳng lấy đắm, vì lấy chơn pháp tánh làm định lượng vậy.

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát bằng Bát nhã Ba la mật sâu xa chẳng nhiếp thọ sắc, cũng chẳng nhiếp thọ thọ tưởng hành thức. Dù đối các pháp không sở nhiếp thọ, nếu chưa viên mãn Như Lai mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải và mười tám pháp Phật bất cộng, quyết chẳng giữa đường nhập bát Niết bàn. Phải biết đại Bồ Tát này đối với Bát nhã Ba la mật dù không lấy đắm mà năng thành xong Nhất thiết trí trí, lợi ích an vui tất cả hữu tình.

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Các Bồ Tát thực hành Bát Nhã sâu xa nên quán như vầy: Sao gọi là Bát nhã Ba la mật? Cái gì là Bát nhã Ba la mật? Có phải pháp vô sở hữu bất khả đắc là Bát nhã Ba la mật ư? Trong không sở hữu, không kia, không đây thì hệ thuộc vào đâu?

Bạch Thế Tôn! Nếu khi Bồ Tát quán sát kỹ việc như thế, tâm không chìm đắm, cũng không thối lui, không kinh, không sợ, thì nên biết Bồ Tát này không lìa Bát nhã Ba la mật.

Khi ấy, Xá lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Vì nhân duyên gì sắc lìa tánh sắc? Thọ, tưởng, hành, thức lìa tánh thọ, tưởng, hành, thức? Bát nhã Ba la mật lìa tánh Bát nhã Ba la mật nhưng lại nói Bồ Tát chẳng lìa Bát nhã Ba la mật?

Thiện Hiện đáp:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Sắc lìa tánh sắc; Thọ, tưởng, hành, thức lìa tánh thọ, tưởng, hành, thức; Bát nhã Ba la mật lìa tánh Bát nhã Ba la mật. Tướng các pháp như vậy cũng lìa tánh, tánh cũng lìa tướng, tướng cũng lìa tướng, tánh cũng lìa tánh; vì tướng (năng) và đối tượng của tướng (sở) hoàn toàn bất khả đắc. Nếu Bồ Tát hiểu biết đúng đắn nghĩa như thế thì chẳng lìa Bát nhã Ba la mật.

Khi ấy, Xá lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Nếu Bồ Tát học pháp này thì mau thành tựu Nhất thiết trí trí phải không?

Thiện Hiện thưa:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy. Nếu Bồ Tát nào học pháp này thì mau thành tựu Nhất thiết trí trí. Vì sao? Này Xá lợi Tử! Vì Bồ Tát này biết tất cả pháp không sanh diệt vậy. Xá lợi Tử! Nếu Bồ Tát có thể thực hành như vậy thì chính là gần kề Nhất thiết trí trí.

Lại nữa, Xá lợi Tử! Các Bồ Tát nếu hành sắc là hành tướng, nếu hành sự sanh của sắc là hành tướng, nếu hành sự hoại diệt của sắc là hành tướng, nếu hành Không của sắc là hành tướng. Nếu bảo ta hành là hành có sở đắc, nếu hành thọ, tưởng, hành, thức là hành tướng, nếu hành sự sanh của thọ, tưởng, hành, thức là hành tướng, nếu hành sự hoại diệt của thọ, tưởng, hành, thức là hành tướng, nếu hành Không của thọ, tưởng, hành, thức là hành tướng. Nếu bảo ta có thể hành là hành có sở đắc, nếu Bồ Tát nghĩ thế này: Ta là Bồ Tát có thể hành Bát nhã Ba la mật, thì đó là hành tướng.

Nếu Bồ Tát nghĩ như vầy: Người nào hành như vậy là hành tướng, thì nên biết Bồ Tát tát này không có phương tiện thiện xảo.

 

(Phải hành như thế nào mới gọi là hành Bát nhã Ba la mật?)

 

Khi ấy, Xá lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Vậy các Bồ Tát nên hành như thế nào mới gọi là hành Bát Nhã?

Thiện Hiện thưa:

- Các Bồ Tát nếu không hành sắc, không hành tướng của sắc, không hành sự sanh của sắc, không hành sự hoại diệt của sắc, không hành Không của sắc thì chính là hành Bát nhã Ba la mật. Các Bồ Tát nếu không hành thọ, tưởng, hành, thức; không hành tướng của thọ, tưởng, hành, thức; không hành sự sanh của thọ, tưởng, hành, thức; không hành sự hoại diệt của thọ, tưởng, hành, thức; không hành Không của thọ, tưởng, hành, thức thì chính là hành Bát nhã Ba la mật.

Nếu Bồ Tát không chấp thủ hành, không chấp thủ không hành, không chấp thủ vừa hành vừa không hành, không chấp thủ không phải hành, không phải không hành, đối với không chấp thủ cũng không chấp thủ (không chấp tứ cú) thì chính là hành Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Xá lợi Tử! Vì tất cả pháp đều không thể chấp thủ, không thể tùy hành, không thể chấp thọ, vì lìa tánh tướng vậy.

Như vậy, gọi là các Bồ Tát ngay trong vô sanh định luân (dịch giả dịch là Tam ma đại luân) của tất cả các pháp phát sanh tài sản vô lượng vô số. Không chung cùng với tất cả Thanh văn, Độc giác. Nếu Bồ Tát nào an trụ định này thì mau chứng quả vị Vô Thượng Bồ đề.

Khi ấy, Thiện Hiện nương thần lực của Phật bảo Xá lợi Tử:

- Nếu Bồ Tát nào tuy an trụ định này nhưng không thấy định này, cũng không đắm trước định này, cũng không nghĩ rằng ta đã nhập định này, đang nhập định này, sẽ nhập định này, người kia tư duy phân biệt như vậy và nhờ năng lực định này nên không khởi (tưởng) tất cả, thì biết người này đã được các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác quá khứ thọ ký Bất thối chuyển quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Khi ấy, Xá lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Nếu Bồ Tát nhờ định này mà được chư Phật Thế Tôn quá khứ, hiện tiền thọ ký thì Bồ Tát này là người có thể chỉ dạy định như vậy, phải không?

Thiện Hiện đáp:

- Chẳng phải vậy. Này Xá lợi Tử! Vì sao? Vì thiện nam tử này đối định như thế không biết không tưởng.

Xá lợi Tử thưa:

- Cụ thọ bảo các thiện nam tử kia không hiểu biết, không nghĩ tưởng định này sao?

Thiện Hiện đáp:

- Tôi quả quyết nói các thiện nam tử kia không hiểu biết, không nghĩ tưởng định này. Vì sao? Vì các định này vô sở hữu nên thiện nam tử kia không hiểu biết, không nghĩ tưởng các định như vậy. Các định như vậy tất cả pháp cũng không hiểu biết, không nghĩ tưởng. Vì sao? Vì tất cả pháp vô sở hữu vậy.

Đức Thế Tôn khen Thiện Hiện:

- Lành thay! Lành thay! Như lời ngươi nói nên Ta bảo ngươi là người đứng hàng đầu trụ định vô tránh. Các Bồ Tát muốn học Bát Nhã thì nên học như vậy. Ai học như vậy thì gọi là học Bát nhã Ba la mật.  

Xá lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ Tát nào học như vậy thì gọi là chơn thật học Bát nhã Ba la mật, phải không?

Phật bảo Xá lợi Tử:

- Nếu Bồ Tát nào có thể học như vậy thì gọi là chơn thật học Bát nhã Ba la mật.

Khi ấy, Xá lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các Bồ Tát khi học như vậy là học pháp nào?

Phật bảo Xá lợi Tử:

- Các Bồ Tát khi học như vậy là chẳng phải học pháp. Vì sao? Này Xá lợi Tử! Chính sự chấp trước của các phàm phu ngu si như thế chứ chẳng phải tất cả pháp có như vậy

Xá lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu như vậy thì các pháp làm sao mà có?

Phật bảo Xá lợi Tử:

- Như vô sở hữu mà có như vậy. Nếu không thể hiểu rõ pháp vô sở hữu như vậy thì gọi là vô minh. Phàm phu ngu si đối với tánh vô sở hữu của tất cả pháp thế lực vô minh tham ái tăng thượng, nên phân biệt chấp trước hai bên: Đoạn thường. Do đây, không biết, không thấy tánh các pháp vô sở hữu nên phân biệt các pháp. Do phân biệt nên sanh chấp trước. Do chấp trước nên phân biệt tánh các pháp vô sở hữu. Do đó nên đối với pháp không thấy, không biết. Vì đối với các pháp chẳng thấy, chẳng biết nên phân biệt quá khứ, vị lai, hiện tại. Do phân biệt nên tham đắm danh sắc. Do đắm danh sắc nên phân biệt chấp trước pháp vô sở hữu. Đối pháp vô sở hữu phân biệt chấp trước nên đối với đạo như thật chẳng biết, chẳng thấy, nên chẳng thể ra khỏi sanh tử trong ba cõi, chẳng tin pháp Tứ đế, chẳng hiểu rõ Niết bàn; thế nên bị rơi vào trong số phàm phu ngu si. Do đó, chúng Bồ Tát này đối với tánh tướng của các pháp hoàn toàn không chấp trước.

Khi ấy Xá lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các Bồ Tát khi học như vậy, chẳng lẽ không cầu học Nhất thiết trí trí?

Phật bảo Xá lợi Tử:

- Các Bồ Tát khi học như vậy cũng không cầu học Nhất thiết trí trí, nhưng các Bồ Tát khi học như vậy, mặc dù không học nhưng gọi đó là chơn thật học Nhất thiết trí trí, mau có thể thành tựu Nhất thiết trí trí vậy.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Giả sử có người đến hỏi thế này: Huyễn sĩ nếu học Nhất thiết trí trí thì người đó cũng có thể thành tựu Nhất thiết trí trí phải không? Được hỏi như vậy thì con trả lời bằng cách nào?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ta hỏi lại ngươi, tùy ý ngươi trả lời. Ý ngươi thế nào? Huyễn khác với sắc, thọ, tưởng, hành, thức phải không?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Huyễn chẳng khác sắc, sắc chẳng khác huyễn, huyễn chính là sắc, sắc chính là huyễn. Thọ, tưởng, hành, thức cũng đều như vậy.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ý ngươi thế nào? Trong năm thủ uẩn khởi tất cả tưởng đều thi thiết là Bồ Tát chăng?

Thiện Hiện bạch:

- Đúng như vậy, bạch Thế Tôn!

Phật bảo Thiện Hiện:

- Các Bồ Tát tu học Bát nhã Ba la mật cầu thẳng đến quả vị Vô Thượng Bồ đề, tất cả đều như huyễn sĩ tu học. Vì sao? Vì huyễn sĩ chính là năm thủ uẩn vậy. Vì sao? Vì Ta nói năm uẩn: Nhãn, nhĩ , tỹ v.v... sáu căn đều như huyễn hóa, hoàn toàn không có thật.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Nếu Bồ Tát nào mới học Đại thừa, nghe nói như vậy thì tâm vị đó sẽ không kinh sợ, thối lui phải không?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Nếu Bồ Tát nào mới học Đại thừa, gần gũi bạn ác, nghe thuyết như vậy, tâm liền kinh sợ thì sanh thối lui. Còn nếu gần bạn lành thì tuy nghe thuyết như vậy nhưng chẳng kinh sợ, cũng chẳng thối lui.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Những hạng người như thế nào là bạn ác của Bồ Tát?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Bạn ác của Bồ Tát nghĩa là dạy Bồ Tát nhàm chán, xa lìa Bát Nhã, xả bỏ Bồ đề tâm, chấp lấy tướng các pháp, dạy cho học sách vở thủ tướng của thế tục, dạy cho học Kinh pháp tương ưng với Thanh văn. Lại dạy gần gũi việc làm của ác ma. Như vậy gọi là bạn ác của Bồ Tát.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Còn những hạng nào gọi là bạn lành của Bồ Tát?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Bạn lành của các Bồ Tát nghĩa là dạy Bồ Tát siêng năng tu tập Bát nhã Ba la mật, cho đến nói về việc làm của ma, tội lỗi của ma để cho người kia biết rõ mà phương tiện xả bỏ. Những hạng người này gọi là bạn lành chơn tịnh, đại thệ trang nghiêm của Bồ Tát mới học.

 

(Thế nào là Bồ Tát?)

 

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nói Bồ Tát, ý nghĩa danh tự đó là gì?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Học tất cả pháp không dính mắc, không chướng ngại. Hiểu rõ tất cả pháp không dính mắc, không chướng ngại để cầu chứng Bồ đề, nên gọi đó là Bồ Tát.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Những hạng này lại do nhân duyên nào gọi là Bồ Tát?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Vì các Bồ Tát sẽ làm thượng thủ trong chúng đại hữu tình nên gọi là Bồ Tát.

Khi ấy, Xá lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nay con muốn nói về nghĩa của Bồ Tát. Cúi xin Thế Tôn cho phép.

Phật bảo Xá lợi Tử:

- Tùy ý ngươi nói.

Xá lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Các Bồ Tát bằng phương tiện thiện xảo tuyên thuyết pháp yếu cho các hữu tình, làm cho dứt hẳn ngã kiến, hữu tình kiến, mạng giả kiến, nhơn kiến, hữu kiến, vô kiến, đoạn kiến, thường kiến v.v... y theo nghĩa như thế nên gọi là Bồ Tát.

Khi ấy, Thiện Hiện cũng bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Con nay muốn nói về nghĩa của đại Bồ Tát. Cúi xin Thế Tôn cho phép.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Tùy ý ngươi nói.

Thiện Hiện bạch:

- Bạch Thế Tôn! Vì các Bồ Tát phát Bồ đề tâm, Vô đẳng đẳng tâm; còn Thanh văn, Độc giác thì không thể phát tâm như vậy. Vì sao? Vì tâm Nhất thiết trí là chơn thật vô lậu, không rơi vào ba cõi, chẳng nên đối trong mà sanh chấp đắm. Nương nghĩa như thế gọi là Ma ha tát.

Xá lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Nhân duyên thế nào mà đối với tâm như vậy cũng không chấp trước?

Thiện Hiện thưa:

- Các tâm như thế là chẳng phải là tâm tánh nên không chấp trước.

Khi ấy Mãn Từ Tử cũng bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Con nay muốn nói về nghĩa của đại Bồ Tát. Cúi xin Thế Tôn cho phép.

Phật bảo Mãn Từ Tử:

- Tùy ý ngươi nói.

Mãn Từ Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Do các Bồ Tát làm lợi ích an vui khắp tất cả hữu tình nên mặc áo giáp đại nguyện, huớng thẳng đến Đại thừa, cỡi xe lớn, nên gọi là đại Bồ Tát.

Khi ấy Thiện Hiện bạch Phật:

- Như Thế Tôn dạy: Các đại Bồ Tát mặc áo giáp đại nguyện. Vậy đạt tới độ nào gọi là các đại Bồ Tát mặc giáp đại nguyện?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Các đại Bồ Tát nghĩ như vầy: Ta nên độ thoát vô lượng, vô số, vô biên hữu tình vào cảnh giới Vô dư y bát Niết bàn. Tuy làm việc như vậy nhưng không có pháp và các hữu tình đắc Niết bàn. Vì sao? Vì thật tánh các pháp của nó là như vậy. Ví như nhà ảo thuật hoặc học trò của ông ta, ở giữa ngã tư đường hóa làm đại chúng, giết hại lẫn nhau. Ý ngươi thế nào? Trong ấy có việc giết hại lẫn nhau thật không?

Thiện Hiện bạch:

- Thưa không. Bạch Thế Tôn!

Phật bảo Thiện Hiện:

- Các đại Bồ Tát cũng như vậy, tuy thị hiện độ thoát vô lượng, vô số, vô biên hữu tình vào cảnh giới Vô dư y bát Niết bàn nhưng không có pháp và các hữu tình đắc Niết bàn. Nếu Bồ Tát nào nghe việc như vậy không kinh, không sợ, cũng không thối lui thì nên biết Bồ Tát này là người mặc áo giáp đại nguyện.

Khi ấy, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Theo con hiểu nghĩa Phật đã nói, các đại Bồ Tát không mặc áo giáp đại nguyện thì nên biết đó là mặc áo giáp đại nguyện.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Vì sao? Vì Nhất thiết trí trí không tạo, không tác. Tất cả hữu tình cũng không tạo, không tác. Các Bồ Tát vì muốn lợi ích hữu tình kia nên mặc áo giáp đại nguyện. Vì sao? Vì sắc chẳng phải tạo, chẳng phải không tạo; chẳng phải tác, chẳng phải không tác. Thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng phải tạo, chẳng phải không tạo; chẳng phải tác, chẳng phải không tác. Vì sao? Vì sắc cho đến thức bất khả đắc vậy.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Như con hiểu nghĩa Phật nói: Sắc cho đến thức không nhiễm, không tịnh. Vì sao? Vì sắc không buộc không mở. Thọ, tưởng, hành, thức cũng không buộc không mở.

Khi ấy, Mãn Từ Tử hỏi Thiện Hiện:

- Tôn giả nói sắc không buộc không mở; nói thọ, tưởng, hành, thức cũng không buộc không mở, phải không?

Thiện Hiện đáp:

- Đúng như vậy ! Đúng như vậy!

Mãn Từ Tử hỏi:

- Tôn giả nói những sắc nào không buộc không mở? Nói những thọ, tưởng, hành, thức nào cũng không buộc không mở?

Thiện Hiện thưa:

- Tôi nói sắc như huyễn sĩ, không buộc không mở. Nói thọ, tưởng, hành, thức như huyễn sĩ, cũng không buộc không mở. Vì sao? Vì sắc cho đến thức vô sở hữu nên không buộc không mở, xa lìa nên không buộc không mở, tịch tịnh nên không buộc không mở, không sanh diệt nên không buộc không mở. Đây gọi là Bồ Tát mặc áo giáp đại nguyện hướng thẳng đến Đại thừa.

Khi ấy, Mãn Từ Tử nghe thuyết như vậy, hoan hỷ tín nhận, ngồi lặng thinh.

 

(Sao gọi là Đại thừa?)

 

Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:

- Các đại Bồ Tát phát tới Đại thừa, sao là Đại thừa, sao là Bồ Tát phát tới Đại thừa? Đại thừa như thế từ chỗ nào ra, đến trụ chỗ nào? Ai nương Đại thừa này mà ra?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Nói Đại thừa ấy tức nói vô lượng vô số vô biên công đức chung lại mà thành vậy.

Sao là Bồ Tát phát tới Đại thừa, nghĩa là các Bồ Tát siêng tu sáu thứ Ba la mật, năng từ một bậc tiến tới một bậc, đấy gọi Bồ Tát phát tới Đại thừa. Đại thừa như thế từ chỗ nào ra, đến trụ chỗ nào, nghĩa là Đại thừa đây từ trong ba cõi ra, đến trụ trong Nhất thiết trí trí, nhưng đem không hai làm phương tiện nên không ra không trụ. Ai nương Đại thừa này ra, không có kẻ nương Đại thừa này ra cả. Vì sao? Vì hay nương bị nương hai pháp như thế đều vô sở hữu. Trong vô sở hữu ai nương pháp nào khá gọi kẻ nương?

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Đại thừa như vậy hơn khắp tất cả thế gian trời người, A tu la v.v… Đại thừa như vậy ngang đồng với hư không. Ví như hư không có thể dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Đại thừa cũng như vậy, có thể dung chứa khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Lại như hư không, không đến, không đi, không ở, không có thể thấy; Đại thừa cũng vậy, không đến, không đi, không ở, không có thể thấy. Lại như hư không, tiền tế, hậu tế, trung tế hoàn toàn không thể đắc; Đại thừa cũng vậy, hoàn toàn không thể đắc tiền tế, hậu tế, trung tế, ba đời bình đẳng nên gọi là Đại thừa.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Lành thay! Lành thay! Đúng như vậy! Đúng như vậy! Như lời ngươi nói.

Khi ấy, Mãn Từ Tử bạch Phật:

- Kính bạch Thế Tôn! Trước đây Thế Tôn dạy Đại đức Thiện Hiện tuyên dạy Bát nhã Ba la mật cho các chúng Bồ Tát, mà nay vì lẽ gì lại nói Đại thừa?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Con thuyết Đại thừa sẽ không trái vượt Bát nhã Ba la mật.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ngươi thuyết Đại thừa hoàn toàn thuận với Bát Nhã, không có trái vượt.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Con hoàn toàn không nắm bắt được tiền tế, hậu tế, trung tế của Bồ Tát, vì sắc vô biên nên Bồ Tát cũng vô biên. Thọ, tưởng, hành, thức vô biên nên Bồ Tát cũng vô biên. Ngay nơi sắc lìa sắc, Bồ Tát vô sở hữu, bất khả đắc. Ngay nơi thọ, tưởng, hành, thức, lìa thọ, tưởng, hành, thức, Bồ Tát cũng vô sở hữu, bất khả đắc.

Như vậy, bạch Thế Tôn! Con đối với tất cả pháp này đem tất cả chủng loại, tất cả nơi chốn, tất cả thời gian để tìm các Bồ Tát, cũng hoàn toàn không thấy đâu cả, hoàn toàn bất khả đắc, thì làm sao bảo con chỉ dạy Bát nhã Ba la mật cho các Bồ Tát?

 

(Bồ Tát chỉ là giả danh?)

 

Lại nữa, kính bạch Thế Tôn! Nói Bồ Tát chỉ có giả danh, hoàn toàn không có tự tánh. Như nói ngã thảy rốt ráo chẳng sanh, chỉ có giả danh trọn không tự tánh. Các pháp cũng vậy, hoàn toàn không sanh, chỉ có giả danh, hoàn toàn không có tự tánh. Trong đây những gì gọi là sắc hoàn toàn không sanh? Nếu hoàn toàn không sanh thì không thể gọi là sắc. Những gì gọi là thọ, tưởng, hành, thức hoàn toàn không sanh? Nếu hoàn toàn không sanh thì không thể gọi là thọ, tưởng, hành, thức.

Bạch Thế Tôn! Sắc là Bồ Tát bất khả đắc. Thọ, tưởng, hành, thức là Bồ Tát cũng bất khả đắc. Bất khả đắc này cũng bất khả đắc. Con đối với tất cả pháp như vậy, đem tất cả chủng loại, tất cả nơi chốn, tất cả thời gian tìm các Bồ Tát hoàn toàn bất khả đắc thì sẽ dạy những pháp nào, tu những pháp nào, ở những nơi chốn nào, thời gian nào và chứng những pháp nào?

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Chư Phật, Bồ Tát và Bát Nhã sâu xa chỉ có giả danh, hoàn toàn không có tự tánh. Như nói: ngã rốt ráo chẳng sanh, chỉ có giả danh, hoàn toàn không có tự tánh. Các pháp cũng vậy, chỉ có giả danh, hoàn toàn không có tự tánh. Những gì là sắc đã không thể nắm giữ, cũng không thể sanh? Những gì là thọ, tưởng, hành, thức đã không thể nắm giữ, cũng không thể sanh? Tự tánh các pháp đã không thể nắm giữ, cũng không thể sanh? Nếu pháp không tánh thì cũng không thể sanh. Pháp không sanh này cũng không thể sanh, thì con làm sao có thể đem Bát Nhã sâu xa hoàn toàn không sanh để dạy cho các Bồ Tát hoàn toàn chẳng sanh?

Bạch Thế Tôn! Lìa pháp không sanh, không có pháp để có thể đắc. Cũng không có Bồ Tát có thể thực hành quả vị Vô Thượng Bồ đề.

Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ Tát nghe nói lời này không kinh, không sợ thì nên biết Bồ Tát này có thể thực hành Bát Nhã sâu xa. Vì sao? Vì nếu khi Bồ Tát thực hành Bát Nhã sâu xa quán sát các pháp thì ngay khi ấy, Bồ Tát liền không thủ sắc. Vì sao? Vì sắc không sanh tức là chẳng phải sắc, sắc không diệt cũng chẳng phải sắc. Đã không sanh, không diệt tức là không hai, không riêng. Nên nói sắc tức nhập vào pháp số không hai. Nếu khi Bồ Tát thực hành Bát Nhã sâu xa, quán sát các pháp thì khi ấy Bồ Tát không chấp thủ thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Vì thọ, tưởng, hành, thức không sanh tức là không phải thọ, tưởng, hành, thức. Thọ, tưởng, hành, thức không diệt, cũng không phải là thọ, tưởng, hành, thức. Đã không sanh không diệt tức là không hai, không riêng. Nên nói thọ, tưởng, hành, thức tức nhập vào pháp số không hai.

Khi ấy Xá lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Như tôi hiểu nghĩa Ngài nói, các Bồ Tát v.v... hoàn toàn không sanh, nếu vậy thì do duyên nào có các Bồ Tát vì độ vô lượng, vô số hữu tình mà tu trăm ngàn hạnh khổ khó hành, chịu đủ vô lượng khổ lớn sanh tử?

Thiện Hiện thưa:

- Chẳng phải tôi đối với pháp vô sanh kia cho rằng có Bồ Tát vì độ vô lượng, vô số hữu tình mà tu trăm ngàn hạnh khổ khó hành, chịu đủ vô lượng khổ lớn sanh tử. Nhưng các Bồ Tát tuy làm việc này mà ngay trong đó không nghĩ tưởng hạnh khổ. Vì sao? Này Xá lợi Tử! Vì nếu đối với hạnh khổ, phát sanh tưởng hạnh khổ thì không thể làm lợi ích cho vô lượng, vô biên hữu tình. Thế nên Bồ Tát đối với các hạnh khổ phát sanh tưởng hạnh vui; đối với hạnh khó hành, phát sanh tưởng dễ hành; đối với các hữu tình phát sanh ý tưởng như cha mẹ và chính bản thân mình. Vì độ cho người kia nên phát Bồ đề tâm, nhờ đó mới có thể làm được những việc lợi ích lớn.

Khi ấy, Bồ Tát tư duy: Như tự tánh đối với tất cả pháp, đem tất cả chủng loại, tất cả nơi chốn, thời gian tìm không thể được. Các pháp trong ngoài cũng như vậy, hoàn toàn không sở hữu, hoàn toàn bất khả đắc. Nếu trụ tưởng này thì chẳng thấy có hạnh khổ khó hành. Nhờ vậy, có thể vì vô biên hữu tình tu trăm ngàn hạnh khổ khó hành, làm lợi ích lớn cho các loài hữu tình.

Xá lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Các Bồ Tát này thật không sanh, phải không?

Thiện hiện thưa:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Tất cả Bồ Tát đều thật không sanh.

Xá lợi Tử hỏi:

- Chỉ có Bồ Tát thật không sanh, hay là Nhất thiết trí cũng thật không sanh?

Thiện hiện thưa:

- Nhất thiết trí cũng thật không sanh.

Xá lợi Tử hỏi:

- Là chỉ Nhất thiết trí thật không sanh, hay là các phàm phu cũng thật không sanh?

Thiện hiện thưa:

- Các phàm phu cũng thật không sanh.

Xá lợi Tử hỏi:

- Nếu các Bồ Tát thật không sanh thì pháp của các Bồ Tát cũng phải không sanh. Nếu Nhất thiết trí thật là vô sanh thì pháp Nhất thiết trí cũng phải không sanh. Nếu phàm phu thật là không sanh thì pháp phàm phu cũng phải không sanh. Nếu vậy, Bồ Tát được Nhất thiết trí, có phải đối với pháp vô sanh mà chứng vô sanh, phải không?

Thiện hiện đáp:

- Ý tôi không cho rằng trong pháp vô sanh có đắc, có chứng. Vì sao? Vì trong pháp vô sanh không có chứng đắc vậy.

Xá lợi Tử hỏi:

- Là cho rằng pháp sanh chứng pháp sanh, hay là cho rằng pháp vô sanh chứng pháp vô sanh?

Thiện hiện thưa:

- Ý tôi không cho rằng pháp sanh chứng pháp sanh. Cũng không cho rằng pháp vô sanh chứng pháp vô sanh.

Xá lợi Tử hỏi:

- Là cho rằng  pháp sanh chứng pháp vô sanh, hay là cho rằng  pháp vô sanh chứng pháp sanh?

Thiện hiện thưa:

- Ý tôi không cho rằng pháp sanh chứng pháp vô sanh. Cũng không cho rằng pháp vô sanh chứng pháp sanh.

Xá lợi Tử hỏi:

- Nếu như vậy thì lẽ ra không đắc, không chứng?!

Thiện hiện thưa:

- Tuy có đắc có chứng, nhưng chẳng phải thật có.

Xá lợi Tử hỏi:

- Là cho rằng pháp chưa sanh, sanh; hay là cho rằng pháp đã sanh, sanh?

Thiện hiện thưa:

- Ý tôi không cho rằng pháp chưa sanh, sanh. Cũng không cho rằng pháp đã sanh, sanh.

Xá lợi Tử hỏi:

- Vì cho rằng sanh sanh, hay là cho rằng không sanh sanh?

Thiện hiện đáp:

- Ý tôi không cho rằng sanh, sanh. Cũng không cho rằng không sanh, sanh.

Xá lợi Tử hỏi:

- Ngài thuyết pháp không sanh là muốn biện thuyết tướng không sanh, phải không?

Thiện Hiện thưa:

- Tôi đối với sự thuyết về pháp vô sanh cũng không muốn diễn thuyết tướng vô sanh.

Xá lợi Tử hỏi:

- Đối với pháp vô sanh, phát sanh lời nói vô sanh. Lời nói vô sanh này cũng vô sanh, phải không?

Thiện hiện thưa:

- Từ nơi pháp vô sanh phát sanh lời nói vô sanh. Pháp và lời này đều là nghĩa vô sanh, nhưng vì tùy thuận thế tục nên nói tướng vô sanh.

Xá lợi Tử khen Thiện Hiện:

- Trong những vị thuyết pháp, Ngài là người đứng đầu. Trừ Phật Thế Tôn ra, không ai có thể bằng Ngài. Vì sao? Vì tùy theo sự gạn hỏi về vô số pháp môn, Ngài đều có thể trả lời được cả.

Thiện Hiện nói:

- Đệ tử của chư Phật không hệ thuộc, dính mắc vào tất cả pháp. Vì lẽ đó nên đều có thể tùy theo sự gạn hỏi mà mỗi mỗi tự tại đáp lại, không sợ. Vì sao? Vì tất cả pháp không có sự hệ thuộc vậy. (Q.556, ĐBN)

Khi ấy, Xá lợi Tử bảo Thiện Hiện:

- Lành thay! Lành thay! Nếu các Bồ Tát có thể tùy theo câu hỏi mà trả lời như vậy là nhờ những oai lực của Ba la mật nào mà được thành tựu?

Thiện Hiện thưa:

- Đây là nhờ oai lực của Bát nhã Ba la mật mà được thành tựu. Vì sao? Vì nói tất cả pháp không sự tùy thuộc là chính nhờ Bát nhã Ba la mật mà thông suốt được tất cả pháp không sự hệ thuộc.

Xá lợi Tử! Nếu Bồ Tát nghe lời như vậy, tâm không hoang mang, cũng không nghi ngờ, thì nên biết Bồ Tát này có thể trụ được hạnh trụ như thế, không xả ly, cũng không xa lìa tác ý đại bi.  

Xá lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Nếu các Bồ Tát trụ được hạnh trụ như thế, có thể không xả bỏ, cũng có thể không xa lìa tác ý như vậy, thì tất cả hữu tình đều chính là Bồ Tát. Vì sao? Vì tất cả hữu tình cũng trụ hạnh này và tác ý này, thường không xả bỏ tánh bình đẳng của Bát Nhã đại bi, vậy thì các Bồ Tát cùng các hữu tình lẽ ra phải không sai khác?

Thiện Hiện thưa:

- Lành thay! Lành thay! Tuy rằng giống như hỏi tôi nhưng mà giúp cho tôi được hiểu nghĩa. Vì sao? Xá lợi Tử! Vì tất cả hữu tình không có tự tánh nên biết trụ và tác ý như thế cũng không có tự tánh. Tất cả tánh hữu tình xa lìa, nên biết tánh của trụ và tác ý như thế cũng xa lìa. Tất cả hữu tình không biết rõ nên phải biết trụ và tác ý như vậy cũng không biết rõ. Do nhân duyên như vậy, các Bồ Tát này trụ vào tác ý như thế không xa lìa, cùng với các hữu tình không sai khác. Nếu các Bồ Tát biết rõ như thế không bị trở ngại thì chính là hành Bát nhã Ba la mật. Ý của tôi là muốn làm cho tất cả Bồ Tát đem ý nghĩ này thực hành Bát Nhã sâu xa.

 

Thích nghĩa:

(1). Trong pháp hội thứ V này có đến vạn hai ngàn tỳ kheo là các A la hán và vô số Bồ Tát ở các nơi đến tham dự. Xin đừng hiểu lầm với số tỳ kheo của Tăng đoàn. Tăng đoàn của Phật Thích ca Mâu ni chỉ có 1250 tỳ kheo mà thôi. Số tỳ kheo tham dự pháp hội này lên hơn vạn là do các nơi đến vân tập, không riêng thế giới Kham Nhẫn.

(2). Đoạn Kinh (in đậm nét) này nguyên văn bằng chữ Hán là:

thời . Lợi Tử vấn thiện hiện ngôn .

vi hữu thị tâm phi tâm tánh phủ .

thiện hiện phản vấn Lợi Tử ngôn .

tâm phi tâm tánh nhược hữu nhược vi khả đắc phủ.

Lợi Tử ngôn .

phủ . thiện hiện .

thiện hiện 便tiện ngữ Lợi Tử ngôn .

tâm phi tâm tánh nhược hữu nhược bất khả đắc . như khả vấn vi hữu thị tâm phi tâm tánh phủ .

thời . Lợi Tử vấn thiện hiện ngôn .

đẳng danh vi tâm phi tâm tánh .

thiện hiện đáp ngôn .

nhược biến hoại diệc phân biệt . thị tắc danh vi . tâm phi tâm tánh”.

 

Việt dịch là:

“Khi ấy, Xá lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Tâm này có phải tâm tánh chăng?

Thiện Hiện hỏi lại Xá lợi Tử:

- Tâm chẳng phải là tâm tánh, hoặc có hoặc không có thể đắc phải không?

Xá lợi Tử thưa:

- Thưa không, Thiện Hiện!

Thiện Hiện lại bảo:

- Này Xá lợi Tử! Tâm chẳng phải tâm tánh, hoặc có hoặc không đã không thể đắc. Như vậy, thì làm sao có thể hỏi tâm này có phải là tâm tánh không?

Khi ấy, Xá lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Những gì gọi là tâm chẳng phải tâm tánh?

Thiện Hiện đáp:

- Nếu không hư hoại, cũng không sai khác thì chính đó gọi là tâm, chẳng phải tâm tánh”.

Cùng một đoạn kinh viết trong năm Hội:

1. Hội thứ I: Phẩm “Khuyến Học” quyển 36;

2. Hội thứ II: Phẩm “Vào Ly Sanh” quyển 408;

3. Hội thứ III: Phẩm “Thiện Hiện” quyển 484;

4. Hội thứ IV: Phẩm “Diệu Hạnh” quyển 538 và

5. Hội thứ V: Phẩm “Thiện Hiện” quyển 556.

Ý thì giống nhau, chỉ khác cách chuyển ngữ và dịch thuật. Mấu chốt ở các từ:

Tâm(): Nguồn gốc của mọi ý thức, suy tưởng, cảm thọ có thể là vọng hay chân.

Tánh(): Trong nghĩa bản tánh là cái thường trụ, chẳng đổi dời, nhiễm tịnh.

Tâm là tâm, tánh là tánh, ý nghĩa hoàn toàn khác nhau. Bây giờ, ghép hai chữ Tâm() Tánh() với nhau để có từ kép là Tâm tánh(心性) thì rất khó giải thích. Nếu nói bản tánh hay bổn tánh của tâm thì có thể hiểu là cái bất biến dịch, bất hoại, vô nhiễm... vốn tịch tịnh, chân thật nên gọi là chân tâm (nói theo đệ nhất nghĩa đế). Ai cũng có tâm này, nhưng tùy theo điều kiện chung quanh mà sanh ra nhiễm tịnh nên mới có phàm có Thánh.

Phi tâm tánh(非心性) nói gọn là phi tâm tức “Tâm không” nghĩa là đối với trần cảnh tâm không sanh diệt, đổi dời thì gọi là tâm không (phi tâm) hay vô thức, vô niệm, vô tâm.

 

Sau đây là thí dụ về các đoạn Kinh nguyên gốc bằng chữ Hán trong Hoavouu.com của các pháp Hội khác nhau, đã tạo thành những khó khăn cho người học đạo qua cách chuyển ngữ cũng như dịch thuật:

 

1- Một đoạn Kinh khác trong phẩm cũng có tên là “Thiện Hiện”: Quyển 484, Hội thứ III, lại diễn tả:

Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện rằng:

- Những gì gọi là phi tâm tánh?

Thiện Hiện đáp:

- Tất cả pháp không biến đổi, không phân biệt thì gọi là phi tâm tánh.

 

2- Trong khi đoạn Kinh khác thuộc phẩm “Diệu Hạnh”, quyển 538, Hội thứ IV, diễn tả hoàn toàn khác:

Xá Lợi Tử hỏi:

- Tánh của cái không phải tâm gọi là gì?

Tu Bồ Đề nói:

- Tất cả không hoại, xa lìa phân biệt, chính là cái tâm không phải tâm.

 

3- Chúng ta phải hiểu như thế nào về các câu hỏi cũng như câu trả lời của Xá Lợi Tử và Thiện Hiện trong phẩm “Thiện Hiện”, quyển 556, Hội thứ V:

- Những gì gọi là tâm chẳng phải tâm tánh?

Câu trả lời của Thiện Hiện còn bí nhiệm hơn:

- Nếu không hư hoại, cũng không sai khác thì chính đó gọi là tâm, chẳng phải tâm tánh.

Có thể chúng tôi hiểu sai về từ ngữ cùng lối dịch này chăng? Chúng tôi thích lối dịch của phẩm “Diệu Hạnh”, quyển 538, Hội thứ IV, TBBN hơn. Vì dễ hiểu: “Tất cả không hoại, xa lìa phân biệt, chính là cái tâm không phải tâm”. Tâm không phải tâm nên gọi là phi tâm.

(3). Luân(): Là bánh xe hay vòng tròn.  

 

Lược giải:

 

Phải nói đây là một phẩm rất cô động, nên trong bố cục mở đầu Hội này đã nói: “Nội dung rất vắn tắt so với bốn Hội trước”. Mở đầu cho Hội thứ V này là phẩm “Thiện Hiện”, chỉ chiếm có nữa phần đầu của quyển 556, trong khi Hội thứ I chiếm hơn 70 quyển. Nói nhiều thì loãng, nói ít thì thiếu! Quý vị muốn được đầy đủ, xin đọc lại các Hội trên! Nhưng phải nói phẩm này của Hội thứ V cũng lược tóm nhiều giáo lý của các phẩm khác gộp lại giống như Hội thứ III chẳng hạn.

 

1. Quan niệm về tất cả pháp:

 

Phẩm “Thiện Hiện” được thuyết minh ở đây cũng giống như tất cả phẩm “Thiện Hiện” của các hội khác. Khi Phật bảo Ngài Thiện Hiện thuyết giảng Bát Nhã cho các Bồ Tát, không phải Thiện Hiện thối thất nhiệm vụ do Phật giao phó mà Ngài chỉ muốn nói lên quan điểm của Ngài: Chẳng đắc Bồ Tát, chẳng đắc pháp Bồ Tát và cũng chẳng đắc Bát nhã Ba la mật. Vậy làm sao dạy bảo trao truyền cho các Bồ Tát?

Ngay mở đầu phẩm này, Kinh muốn nói Bồ Tát chỉ là giả danh, pháp chỉ là giả pháp, nên mục tiêu tu tập các thiện pháp để trở thành Vô Thượng Giác ngộ cũng chẳng thể chứng đắc. Tất cả phản biện này đưa đến một chuỗi dài dẫn đến tánh Không mà mấu chốt của giáo lý là muốn đưa hành giả Bát nhã Ba la mật chứng nghiệm thật tánh các pháp và tánh như như, bình đẳng của chúng để cuối cùng đạt được cái thanh tịnh tuyệt đối của tâm hay còn gọi là Niết bàn tịch tĩnh.

Lần lượt Kinh chứng minh: Các pháp là huyễn, là mộng, các pháp là không, không có tự tánh, vô sở hữu bất khả đắc, chỉ là giả danh, giả pháp, không sanh không diệt, không nhiễm không tịnh… Các pháp không tự thấy các pháp, các pháp cũng không thấy các pháp khác, các pháp như vậy là như vậy, bởi vì nó như vậy, chẳng lúc nào chẳng như, nên gọi là Như như. Các pháp như tức đệ nhất nghĩa đế, trong đệ nhất nghĩa đế không phân biệt, nên biết tất cả pháp đều bình đẳng và bình đẳng đây được coi là thanh tịnh.

Nếu hành giả Bát nhã Ba la mật quán và thấy biết như vậy mà không kinh, không sợ, không hối thì biết có thể tu hành Bát nhã Ba la mật và có cơ hội đắc Nhất thiết trí trí, đắc quả vị Vô Thượng Bồ đề, thành thục chúng sanh, thanh tịnh Phật độ, lăn bánh xe pháp, độ vô số hữu tình.

 

2. Vô sở trụ:

 

Vì biết tất cả pháp là không, vô sở hữu bất khả đắc, nên không bám trụ vào bất cứ pháp nào. Một khi có chỗ bám thì liền có dính mắc, hành theo sở hành nên bị điên đảo được mất có không. Vì có bám nên có chấp, vì chấp cho nên có chướng. Vì vậy, trong Tâm Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa, Ngài Quán Tự Tại mới gọi Xá lợi Phất mà bảo rằng: “Này Xá Lợi Phất! Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc, sắc tức là không, không tức là sắc. Thọ tưởng hành thức cũng lại như thế. Này Xá Lợi Phất! Tướng Không của các pháp không sanh không diệt, không nhơ không sạch, không thêm không bớt. Cho nên trong tướng Không, không có sắc, không có thọ tưởng hành thức; không có mắt tai mũi lưỡi thân ý; không có sắc thanh hương vị xúc pháp; không có nhãn giới cho đến ý thức giới; không có vô minh cũng không hết vô minh, cho đến không có già chết cũng không hết già chết; không có khổ tập diệt đạo, không có trí tuệ cũng không có chứng đắc. Vì không có chỗ được nên Bồ Tát y theo Bát nhã Ba la mật đa tâm không ngăn ngại. Vì không ngăn ngại, nên không sợ hãi, xa hẳn điên đảo mộng tưởng mà đạt đến cứu cánh Niết bàn”.

Tất cả đều không, rốt ráo không. Tất cả đều bất khả đắc, bất khả đắc cũng bất khả đắc nốt, nên nói là tất cánh không! Vậy còn chỗ nào để trụ, chỗ nào để bám, chỗ nào để dính mắc mà nói đến chứng hay không chứng. Nếu không trụ, không đắc, không dính mắc thì làm gì có chướng ngại! Kinh nói “trụ chỗ không có chỗ trụ là trụ không, nên nói là vô sở trụ, vô sở trụ đây mới được gọi là chân trụ”. Giáo lý này đã thuyết quá nhiều lần rồi, có lẽ ai cũng nhuần nhuyễn cả, nên không cần dài dòng nữa!

 

3. Phạm Chí Thắng quân và ly tướng:

 

Kinh nói rằng: “Nếu lấy tướng tu đắc Nhất thiết trí trí ấy, Phạm chí Thắng Quân đối Nhất thiết trí trí chẳng nên tin hiểu. Thắng Quân Phạm chí này do sức tin hiểu quay về Phật pháp gọi tùy tín hành, mà năng đem chút ít trí quán tất cả pháp tánh không mà ngộ nhập Nhất thiết trí trí. Đã ngộ vào rồi, chẳng thủ tướng sắc, cũng chẳng thủ tướng thọ tưởng hành thức. Chẳng lấy vui mừng quán thấy trí đây, chẳng lấy cái nghe quán thấy trí đây. Chẳng lấy nội sắc quán thấy trí đây, chẳng lấy ngoại sắc quán thấy trí đây, chẳng lấy nội ngoại sắc quán thấy trí đây, cũng chẳng lìa sắc quán thấy trí đây. Chẳng lấy nội thọ tưởng hành thức quán thấy trí đây, chẳng lấy ngoại thọ tưởng hành thức quán thấy trí đây, chẳng lấy nội ngoại thọ tưởng hành thức quán thấy trí đây, cũng chẳng lìa thọ tưởng hành thức quán thấy trí đây.

Thắng Quân Phạm chí dùng các môn ly tướng như thế thảy đối Nhất thiết trí trí rất sanh tin hiểu, gọi tùy tín hành, đối tất cả pháp đều không lấy đắm. Như vậy, Phạm chí dùng môn ly tướng đối Nhất thiết trí trí được tin hiểu rồi, đối tất cả pháp đều chẳng lấy tướng, cũng chẳng suy gẫm các pháp vô tướng. Như vậy Phạm chí do sức thâm hiểu, đối tất cả pháp chẳng lấy chẳng bỏ, không chứng, không đắc. Khi Phạm chí kia đối với sự tin hiểu cho đến Niết bàn cũng chẳng lấy đắm, vì lấy chơn pháp tánh làm định lượng vậy.

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát do Bát nhã Ba la mật sâu xa chẳng nhiếp thọ sắc, cũng chẳng nhiếp thọ thọ tưởng hành thức. Dù đối các pháp không sở nhiếp thọ, nếu chưa viên mãn Như Lai mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải và mười tám pháp Phật bất cộng thảy, quyết chẳng giữa đường vào bát Niết bàn. Phải biết đại Bồ Tát này đối với Bát nhã Ba la mật dù không lấy đắm mà năng thành xong Nhất thiết trí trí, lợi ích an vui tất cả hữu tình”.

Phạm Chí Thắng quân do sức tin hiểu quay về Phật pháp gọi tùy tín hành, năng đem chút ít trí quán tất cả pháp tánh không, ngộ nhập Nhất thiết trí trí. Một khi đã ngộ vào, không thủ tướng các uẩn, dùng các môn ly tướng đối với các pháp đều không lấy đắm, cũng chẳng tư duy về pháp vô tướng. Đối với tất cả pháp chẳng lấy chẳng bỏ, không chứng không đắc cho đến Niết Bàn cũng chẳng chấp đắm. Vì sao? Vì bản tánh tất cả pháp đều không, không thể nắm giữ.

Các Bồ Tát chứng đắc Bát Nhã cũng lại như vậy. Đối với tất cả pháp không có chấp trước, chẳng nhiếp chẳng thọ các uẩn, tu tập các pháp Phật cho được viên mãn, quyết giữa đường không nhập Niết bàn, thì phải biết các vị tu hành Bát Nhã như thế năng thành xong Nhất thiết trí trí, lợi ích yên vui tất cả hữu tình.

Bởi vì, một khi chấp thủ tướng thì theo tướng mà hành. Theo tướng hành thì không tránh khỏi “mất tâm”, nên Kinh bảo: Thủ đắc tướng chỉ thêm phiền não!

 

4. Học các pháp như thế nào?

 

Kinh viết: “Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Giả sử có người đến hỏi thế này: Huyễn sĩ nếu học Nhất thiết trí trí thì người đó cũng có thể thành tựu Nhất thiết trí trí phải không? Được hỏi như vậy thì con trả lời như thế nào?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ta hỏi lại ngươi, tùy ý ngươi trả lời. Huyễn khác với sắc, thọ, tưởng, hành, thức phải không?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Huyễn chẳng khác sắc, sắc chẳng khác huyễn, huyễn chính là sắc, sắc chính là huyễn. Thọ, tưởng, hành, thức cũng đều như thế.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ý ngươi thế nào? Trong năm thủ uẩn khởi tất cả tưởng đều thi thiết là Bồ Tát phải không?

Thiện Hiện bạch:

- Đúng như vậy! Bạch Thế Tôn!

Phật bảo Thiện Hiện:

- Các Bồ Tát tu học Bát nhã Ba la mật cầu thẳng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, tất cả đều như huyễn sĩ tu học. Vì sao? Vì huyễn sĩ chính là năm thủ uẩn vậy. Vì sao? Vì Ta nói năm thủ uẩn: Nhãn, nhĩ, tỹ, thiệt v.v... sáu căn đều như huyễn hóa, hoàn toàn không có thật”.

Học như huyễn như hóa, học mà không mong cầu nắm bắt, cứ như hư không mà học, học như ảo nhân thính pháp, sớm thành tựu giác ngộ, được Nhất thiết trí trí, mau chứng quả vị Vô thượng Bồ đề.

 

Chỉ riêng phẩm “Thiện Hiện” mở đầu cho pháp hội thứ V cho chúng ta thấy văn từ của pháp hội này rất gãy gọn, tư tưởng lại rất xúc tích dễ hiểu. Vậy, đọc thêm một pháp hội tương đương với các pháp hội khác, không có nghĩa là vô bổ. Ôn tập tất cả Hội là để bổ túc cho nhau. Đó chính là lợi ích của việc trì tụng Kinh điển./.

 

---o0o---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567