Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

29. Phẩm “Nhiếp Thọ” ( Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu, Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Thiện Duyên, Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le)

29/06/202010:45(Xem: 8144)
29. Phẩm “Nhiếp Thọ” ( Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu, Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Thiện Duyên, Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le)


Pham Nhiep Tho_Kinh Bat Nha_Thien Buu_Hoang Lan 

TỔNG LUẬN 

KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***


PHẨM “NHIẾP THỌ”

Phần sau quyển 99 cho đến phần đầu quyển 103, Hội thứ I, ĐBN.

(Tương đương với ba phẩm: 1. Phẩm “Tam Thán” quyển thứ 09;

2. Phẩm “Diệt Tránh” quyển thứ 09 và 3. Phẩm “Bửu Tháp Đại Minh” quyển thứ 10,  MHBNBLM)

 


Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le
Sửa bản in: Cư Sĩ Thanh Phi; Layout & posting: Cư Sĩ Tâm Từ



 

 

Tóm lược:

 

(1.Đoạn kinh sau đây tương đương với phẩm “Tam Thán”,

quyển thứ 09, Kinh MHBNBLMĐ).

 

Bấy giờ, Thiên Vương và chư Thiên, Phạm Vương và chư Phạm Thiên, chư Thần Tiên và chư Thiên Nữ đồng thời ba phen ca ngợi rằng: “Hay thay! Pháp của Đại Đức Thiện Hiện tuyên đều nương thần lực Phật, lấy Phật làm chỗ nương, khéo vì trời người thế gian chúng tôi mà phân biệt, khai thị chánh pháp vi diệu, đó là Bát nhã Ba la mật. Nếu có đại Bồ Tát nào thực hành Bát nhã Ba la mật mà chẳng xa lìa, thời chúng tôi xem vị đó như đức Phật. Tại sao? Vì trong Bát nhã Ba la mật này dù không có pháp nào có thể nắm bắt được, từ uẩn, xứ, giới đến quả vị Giác ngộ tối cao. Tuy không có các pháp nào có thể nắm bắt được nhưng có đặt bày ra giáo pháp Tam thừa, đó là Thanh Văn thừa, Độc giác thừa và Vô thượng thừa.

Lúc bấy giờ, Phật bảo tất cả chư Thiên Tiên: Đúng vậy! Như các ông đã nói, ở trong giáo pháp thậm thâm Bát nhã Ba la mật này, tuy không có uẩn, xứ, giới và tất cả pháp Phật có thể nắm bắt được nhưng có đặt bày ra giáo pháp Tam thừa. Nếu có Bồ Tát nào đối với Bát nhã Ba la mật, đem vô sở đắc mà làm phương tiện, y như thuyết mà hành, chẳng xa lìa, thời tất cả các thiên nhân đối với Bồ Tát ấy nên cung kính cúng dường, phụng sự như chư Phật.

Vì chẳng phải do bố thí Ba la mật mà có thể đắc Như Lai, chẳng phải lìa bố thí Ba la mật mà có thể đắc Như Lai; cũng chẳng phải do tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã mà có thể đắc Như Lai, cũng chẳng phải lìa những thứ ấy mà có thể đắc Như Lai.

Vì chẳng phải do 18 pháp không mà có thể đắc Như Lai, chẳng phải lìa 18 pháp không mà có thể đắc Như Lai; chẳng phải do chơn như, pháp giới, pháp tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế… mà có thể đắc Như Lai, cũng chẳng phải lìa chơn như cho đến thật tế mà có thể đắc Như Lai; cũng chẳng phải do tất cả pháp Phật mà có thể đắc Như Lai, cũng chẳng phải lìa tất cả pháp Phật mà có thể đắc Như Lai.

Này chư Thiên Tiên! Các ngươi nên biết: Nếu đại Bồ Tát lấy vô sở đắc làm phương tiện, thì đối với tất cả pháp luôn luôn chuyên cần tu học. Đó là: Học lục Ba la mật, học 18 pháp không, học chơn như, pháp giới, pháp tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế…, học tất cả pháp Phật từ tứ thiền, tứ vô lượng, tứ vô sắc định, tứ Thánh đế, 12 nhân duyên, 37 pháp trợ đạo, Nhất thiết trí... cho đến quả vị Giác ngộ tối cao.

Đại Bồ Tát học như vậy nên đối với Bát nhã Ba la mật luôn luôn chuyên nhất tu hành không xao lãng. Vì vậy, nên các ngươi đối với đại Bồ Tát ấy phải cung kính, phụng sự giống như Như Lai. Các ngươi nên biết, thuở xưa, thời đức Nhiên Đăng Như Lai, Ứng Chánh Đẳng Giác xuất hiện ở thế gian, ở đầu ngã tư đường, trong thành Chúng hoa(1), thấy Phật Nhiên Đăng, ta rải năm cành hoa và xỏa tóc che bùn cho Phật Nhiên Đăng bước qua, mục đích cầu nghe pháp vô thượng. Nhờ lấy vô sở đắc làm phương tiện, nên: Chẳng lìa lục Ba la mật, chẳng lìa 18 pháp không, chẳng lìa chơn như cho đến thật tế…, chẳng lìa vô lượng Phật pháp. Khi ấy, Phật Nhiên Đăng liền thọ ký cho ta quả vị Giác ngộ tối cao, và phán rằng: Thiện nam tử! Vào đời vị lai, trải qua một a tăng kỳ kiếp, ở trong hiền kiếp thế giới này, ngươi sẽ đắc quả Phật, hiệu là Năng Tịch Như Lai, Ứng Chánh Đẳng Giác, Minh Hành Viên Mãn, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Trượng Phu, Điều Ngự Sĩ, Thiên Nhơn Sư, Phật, Bạc già phạm(2).

Khi ấy, tất cả chư Thiên Tiên bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật như vậy rất hy hữu, khiến các đại Bồ Tát nhanh chóng chứng Nhất thiết trí trí, vì lấy vô sở đắc làm phương tiện. Chỗ gọi đối sắc chẳng thủ, chẳng xả làm phương tiện; đối thọ tưởng hành thức chẳng thủ, chẳng xả làm phương tiện; đối với 12 xứ, 18 giới chẳng thủ, chẳng xả làm phương tiện; đối với tất cả pháp Phật cũng chẳng thủ chẳng xả làm phương tiện. (Q.99, ĐBN)

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn biết bốn chúng: Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ và các đại Bồ Tát cùng với bốn đại Thiên vương, Thiên chúng ở các cõi trời Ba mươi ba, trời Dạ mạ, trời Đổ sử đa, trời Lạc biến hóa, trời Tha hóa tự tại, trời Phạm chúng, trời Phạm phụ, trời Phạm hội, trời Đại phạm, trời Quang, trời Thiểu quang, trời Vô lượng quang, trời Cực quang tịnh, trời Tịnh, trời Thiểu tịnh, trời Vô lượng tịnh, trời Biến tịnh, trời Quảng, trời Thiểu quảng, trời Vô lượng quảng, trời Quảng quả, trời Vô phiền, trời Vô nhiệt, trời Thiện hiện, trời Thiện kiến, trời Sắc cứu cánh, đều tập hợp liền bảo trời Đế Thích:

Kiều Thi Ca! Hoặc đại Bồ Tát, hoặc Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, hoặc các Thiên tử, Thiên nữ, hoặc thiện nam, thiện nữ chẳng lìa tâm của Nhất thiết trí trí, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với Bát nhã Ba la mật này, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu tập, như lý tư duy, vì người diễn thuyết, truyền bá rộng rãi, thì nên biết những người ấy không bị các ác ma vương và quyến thuộc của ma có thể làm não hại được. Vì sao? Kiều Thi Ca! Thiện nam thiện nữ ấy khéo an trụ không, vô tướng, vô nguyện của sắc; khéo an trụ không, vô tướng, vô nguyện của thọ, tưởng, hành, thức; chẳng thể dùng cái không để đạt không, chẳng thể dùng cái vô tướng để đạt vô tướng, chẳng thể dùng cái vô nguyện để đạt vô nguyện. Vì sao? Vì sắc uẩn v.v… tự tánh đều là không, nên người não hại, kẻ bị não hại, sự não hại, chẳng thể nắm bắt được.

Thiện nam, thiện nữ ấy, khéo an trụ không, vô tướng, vô nguyện của 12 xứ, 18 giới; khéo an trụ không, vô tướng, vô nguyện tất cả pháp Phật từ tứ thiền, tứ vô lượng, tứ vô sắc định, tứ Thánh đế, 12 nhân duyên, 37 pháp trợ đạo, Nhất thiết trí... cho đến quả vị Giác ngộ tối cao, chẳng thể dùng cái không để đạt không, chẳng thể dùng cái vô tướng để đạt vô tướng, chẳng thể dùng cái vô nguyện để đạt vô nguyện. Vì sao? Vì tất cả pháp Phật v.v… tự tánh đều không, nên người não hại, kẻ bị não hại, sự não hại, chẳng thể nắm bắt được.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Thiện nam, thiện nữ ấy, nhơn phi nhơn không thể dễ dàng làm hại được. Vì sao? Vì các thiện nam, thiện nữ ấy, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với tất cả hữu tình, khéo tu từ bi, hỷ xả. Nên chẳng bao giờ bị não hại bởi những tai nạn bất ngờ hay chết yểu. Vì sao? Vì thiện nam, thiện nữ ấy tu hành bố thí Ba la mật, đối với các hữu tình chu dưỡng đầy đủ.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Ở Tam thiên đại thiên thế giới này, chúng trời Tứ đại vương, trời Ba mươi ba, trời Dạ mạ, trời Đổ sử đa, trời Lạc biến hóa, trời Tha hóa tự tại, trời Phạm, trời Quang, trời Tịnh, trời Thiện v.v… đã phát tâm cầu Giác ngộ tối cao, đối với Bát Nhã này, nếu vị nào chưa được nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, chánh tư duy, thì nay nên lấy Nhất thiết trí trí làm đầu, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với Bát nhã Ba la mật này chú tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, như lý tư duy thì những vị ấy hoặc tại nhà trống, hoặc tại đồng hoang, hoặc nơi hiểm ác chẳng bao giờ sợ hãi. Vì sao? Vì thiện nam, thiện nữ ấy, chẳng lìa tâm Nhất thiết trí trí, lấy vô sở đắc làm phương tiện, khéo tu nội không, ngoại không, cho đến không tánh tự tánh.

Lúc bấy giờ, ở Tam thiên đại thiên thế giới, chúng trời Tứ đại vương, trời Ba mươi ba, trời Dạ mạ, trời Đổ sử đa, trời Lạc biến hóa, trời Tha hóa tự tại, trời Phạm, trời Quang, trời Tịnh, trời Thiện v.v… cùng bạch Phật:

Bạch Thế Tôn! Nếu thiện nam, thiện nữ chẳng lìa tâm Nhất thiết trí trí, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với Bát nhã Ba la mật thậm thâm này, thường hay thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, như lý tư duy, sao chép, giảng giải, truyền bá rộng rãi thì chúng con thường theo cung kính, hộ vệ chẳng để tất cả tai nạn xâm phạm bất ngờ. Vì sao? Vì thiện nam, thiện nữ ấy chính là đại Bồ Tát.

Bạch Thế Tôn! Vì do đại Bồ Tát ấy nên khiến các hữu tình vĩnh viễn xa lìa các ác đạo, địa ngục, bàng sanh, quỷ giới, A tu la.

Bạch Thế Tôn! Vì do đại Bồ Tát ấy nên các trời, người vĩnh viễn xa lìa tất cả các khổ về tai họa, tật bệnh, bần cùng, đói khát, nóng lạnh v.v…

Bạch Thế Tôn! Vì do đại Bồ Tát ấy nên thế gian mới có mười thiện nghiệp đạo, bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, mới có tứ Thánh đế, 37 pháp trợ đạo, mới có tam giải thoát môn, năm loại mắt, sáu phép thần thông, mới có Phật mười lực, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao.

Bạch Thế Tôn! Vì do đại Bồ Tát ấy nên thế gian mới có dòng họ lớn Sát đế lợi, dòng họ lớn Bà la môn, Trưởng giả, Cư sĩ, các tiểu quốc vương, chuyển luân Thánh vương. Vì do đại Bồ Tát ấy nên thế gian mới có các chúng trời Tứ đại vương, trời Ba mươi ba, trời Dạ mạ, trời Đổ sử đa, trời Lạc biến hóa, trời Tha hóa tự tại, trời Phạm, trời Quang, trời Tịnh, trời Thiện v.v…

Bạch Thế Tôn! Vì do đại Bồ Tát ấy nên thế gian mới có Dự lưu đến A la hán, Độc giác đến Bồ Tát, có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao, chuyển pháp luân nhiệm mầu, độ vô lượng chúng sanh.

Bạch Thế Tôn! Vì do đại Bồ Tát ấy nên thế gian mới có Phật bảo, Pháp bảo, Tăng bảo.

Bạch Thế Tôn! Vì nhơn duyên ấy nên chúng con: Thiên, Long, A tu la, Kiền đạt phược, Yết lộ trà, Khẩn nại lạc, Dược xoa, La sát, nhơn phi nhơn v.v… thường theo cung kính ủng hộ đại Bồ Tát ấy, chẳng để cho tất cả tai họa xâm phạm não hại.

Lúc bấy giờ, Thế Tôn bảo trời Đế Thích và các Thiên, Long, A tu la v.v… Đúng vậy! Như các ngươi đã nói. Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam, thiện nữ chẳng lìa tâm Nhất thiết trí trí, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với Bát nhã Ba la mật thậm thâm này, thường thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, như lý tư duy, sao chép, giảng giải, truyền bá rộng rãi thì nên biết Thiện nam, thiện nữ ấy chính là đại Bồ Tát.

Kiều Thi Ca! Vì do đại Bồ Tát ấy nên các hữu tình vĩnh viễn dứt trừ địa ngục, bàng sanh, quỷ giới, A tu la v.v… Kiều Thi Ca! Vì do đại Bồ Tát ấy nên chư thiên nhơn vĩnh viễn được xa lìa tất cả các khổ tai họa, bệnh tật, bần cùng, đói khát, nóng lạnh v.v…

Kiều Thi Ca! Vì do đại Bồ Tát ấy nên 10 thiện nghiệp đạo xuất hiện ở thế gian. Vì do đại Bồ Tát ấy nên bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao xuất hiện ở thế gian. Vì do đại Bồ Tát ấy nên mới có dòng họ lớn Sát đế lợi cho đến các chúng trời xuất hiện thế gian. Vì do đại Bồ Tát ấy nên thế gian mới có Dự lưu đến A la hán, Độc giác đến Bồ Tát, xuất hiện thế gian. Vì do đại Bồ Tát ấy nên Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác xuất hiện ở thế gian, chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao, chuyển pháp luân nhiệm mầu, độ vô lượng chúng sanh.

Kiều Thi Ca! Do đại Bồ Tát ấy nên Phật bảo, Pháp bảo, Tăng bảo xuất hiện ở thế gian.

Kiều Thi Ca! Vì duyên cớ này, Thiên, Long, A tu la v.v… các ngươi thường nên cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, và siêng năng ủng hộ đại Bồ Tát này, chớ để tất cả tai họa xâm phạm não hại.

Kiều Thi Ca! Nếu có người thường cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen đại Bồ Tát như vậy, thì nên biết chính là cung kính, cúng dường, tôn trọng, ngợi khen Ta và tất cả các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trong mười phương.

Kiều Thi Ca! Ví như trong cõi Nam Thiệm Bộ, Đông Thắng Thân, Tây Ngưu Hóa, Bắc Cu Lô, hàng Thanh Văn và Bích Chi Phật nhiều như rừng, mè, tre, đậu…, có thiện nam, thiện nữ cúng dường, cung kính, tôn trọng khắp tất cả cũng không bằng phước đức cúng dường Bồ Tát sơ phát tâm chẳng rời sáu Ba la mật.

Ví như trong tiểu thiên thế giới hay nói rộng cho đến Tam thiên đại thiên thế giới, hàng Thanh Văn và Bích Chi Phật nhiều như rừng, mè, tre, đậu…, có thiện nam, tín nữ cúng dường cung kính, tôn trọng khắp tất cả cũng không bằng phước đức cúng dường Bồ Tát sơ phát tâm chẳng rời sáu Ba la mật.

Tại sao vậy? Vì chẳng phải do Thanh Văn hay Bích Chi Phật nên có Bồ Tát và chư Phật xuất hiện thế gian mà do đại Bồ Tát nên có Thanh Văn và Bích Chi Phật cùng chư Phật xuất hiện thế gian.

Vì vậy, nên các ngươi, tất cả Thiên, Long, A tu la, Kiền đạt phược, Yết lộ trà, Khẩn nại lạc, Dược xoa, La sát ba, Mạc hô lạc già, nhơn phi nhơn thường ủng hộ bảo vệ cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen đại Bồ Tát này, chớ để tất cả tai họa xâm phạm não hại.

Lúc bấy giờ, trời Đế Thích bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thật là hy hữu! Đại Bồ Tát ấy, đối với Bát Nhã thậm thâm này, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, như lý tư duy, sao chép, giảng giải, truyền bá rộng rãi. Nhiếp thọ công đức của những việc cụ thể như vậy, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, thân cận, phụng sự chư Phật Thế Tôn. Do thiện căn thù thắng này, nên được dòng họ viên mãn, thân mẫu viên mãn, sự sanh viên mãn, quyến thuộc viên mãn, tướng hảo viên mãn, quang minh viên mãn, nhãn viên mãn, nhĩ viên mãn, âm thanh viên mãn, Đà la ni, Tam ma địa viên mãn. Lại dùng sức phương tiện thiện xảo, biến thân như Phật, từ thế giới này đến thế giới khác, đến nước không có Phật, giảng thuyết khen bố thí Ba la mật, giảng thuyết khen ngợi tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã; giảng thuyết khen ngợi 18 pháp không, giảng thuyết khen ngợi chơn như, pháp giới, pháp tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế…; giảng thuyết khen ngợi tất cả pháp Phật từ tứ thiền, tứ vô lượng, tứ vô sắc định, tứ Thánh đế, 12 nhân duyên, 37 pháp trợ đạo, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết chủng trí; giảng thuyết khen ngợi Phật bảo, Pháp bảo, Tăng bảo. Lại dùng sức phương tiện thiện xảo, vì các hữu tình, tuyên thuyết pháp yếu, tùy nghi an trú trong pháp Ba thừa, khiến vĩnh viễn giải thoát sanh, lão, bệnh, tử, chứng cảnh giới Vô dư y Niết bàn; hoặc lại cứu giúp nỗi khổ trong các đường ác, khiến được vào cõi nhơn, thiên hưởng sự an lạc.

 

(2.Đoạn Kinh kế tương đương với phẩm “Diệt Tránh”,

quyển thứ 09, Kinh MHBNBLMĐ).

 

Trời Đế Thích bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thật là hy hữu! Thọ trì Bát nhã Ba la mật là nhiếp thọ lục Ba la mật, cũng nhiếp thọ tứ Thánh đế, 12 nhân duyên, 37 pháp trợ đạo, Nhất thiết trí trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao? (Q. 101, ĐBN)

Đức Phật bảo: Kiều Thi Ca! Đúng như vậy! Thọ trì Bát nhã Ba la mật là đã tổng nhiếp năm Ba la mật cho đến quả vị Giác ngộ tối cao.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam, thiện nữ đối Bát nhã Ba la mật này thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, như lý tư duy, sao chép, giảng giải, truyền bá rộng rãi, thì hiện pháp và hậu pháp của những vị ấy được công đức thù thắng. Ngươi hãy lắng nghe, khởi lên thiện ý dũng mãnh Ta sẽ vì ngươi phân biệt giảng nói.

Trời Đế Thích bạch: Bạch Thế Tôn! Xin Như Lai giảng nói, chúng con muốn nghe.

Phật dạy: Kiều Thi Ca! Nếu có các hàng phạm chí ngoại đạo(3), hoặc có các ma và quyến thuộc của ma, hoặc kẻ bạo ác tăng thượng mạn, muốn gây gổ, lăng nhục phá hoại tâm Bát Nhã của Bồ Tát, những kẻ ấy mới vừa khởi tâm, thời liền bị tiêu diệt, trọn chẳng được như ý muốn. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì đại Bồ Tát ấy lấy đại bi làm tâm nguyện, lấy Nhất thiết trí trí làm đầu, dùng vô sở đắc làm phương tiện, luôn luôn kiên trì tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật:

Do các chúng sanh mãi mãi tham tránh nên đại Bồ Tát xả tất cả những nội vật, ngoại vật để an lập chúng sanh trong bố thí Ba la mật;

Do chúng sanh luôn luôn phá giới nên đại Bồ Tát xả tất cả sự kiện trong, ngoài để an lập chúng sanh trong tịnh giới Ba la mật;

Do các chúng sanh mãi mãi đấu tranh nên đại Bồ Tát xả tất cả nội pháp, ngoại pháp để an lập chúng sanh nơi nhẫn nhục Ba la mật;

Do các chúng sanh mãi mãi giải đãi nên đại Bồ Tát xả tất cả nội pháp, ngoại pháp để an lập chúng sanh nơi tinh tấn Ba la mật;

Do các chúng sanh mãi mãi loạn tâm nên đại Bồ Tát xả tất cả nội pháp, ngoại pháp để an lập chúng sanh nơi tịnh lự Ba la mật;

Do các chúng sanh mãi mãi ngu si nên đại Bồ Tát xả tất cả nội pháp, ngoại pháp để an lập chúng sanh nơi Bát nhã Ba la mật.

Nếu các hữu tình xoay vần trôi giạt trong sinh tử, luôn luôn bị các loại tùy miên, triền cấu của tham, sân, si v.v… làm nhiễu loạn, đại Bồ Tát ấy thường dùng các thứ phương tiện thiện xảo, làm cho họ đoạn diệt, vĩnh viễn xa lìa sanh tử, hoặc an lập họ, an trụ trong 18 pháp không; hoặc an lập họ, an trụ chơn như, pháp giới, pháp tánh, định pháp, trụ pháp, thật tế…; hoặc an lập họ, an trụ Tứ Thánh đế; hoặc an lập họ, an trụ bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; hoặc an lập họ, an trụ tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; hoặc an lập họ, an trụ trong 37 pháp trợ đạo; hoặc an lập họ, an trụ tam giải thoát không, vô tướng, vô nguyện; hoặc an lập họ, an trụ năm loại mắt, sáu phép thần thông; hoặc an lập họ, an trụ Phật mười lực, 4 điều không sợ, 4 sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, 18 pháp Phật bất cộng; hoặc an lập họ, an trụ pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; hoặc an lập họ, an trụ Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí; hoặc an lập họ, an trụ tất cả pháp môn Đà la ni, Tam ma địa; hoặc an lập họ, an trụ quả Dự lưu cho đến quả vị Giác ngộ tối cao; hoặc an lập họ, an trụ thiện pháp thế gian, xuất thế gian (nghĩa là an lập trong tất cả pháp Phật).

Kiều Thi Ca! Như vậy gọi là thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, như lý tư duy, sao chép, giảng giải, truyền bá rộng rãi Bát nhã Ba la mật, đó là sự thu hoạch thắng lợi công đức hiện pháp của đại Bồ Tát.

Kiều Thi Ca! Đại Bồ Tát ấy đối với Bát nhã Ba la mật thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, như lý tư duy, sao chép, giảng giải, truyền bá rộng rãi, vào đời sau, nhanh chóng chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao, chuyển pháp luân nhiệm mầu, độ vô lượng chúng sanh, tùy theo sở nguyện an lập hữu tình, làm cho đối với ba thừa tu học rốt ráo cho đến chứng nhập Vô dư y Niết bàn.

Kiều Thi Ca! Như vậy gọi là thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, như lý tư duy, sao chép, giảng giải, truyền bá rộng rãi Bát nhã Ba la mật, đó là sự thu hoạch thắng lợi công đức hậu pháp của đại Bồ Tát.

Lại nầy Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam, tín nữ lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, giảng thuyết, chánh ức niệm Bát nhã Ba la mật này, thời chỗ ở của người này, các hàng ngoại đạo, ma vương, ma dân, kẻ tăng thượng mạn muốn khinh hủy, vấn nạn, phá hoại Bát nhã Ba la mật trọn chẳng thành được. Ác tâm của bọn này lần lần giảm diệt, lại nhờ nghe Bát nhã Ba la mật này nên lần lần do đạo Tam thừa đặng hết những khổ.

Kiều Thi Ca! Như có một loại thuốc hay tên là Mạc kỳ, công dụng cực mạnh của loại thuốc này, có thể tiêu trừ các thứ độc. Có rắn lớn đói đi tìm mồi, gặp loài sanh vật khác muốn mổ ăn, sinh vật ấy sợ chết chạy vào trong thuốc kia. Rắn nghe mùi thuốc liền trở lui. Vì tác dụng cực mạnh của loại thuốc Mạc kỳ có thể chế phục các độc, cứu được thân mạng. Nên biết công dụng to lớn đầy đủ của Bát nhã Ba la mật cũng lại như vậy. Vì sức oai thần to lớn đầy đủ của Bát Nhã này có khả năng xua tan các việc ác, làm tăng trưởng các điều thiện.

Kiều Thi Ca! Thế nào là Bát nhã Ba la mật có khả năng diệt trừ các điều ác, làm tăng trưởng các điều thiện?

Kiều Thi Ca! Bát nhã Ba la mật như vậy có khả năng diệt trừ các tham dục, sân nhuế, ngu si; vô minh, mê muội, ô uế, trói buộc. Có khả năng diệt trừ kiến chấp về ngã, hữu tình, dòng sinh mạng, sự sanh, sự dưỡng, sự trưởng thành, chủ thể luân hồi, người do người sanh, ngã tối thắng, khả năng làm việc, thọ quả báo, cái biết, cái thấy.

Kiều Thi Ca! Bát nhã Ba la mật như thế có khả năng diệt trừ tất cả thường kiến, đoạn kiến, hữu kiến, vô kiến cho đến con đường đưa đến các ác kiến khác đồng thời có khả năng diệt trừ các loại xan tham, phá giới, sân hận, lười biếng, tán loạn, ngu si, các vọng tưởng về thường, lạc, ngã, tịnh, các hành tham, sân, si, mạn, nghi, kiến v.v…

Kiều Thi Ca! Bát nhã Ba la mật như thế có khả năng diệt trừ chấp thủ 5 uẩn, 12 xứ, 18 giới, các đại chủng, tứ Thánh đế, 12 duyên khởi, 18 pháp không, có khả năng diệt trừ chấp thủ thập nhị chân như, 6 pháp Ba la mật, bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, tám giải thoát, chín định thứ đệ, mười biến xứ, 37 pháp trợ đạo... cho đến Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí.

Kiều Thi Ca! Bát nhã Ba la mật như thế có khả năng diệt trừ sự chấp thủ Thanh văn thừa, Độc giác thừa, Vô thượng thừa, nghĩa là tất cả pháp Phật. Vì vậy, nên Bát nhã Ba la mật có vô số lượng sức oai thần lớn.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... đối với Bát nhã Ba la mật này chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, như lý tư duy, sao chép, giảng giải, truyền bá rộng rãi thì đại Bồ Tát ấy thường được bốn đại Thiên vương và trời Đế Thích trong thế giới ba ngàn lần, vua trời Đại phạm, chủ thế giới Kham Nhẫn, trời Cực Quang Tịnh, trời Biến Tịnh, trời Quảng Quả, trời Tịnh Cư v.v... cùng các thiện thần đều cùng ủng hộ, chẳng để cho tất cả tai họa xâm phạm, não hại, những điều mong cầu như pháp đều được đầy đủ. Chư Phật hiện tại trong thế giới mười phương cũng thường hộ niệm. Bồ Tát như thế, làm cho ác pháp tiêu diệt, thiện pháp tăng trưởng, đó là:

Tăng trưởng 6 pháp Ba la mật, 18 pháp không, Tứ đế, 12 duyên khởi... cho đến cho đến Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí khiến không tổn giảm. Vì sao? Vì lấy vô sở đắc làm phương tiện.

Kiều Thi Ca! Đại Bồ Tát ấy nói năng nghiêm túc, người nghe đều kính thọ; khen ngợi, đàm luận ngôn từ không lầm lẫn, rối loạn, tri ân sâu đậm, bền bỉ giúp bạn, chẳng bị sân, tật phẩn hận phú não siểm cuống kiêu mạn v.v... làm mờ ám.

Kiều Thi Ca! Đại Bồ Tát ấy tự xa lìa sự giết hại sinh mạng, dạy người khác xa lìa sự giết hại sanh mạng, khen ngợi sự xa lìa giết hại sanh mạng, vui vẻ khen ngợi người xa lìa sự giết hại sanh mạng. Tự xa lìa sự không cho mà lấy, dạy người khác xa lìa sự không cho mà lấy, khen ngợi sự xa lìa không cho mà lấy. Tự xa lìa lời nói dối trá, lời nói nói ly gián, nói thô ác, nói uế tạp, cũng tự xa lìa sự tham dục, sân nhuế, tà kiến, dạy người khác xa lìa, khen ngợi sự xa lìa, vui vẻ khen ngợi người xa lìa tất cả những tật xấu trên.

Kiều Thi Ca! Đại Bồ Tát ấy tự tu hành 6 pháp Ba la mật, tự an trụ 18 pháp không, thập nhị chơn như, tứ Thánh đế... cho đến Nhất thiết tướng trí, dạy người khác tu pháp tất cả pháp Phật, khen ngợi tất cả pháp Phật, vui vẻ khen ngợi người tu tất cả pháp Phật nói trên.

Kiều Thi Ca! Đại Bồ Tát ấy tu hành sáu phép Ba la mật, lấy vô sở đắc làm phương tiện, cùng với tất cả hữu tình đồng hồi hướng quả vị Giác ngộ tối cao. Đại Bồ Tát ấy thường nghĩ thế này:

Nếu ta chẳng hành bố thí Ba la mật thì sẽ sanh vào nhà bần cùng, không thế lực, lấy gì thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, huống là có khả năng đắc Nhất thiết tướng trí;

Nếu ta chẳng bảo hộ tịnh giới Ba la mật thì sẽ sanh các đường ác, còn chẳng thể được thân người hạ tiện, lấy gì thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, huống là có khả năng đắc Nhất thiết tướng trí;

Nếu ta chẳng tu an nhẫn Ba la mật thì sanh ra các căn sẽ tàn tật khiếm khuyết, dung mạo xấu xí, chẳng đầy đủ sắc thân viên mãn của Bồ Tát; nếu được sắc thân viên mãn của Bồ Tát, hành hạnh Bồ Tát, hữu tình nào thấy thì chắc chắn đạt được quả vị Giác ngộ tối cao; nếu chẳng được sắc thân viên mãn này thì chẳng có thể thành thục tất cả hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, huống là có khả năng đắc Nhất thiết tướng trí;

Nếu ta lười biếng, chẳng khởi tinh tấn Ba la mật, thì đạo thù thắng của Bồ Tát còn chẳng có khả năng đạt được, lấy gì thành thục tất cả hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, huống là có khả năng đắc Nhất thiết tướng trí;

Nếu ta loạn tâm, chẳng nhập tịnh lự Ba la mật, thì định thù thắng của Bồ Tát còn chẳng thể khởi được, lấy gì thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, huống là có khả năng đắc Nhất thiết tướng trí.

Nếu ta không có trí tuệ, chẳng học Bác nhã Ba la mật, thì trí tuệ phương tiện thiện xảo còn chẳng thể đạt được, lấy gì vượt bậc Nhị thừa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, huống là có khả năng đắc Nhất thiết tướng trí.

Đại Bồ Tát ấy học sáu phép Ba la mật, thường nghĩ thế này: Ta chẳng nên chạy theo thế lực xan tham, phá giới, phẫn hận, lười biếng, loạn tâm, vô trí. Vì sao? Vì nếu buông theo thế lực ấy thì các Ba la mật của ta chẳng được viên mãn, nếu các Ba la mật của ta chẳng được viên mãn thì chẳng bao giờ có khả năng thành tựu Nhất thiết tướng trí.

Kiều Thi Ca! Đại Bồ Tát ấy chẳng lìa tâm Nhất thiết trí trí, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với Bát nhã Ba la mật này tinh cần tu học, như lý tư duy, sao chép, giảng giải, truyền bá rộng rãi, thì sẽ đạt được công đức thắng lợi như thế trong hiện tại và vị lai.(Q.102, ĐBN)

Lúc bấy giờ, trời Đế Thích bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật như thế thật là hy hữu, điều phục Bồ Tát, làm cho chẳng sanh tâm tự cao mà lại có khả năng hồi hướng Nhất thiết trí trí.

Phật bảo: Kiều Thi Ca! Thế nào là Bát nhã Ba la mật có khả năng điều phục làm cho Bồ Tát chẳng sanh tâm tự cao mà lại có khả năng hồi hướng Nhất thiết trí trí?

Đại Bồ Tát khi tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật ở thế gian, liền nghĩ: Ta có khả năng tu hành bố thí cho đến Bát Nhã, ta có khả năng viên mãn bố thí cho đến Bát Nhã. Vì đại Bồ Tát ấy không có phương tiện thiện xảo tu hành các Ba la mật như thế, liền khởi tâm tự cao, nên chẳng có khả năng hồi hướng Nhất thiết trí trí.

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát khi an trụ tất cả pháp Phật từ tứ thiền, tứ vô lượng, tứ vô sắc định, tứ Thánh đế, 12 nhân duyên, 37 pháp trợ đạo, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết chủng trí… nói chung là tất cả pháp Phât, nếu khởi nghĩ: Ta có khả năng an trụ tất cả pháp Phật như trên, thì đại Bồ Tát ấy bị sự chấp ngã và ngã sở làm nhiễu loạn sự an trụ, liền khởi tâm tự cao, nên chẳng có khả năng hồi hướng Nhất thiết trí trí.

Bạch Thế Tôn! Nhưng nếu đại Bồ Tát, vì đã y cứ vào Bát Nhã xuất thế gian mà tu các thiện pháp nên có khả năng như thật điều phục tâm tự cao, cũng có khả năng như thật hồi hướng Nhất thiết trí trí, vì vậy nên con nói Bát nhã Ba la mật như thế thật là hy hữu, điều phục Bồ Tát làm cho chẳng khởi tâm tự cao, có khả năng hồi hướng Nhất thiết trí trí.

Lúc bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích: Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam, thiện nữ luôn luôn đối với Bát nhã Ba la mật thậm thâm như vậy, chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, như lý tư duy, sao chép, giảng thuyết, truyền bá rộng rãi thì thiện nam, tín nữ ấy thân thường an ổn, tâm thường vui vẻ, chẳng bị tất cả tai họa xâm phạm, não hại.

 

(3.Đoạn Kinh kế tiếp tương đương với phần đầu

phẩm “Bửu Tháp Đại Minh”, quyển thứ 10, MHBNBLMĐ).

 

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam, thiện nữ nhơn đối với Bát nhã Ba la mật này, thọ trì, đọc tụng, thân cận cúng dường, như lý tư duy, sao chép, giảng thuyết, truyền bá rộng rãi thì thiện nam, thiện nữ ấy khi ra trận mạc, mà chí tâm tụng niệm Bát Nhã, thì chẳng bị đao trượng làm tổn hại, chẳng bao giờ có chuyện mất mạng ở chiến trường. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì thiện nam, thiện nữ ấy chẳng lìa tâm Nhất thiết trí trí, lấy vô sở đắc làm phương tiện, luôn luôn tu tập sáu phép Ba la mật, tự từ bỏ đao trượng tham dục, cũng có khả năng làm cho kẻ khác từ bỏ đao trượng tham dục; tự từ bỏ đao trượng sân nhuế, cũng có khả năng làm cho kẻ khác từ bỏ đao trượng sân nhuế; tự từ bỏ đao trượng ngu si, cũng có khả năng làm cho kẻ khác từ bỏ đao trượng ngu si; tự từ bỏ đao trượng ác kiến, cũng có khả năng làm cho kẻ khác từ bỏ đao trượng ác kiến; tự từ bỏ đao trượng triền cấu, tùy miên, ác nghiệp, cũng có khả năng làm cho kẻ khác từ bỏ đao trượng triền cấu, tùy miên, ác nghiệp.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam, thiện nữ chẳng lìa tâm Nhất thiết trí trí, lấy vô sở đắc làm phương tiện, thường đối với Bát nhã Ba la mật như thế mà chí tâm lắng nghe, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, thọ trì, đọc tụng, như lý tư duy, tinh cần tu học, sao chép, giảng thuyết, truyền bá rộng rãi thì thiện nam, tín nữ ấy không bị tất cả thuốc độc, trùng độc, trù yểm, chú thuật có thể làm tổn hại, không thể bị chết chìm, chẳng bị chết cháy; đao trượng, ác thú, oán tặc… chẳng thể làm hại được. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát nhã Ba la mật như thế là đại thần chú; Bát nhã Ba la mật như thế là đại minh chú, là vô thượng chú, là vô thượng thượng chú, là vô đẳng đẳng chú, là vua của tất cả chú, tối thượng, tối diệu, không gì có thể sánh bằng, đầy đủ oai lực lớn, có khả năng hàng phục tất cả, mà chẳng bị tất cả hàng phục. Thiện nam, thiện nữ ấy tinh cần tu học chú vương này, chẳng làm hại mình, chẳng làm hại người, chẳng làm hại cả hai. Vì sao? Vì thiện nam, thiện nữ ấy học Bát nhã Ba la mật này, hiểu rõ tự và tha, cả hai đều chẳng thể nắm bắt được.

Kiều Thi Ca! Thiện nam, thiện nữ ấy khi học đại vương chú Bát Nhã này, chẳng thấy có ngã, chẳng thấy có hữu tình cho đến chẳng thấy có cái biết, cái thấy. Do đối với ngã, hữu tình v.v... vô sở đắc nên chẳng làm hại mình, chẳng làm hại người, chẳng làm hại cả hai.

Kiều Thi Ca! Thiện nam, thiện nữ ấy, khi học đại vương chú Bát Nhã này, chẳng thấy có sắc, chẳng thấy có thọ, tưởng, hành, thức, vì đối với sắc uẩn vô sở đắc nên chẳng làm hại mình, chẳng làm hại người, chẳng làm hại cả hai.

Kiều Thi Ca! Thiện nam, thiện nữ, khi học đại vương chú Bát Nhã này, chẳng thấy có 12 xứ, 18 giới; chẳng thấy tứ Thánh đế cho đến quả vị Giác ngộ tối cao, vì đối với tất cả pháp Phật vô sở đắc nên chẳng làm hại mình, chẳng làm hại người, chẳng làm hại cả hai.

Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ ấy, khi học đại vương chú Bát Nhã này, đối với ngã và pháp, tuy không sở đắc, mà chứng quả vị Giác ngộ tối cao, quán chiếu tâm hành sai biệt của các hữu tình, tùy nghi chuyển pháp luân Vô thượng, khiến như thuyết tu hành, đều được ích lợi. Vì sao? Vì chúng đại Bồ Tát quá khứ, đối với đại vương chú Bát Nhã này, tinh cần tu học, đã chứng quả vị Giác ngộ tối cao, chuyển pháp luân nhiệm mầu, độ vô lượng chúng sanh. Chúng đại Bồ Tát vị lai, đối với đại vương chú Bát Nhã này, tinh cần tu học, sẽ chứng quả vị Giác ngộ tối cao, chuyển pháp luân nhiệm mầu, độ vô lượng chúng sanh. Chúng đại Bồ Tát hiện tại trong mười phương vô biên thế giới, đối với đại vương chú Bát Nhã này, tinh cần tu học, hiện chứng quả vị Giác ngộ tối cao cũng lại như thế.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam, thiện nữ đối với Bát nhã Ba la mật, chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, như lý tư duy, sao chép, giảng thuyết, truyền bá rộng rãi thì thiện nam, thiện nữ ấy, ở bất kỳ thành ấp, quốc độ nào, chẳng bị tất cả tai họa, tật dịch… làm tổn hại. Vì sao? Vì thiện nam, thiện nữ ấy, bất cứ ở đâu cũng được chúng trời Tứ đại vương, trời Ba mươi ba, trời Dạ ma, trời Đổ sử đa, trời Lạc biến hóa, trời Tha hóa tự tại, trời Phạm chúng, trời Phạm phụ, trời Phạm hội, trời Đại phạm và các long thần, A tu la v.v... ở trong tam thiên đại thiên thế giới và vô lượng, vô số, vô biên thế giới khác trong mười phương thường đến ủng hộ, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, vì chẳng để cho đại vương chú Bát Nhã bị trở ngại.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam, tín nữ sao chép đại vương chú Bát nhã Ba la mật này, tôn trí nơi thanh tịnh, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, tuy chẳng được nghe thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, như lý tư duy, cũng chẳng vì người khác mà chỉ bày dẫn giải, nhưng ngay nơi trú xứ quốc ấp vương đô này, người, chẳng phải người v.v... chẳng bị tất cả tai họa, tật dịch làm tổn hại. Vì sao? Vì đại vương chú Bát Nhã như vậy, ở bất cứ chỗ nào, cũng đều được chúng trời Tứ đại vương cho đến trời Sắc cứu cánh cùng các long thần, A tu la v.v... trong tam thiên đại thiên thế giới và vô lượng, vô số, vô biên thế giới khác trong mười phương thường đến ủng hộ, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, vì chẳng để cho đại vương chú Bát nhã Ba la mật bị trở ngại.

Kiều Thi Ca! Thiện nam, thiện nữ ấy, chỉ sao chép đại vương chú Bát nhã Ba la mật mà hiện tại còn được lợi ích như vậy, huống là thường lắng nghe thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, như lý tư duy và vì người mà chỉ bày giảng giải. Nên biết công đức của người ấy vô biên, mau chứng quả Giác ngộ, làm lợi lạc tất cả.

Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam, thiện nữ lo sợ oan gia, ác thú, tai họa, trù yếm, tật dịch, thuốc độc, chú thuật v.v... nên sao chép đại vương chú Bát nhã Ba la mật, tùy theo số lượng nhiều ít, gói trong đẫy hương, đặt trong ống quí, thường mang theo thân, cung kính cúng dường, thì các sự lo sợ đều được tiêu trừ, vì thiên long, quỷ thần thường ủng hộ.

Kiều Thi Ca! Thí như có người hoặc loài bàng sanh vào chỗ cây Bồ đề hoặc đến bên cây ấy, nhơn hay phi nhơn có ác tâm cũng chẳng thể làm hại được. Vì sao? Vì chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại đều ngồi nơi này mà chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao; được giác ngộ rồi, an lập vô lượng, vô số hữu tình làm cho an trụ diệu hạnh, người trời tôn quý; an lập vô lượng, vô số hữu tình làm cho an trụ diệu hạnh, an lạc của ba thừa; an lập vô lượng, vô số hữu tình làm cho chứng đắc ngay Dự lưu quả cho đến chứng quả vị Giác ngộ tối cao. Những việc thù thắng như vậy đều do sức oai thần của Bát nhã Ba la mật. Vì vậy nên chốn này; trời, rồng, A tu la v.v... đều cùng thủ hộ, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen. Nên biết Bát nhã Ba la mật hiện diện nơi nào, cũng lại như vậy, tất cả trời, rồng, A tu la v.v... thường đến thủ hộ, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, vì chẳng để cho Bát nhã Ba la mật bị trở ngại. Nên biết chốn ấy tức là chơn Bảo tháp, tất cả hữu tình đều nên kính lễ, nên dùng các thứ tràng hoa, hương xoa, hương bột v.v... thượng diệu cùng y phục, anh lạc, tràng phan, lọng báu, các thứ ngọc quý, kỹ nhạc, đèn sáng để cúng dường.

 

Thích nghĩa:

(1). Thành Chúng Hoa: MHBNBLMĐ gọi là thành Hoa Nghiêm.

(2). Bạc già phạm (Phạm: Bhagavat, Pàli: Bhagavà hoặc Bhagavant): Là một trong mười hiệu của đức Phật. Còn gọi là Bà già bà, Bà nga phạ đế. Dịch ý là Hữu đức, Năng phá, Thế tôn... Tức hàm ý là người có đức được đời tôn trọng. Tại Ấn Độ, từ này được dùng để tôn xưng các vị thần có đức hoặc các bậc Thánh giả. Trong trường hợp nầy, nó phải có đầy đủ sáu nghĩa: Tự tại, ly dục, cát tường, chính nghĩa, danh xưng và giải thoát. Trong Phật giáo, đó là từ tôn xưng đức Phật. Lại vì đức Phật có đầy đủ các đức như đức độ, khéo phân biệt, được mọi người tôn kính, có thể phá trừ phiền não. Cho nên, Bạc già phạm cũng có đủ bốn ý nghĩa là: Có đức độ, khéo phân biệt, có danh tiếng, và có khả năng phá trừ các phiền não. Lại cứ theo Phật địa Kinh luận, quyển 1 chép, thì Bạc già phạm có đủ sáu nghĩa là: Tự tại, xí thịnh(hương vượng mạnh mẽ), đoan nghiêm, danh xưng, cát tường và tôn quí. Ngoài ra, cũng có người ghép chung từ Phật và Bạc già phạm làm một gọi là Phật bạc già phạm. [X. luận Đại trí độ Q.2; Thanh tịnh đạo luận Q.7; Đại thừa nghĩa chương Q.20]. (xt. Thế Tôn, Bà Già Bà). - Từ điển Phật Quang.

(3). Phạm chí ngoại đạo có hai nghĩa: Tốt và xấu. 1- Tốt chỉ người thuộc dòng Bà la môn xuất gia tu tập, quyết chí cầu sanh lên cõi Phạm thiên nên gọi là Phạm chí (Hán dịch: Tịnh duệ, Tịnh hạnh). 2- Xấu ác là tin bậy, làm bậy có thể đi đến chỗ sát nhân như Lộc Trượng Phạm chí giết đệ tử Phật. Lúc đức Phật còn tại thế, có vị Tỳ kheo nghe Phật thuyết về quán bất tịnh mà chán thân đang sống, cho nên mới nhờ Phạm chí Lộc Trượng giết. Lộc Trượng nghe lời ma thần cho rằng việc làm ấy là tốt, vì cứu độ cho vị Tỳ kheo, nên Phạm chí Lộc Trượng tiếp tục nhận lời giết các vị Tỳ kheo khác. Ngoài ra, trong Kinh điển Phật có nói đến Chấp trượng Phạm chí đã giết chết Ngài Mục kiền Liên vì không vừa lòng về lời giảng pháp của Ngài v.v…

(4). Cái (Phạm: Àvaraịa): Có nghĩa là che lấp, chỉ phiền não, vì phiền não che lấp thân tâm, nên gọi là cái: Tham dục cái, sân khuể cái, hôn trầm thụy miên cái, trạo (điệu) cử ác tác cái và si cái, gọi chung là ngũ cái. Có thể hiểu là những phiền não, những gì trói buộc con người, gây chướng ngại trên con đường đạt Giải thoát. Bao gồm: 1- Dục tham cái (kāmachanda): Tham đắm cảnh năm dục (tiền của, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ), không biết nhàm chán, nên tâm tính bị che lấp; 2- Sân khuể cái (s: vyāpāda): Đối trước cảnh trái ý, lòng tức giận nổi lên làm che lấp tâm tính; 3- Thuỵ miên cái (s: middha): Hôn trầm và buồn ngủ khiến tâm tính lờ đờ, không thể tích cực hoạt động; 4- Trạo hối cái hay trạo (điệu) cử ác tác cái (s: uddhaccha): Chỉ sự chao động (trạo) của tâm, hoặc lo buồn, ân hận (hối) đối với những việc đã làm, khiến tâm tính bị che lấp; 5- Nghi cái (s: vicikitsā): Tâm trạng nghi ngờ, không quyết đoán. (Từ điển Phật Quang)

 

Lược giải:

 

1. Giáo pháp của đoạn đầu đáng chú ý khi Phật bảo:

 

“Vì chẳng phải do 18 pháp không mà có thể đắc Như Lai, chẳng phải lìa 18 pháp không mà có thể đắc Như Lai; chẳng phải do chơn như, pháp giới, pháp tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế… mà có thể đắc Như Lai, cũng chẳng phải lìa chơn như cho đến thật tế mà có thể đắc Như Lai; cũng chẳng phải do tất cả pháp Phật mà có thể đắc Như Lai, cũng chẳng phải lìa tất cả pháp Phật mà có thể đắc Như Lai”.

Chẳng phải do 18 pháp không, cũng chẳng phải do pháp giới pháp tánh, pháp định, thật tế…, cũng chẳng phải do tất cả pháp Phật mà đắc Như Lai. Nhưng cũng chẳng lìa tất cả các pháp ấy mà có thể đắc Như Lai. Tại sao? Vì nếu mong cầu, nắm bắt tức có sở đắc thì không thể đắc. Vậy, muốn đắc thì chẳng thủ chẳng xả, lấy vô sở đắc làm phương tiện mới có thể tròn đầy hạnh nguyện.

Đoạn Kinh này Phật tán thán Bát nhã Ba la mật và chư Bồ Tát nhờ tu Bát Nhã mang nhiều phúc lợi cho thế gian, làm cho thế gian có các thiện đạo, có Phật bảo, Pháp bảo, Tăng bảo, có các giòng họ lớn. Nên khuyên các Thiên vương, Thiên tử nên cung kính cúng dường và bảo hộ các Bồ Tát này như cung kính cúng dường chư Phật. Vì vậy, Kinh MHBNBLMĐ mới gọi đoạn Kinh này là Tam thán nghĩa là tán thán ba thừa Thanh văn thừa, Độc giác thừa và Bồ Tát thừa đồng thời tán tụng những người thọ trì Bát nhã Ba la mật.

 

2. Đoạn giữa, Kinh nói:

 

Thọ trì Bát nhã Ba la mật là tổng trì tất cả 6 Ba la mật cho đến quả vị Giác ngộ tối cao. Còn đọc tụng, tinh cần tu học, như lý tư duy, sao chép, giảng giải, truyền bá rộng rãi, thì hiện pháp và hậu pháp của những vị ấy được công đức thù thắng. Nhưng, đại Bồ Tát ấy phải lấy đại bi làm tâm nguyện, lấy Nhất thiết trí trí làm đầu, dùng vô sở đắc làm phương tiện, luôn luôn kiên trì tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật, đồng thời đừng để chấp ngã, ngã sở làm nhiễu loạn sự an trụ. Nếu để ngã-ngã sở làm nhiễu loạn sự an trụ liền khởi tâm tự cao, nên chẳng có khả năng hồi hướng Nhất thiết trí trí.

Nếu tu và thực hành được như vậy thì có thể diệt trừ được “tham, sân, si, vô minh nhẫn đến những triền cái, kiết sử, nhóm khổ lớn, ngã kiến, nhơn kiến, chúng sanh kiến, đoạn kiến, thường kiến, cấu kiến, tịnh kiến, hữu kiến, vô kiến, xan tham, phạm giới, sân khuể(nóng giận), giải đãi, loạn ý, vô trí, thường tưởng, lạc tưởng, tịnh tưởng, ngã tưởng, chấp sắc, chấp thọ, tưởng, hành, thức, chấp bố thí Ba la mật nhẫn đến chấp Nhất thiết chủng trí, chấp Niết Bàn…”  

Phật ví Bát nhã Ba la mật: “Như có một loại thuốc hay tên là Mạc kỳ, công dụng cực mạnh của loại thuốc này, có thể tiêu trừ các thứ độc. Có rắn lớn đói đi tìm mồi, gặp loài sanh vật khác muốn mổ ăn, sinh vật ấy sợ chết chạy vào trong thuốc kia. Rắn nghe mùi thuốc liền trở lui. Vì tác dụng cực mạnh của loại thuốc Mạc kỳ có thể chế phục các độc, cứu được thân mạng. Nên biết công dụng to lớn đầy đủ của Bát nhã Ba la mật cũng lại như vậy. Vì sức oai thần to lớn đầy đủ của Bát Nhã này có khả năng xua tan các việc ác, làm tăng trưởng các điều thiện”.

Vì vậy, đoạn Kinh này có tên là “Diệt tránh”, diệt trừ được tất cả độc hại đồng thời có thể tránh được tất cả tai nạn bệnh tật rủi ro.

 

3. Đoạn Kinh sau cùng:

 

Còn đi xa hơn nữa khi Bát nhã Ba la mật được xem như “một vị thần hộ mệnh” đối với những người biên chép, thọ trì… Vì tất cả những ai được Bát Nhã bảo hộ đều có thể trừ được những thứ độc hại chết người thuộc về vật chất như thuốc độc, hầm lửa, nước sâu, ác thú, oán tặc, cung tên, dao mác, đao trượng… chẳng thể làm hại mà cả đến những tổn hại về tinh thần như dâm dục, sân khuể, ngu si, tà kiến, triền cấu, kiết sử… không thể xâm phạm được, đồng thời cũng có thể tự từ bỏ dao mác, đao trượng tham dục, sân nhuế, ngu si, ác kiến, triền cấu, tùy miên, ác nghiệp đồng thời có khả năng làm cho kẻ khác từ bỏ các thứ ác nghiệp kể trên.

Nên, Bát Nhã mới được xem là đại thần chú, đại minh chú, là vô thượng chú, vô thượng thưng chú, vô đẳng chú, vô đẳng đẳng chú, là vua của tất cả chú, vô thượng vi diệu không có gì bằng, có khả năng chế phục tất cả mà không bao giờ bị chế phục. Thiện nam, thiện nữ khi học đại chú vương Bát Nhã, chẳng thấy tất cả pháp, vì tất cả pháp vô sở đắc nên chẳng làm hại mình, chẳng làm hại người, chẳng làm hại cả hai. Chư Phật quá khứ học đại chú vương này đã được Vô thượng Bồ đề, hiện tại và vị lai chư Phật học đại minh chú này cũng được Vô thượng Bồ đề.

Hơn thế nữa Bát nhã Ba la mật được xem như cội Bồ đề, ai an trú trong ấy thì người chẳng phải người, ác ma không thể gia hại được. Vì nơi ấy chư Phật chứng Vô thượng Bồ đề, an lập vô lượng vô số chúng sanh trong diệu hạnh, chứng đắc các Thánh quả, nên chỗ ấy phải được xem như chơn bảo tháp.

Vì vậy, đoạn kinh này mới có tên là “Bảo Tháp Đại Minh”./.

 

---o0o---

 

 


 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567