Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

68. Phẩm "Các Tướng Công Đức" (Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu; Diễn đọc: Phật tử Quảng Tịnh; Lồng nhạc: Phật tử Quảng Phước)

28/07/202015:13(Xem: 8765)
68. Phẩm "Các Tướng Công Đức" (Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu; Diễn đọc: Phật tử Quảng Tịnh; Lồng nhạc: Phật tử Quảng Phước)

 

TỔNG LUẬN 

KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***

 
Phẩm Các Tướng Công Đức_photo

 

PHẨM  "CÁC TƯỚNG CÔNG ĐỨC"



Phần cuối quyển 379 cho đến phần đầu quyển 383, Hội thứ I, ĐBN(1).

(Tương đương với phần sau của phẩm “Tứ Nhiếp”,

tức phẩm mở đầu của quyển thứ 27, MHBNBLM)



Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu

Diễn đọc: Cư Sĩ Quảng Tịnh

Lồng nhạc: Cư Sĩ Quảng Phước






  

Gợi ý:

Phẩm này của cả hai Kinh ĐBN hay MHBNBLMĐ gói ghém tất cả pháp mầu Phật đạo, còn gọi là các thiện pháp, các diệu pháp, các pháp hy hữu, tư lương Bồ đề Bồ Tát hay Bồ Tát đạo… Phần thứ I Tổng luận đã giải thích cặn kẽ rồi, nay chỉ tóm lược thôi. ĐBN sở dĩ được gọi là bộ Bách khoa toàn thư của Phật đạo, không phải do liệt kê rộng rãi các pháp môn Phật học mà Kinh này cốt trình bày các pháp môn Phật học với mục đích luyện tâm luyện trí để giúp chúng sanh tu thân đồng thời tạo một thế giới thanh bình tươi đẹp và hạnh phúc. Muốn giải thoát, muốn chứng ngộ thì phải thọ trì tất cả các pháp môn hy hữu này, ngoài ra không còn pháp môn nào khác.

 

Tóm lược:

 

Có đại Bồ Tát hành Bát nhã Ba la mật an trụ trong báo đắc sáu Ba la mật, và an trụ trong báo đắc ngũ thần thông, ba mươi bảy phẩm trợ đạo, các Đà la ni, các vô ngại trí, đến cõi nước mười phương, có ai đáng dùng bố thí để độ thì dùng bố thí nhiếp hộ, có ai dùng trì giới để độ thì dùng trì giới nhiếp hộ, có ai đáng dùng nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ để độ thì dùng nhẫn nhục, tinh tấn v.v… nhiếp hộ. Có ai đáng dùng sơ thiền để độ thì dùng sơ thiền để nhiếp hộ. Có ai đáng dùng nhị thiền, tam thiền nhẫn đến phi phi tưởng xứ để độ thì tùy theo chỗ thích ứng mà nhiếp hộ. Có ai nên dùng từ, bi, hỉ, xả để độ thì dùng từ bi hỉ xả nhiếp hộ. Có ai nên dùng tứ niệm xứ, tứ chánh cần, tứ như ý túc, ngũ căn, ngũ lực, thất giác phần, bát Thánh đạo phần, các không tam muội, vô tướng, vô tác để độ thì theo chỗ thích ứng để nhiếp lấy.

Phật dùng Phật nhãn quán khắp vô lượng hằng hà sa thế giới trong mười phương, thấy các đại Bồ Tát dùng tứ nhiếp pháp, nhiếp hóa các hữu tình. Tứ nhiếp pháp đó là: Bố thí, ái ngữ, lợi hành và đồng sự để nhiếp hộ chúng sanh.

Đại Bồ Tát khi hành Bát nhã Ba la mật sâu xa, thường dùng các thứ vàng, bạc, ngọc báu, chơn châu, ma ni v.v... cho các hữu tình; hoặc dùng các thứ y phục, thức ăn uống, cung điện, lầu gác, phòng nhà, đồ nằm, xe cộ, hương hoa, đèn đuốc, kỹ nhạc, tràng phan, bảo cái, anh lạc v.v... cho các hữu tình; hoặc đem các loại như voi, ngựa, trâu, dê, lừa v.v… cho các hữu tình; hoặc đem các loại tài vật kho tàng, thành ấp, xóm làng và ngôi vua cho các hữu tình; hoặc đem các bộ phận thân thể như tay, chân, lóng đốt, đầu, mắt, tủy, não cho các hữu tình. Đại Bồ Tát ấy, đem các thứ đồ vật đặt ở ngã tư đường, lên trên đài cao, loan báo thế này: Tất cả hữu tình, có cần vật gì, tự do tới lấy chớ sanh nghi mạn, như lấy của mình chớ nghĩ gì khác.

Bồ Tát dùng một trong bốn nhiếp pháp nhiếp hộ hữu tình xong, lại khuyên hữu tình tu các pháp thế gian và xuất thế gian:

 

1. Các pháp thế gian:

 

- Quy y tam bảo: Phật Pháp Tăng:

- Hoặc khuyên thọ trì năm giới cận sự;

- Hoặc khuyên thọ trì tám giới cận trụ;

- Hoặc khuyên thọ trì mười thiện nghiệp đạo;

- Hoặc khuyên tu hành sơ tĩnh lự;

- Hoặc khuyên tu hành tứ vô lượng tâm: Từ vô lượng, bi vô lượng, h vô lượng và xả vô lượng. Bốn tâm này dùng đối trị 4 phiền não là sân hận, ganh tị, buồn phiền và tham dục;

- Hoặc khuyên tu tứ định vô sắc: Không vô biên xứ, thức vô biên xứ, vô sở hữu xứ, phi tưởng phi phi tưởng xứ;

- Hoặc khuyên tu hành Phật tùy niệm, Pháp tùy niệm, Tăng tùy niệm, giới tùy niệm, xả tùy niệm, thiên tùy niệm;

- Hoặc khuyên tu quán bất tịnh;

- Hoặc khuyên tu quán sổ tức (đếm hơi thở):

- Hoặc khuyên tu hành tưởng vô thường, tưởng khổ, tưởng vô ngã, tưởng bất tịnh, tưởng nhàm ăn, tưởng tất cả thế gian chẳng đáng vui, tưởng chết, tưởng dứt, tưởng lìa, tưởng diệt.(2)

 

2. Các pháp xuất thế gian:

 

- Hoặc khuyên tu hành ba mươi bảy pháp trợ đạo: Bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi và tám Thánh đạo chi:

“Này Thiện Hiện! Thế nào gọi là bốn niệm trụ?

Này Thiện Hiện! Đó là đối với nội thân, an trụ quán theo thân; đối với ngoại thân, an trụ quán theo thân, đối với nội ngoại thân, an trụ quán theo thân, đầy đủ chánh cần, chánh tri, chánh niệm, trừ tham ái ở đời, an trụ thân, quán tập; an trụ thân, quán diệt, do đó đối với thân, an trụ quán theo thân; an trụ thân, quán tập; an trụ thân, quán diệt, không có chỗ tựa, đối với các pháp thế gian, không có sự chấp thọ, đó là thứ nhất. Đối với nội thọ, an trụ quán theo thọ; đối với ngoại thọ, an trụ quán theo thọ; đối với nội ngoại thọ, an trụ quán theo thọ, đầy đủ chánh cần, chánh tri, chánh niệm, trừ tham ái ở đời, an trụ thọ, quán tập; an trụ thọ, quán diệt; do đó đối với thọ, an trụ quán theo thọ; an trụ thọ, quán tập; an trụ thọ, quán diệt, không có chỗ tựa, đối với các pháp thế gian, không có sự chấp thọ, đó là thứ hai. Đối với nội tâm, an trụ quán theo tâm; đối với ngoại tâm, an trụ quán theo tâm; đối với nội ngoại tâm, an trụ quán theo tâm, đầy đủ chánh cần, chánh tri, chánh niệm, trừ tham ái ở đời, an trụ tâm, quán tập; an trụ tâm, quán diệt, do đó đối với tâm, an trụ quán theo tâm; an trụ tâm, quán tập; an trụ tâm, quán diệt, không có chỗ tựa, đối với các pháp thế gian, không có sự chấp thọ, đó là thứ ba. Đối với nội pháp, an trụ quán theo pháp; đối với ngoại pháp, an trụ quán theo pháp, đối với nội ngoại pháp, an trụ quán theo pháp, đầy đủ chánh cần, chánh tri, chánh niệm, trừ tham ái ở đời, an trụ pháp, quán tập; an trụ pháp, quán diệt, do đó đối với pháp, an trụ quán theo pháp; an trụ pháp, quán tập; an trụ pháp, quán diệt, không có chỗ tựa, đối với các pháp thế gian, không có sự chấp thọ, đó là thứ tư. Đó gọi là bốn niệm trụ”.

Này Thiện Hiện! Thế nào gọi là bốn chánh đoạn?

Này Thiện Hiện! Vì khiến cho các pháp ác bất thiện chưa sanh, chẳng sanh, nên khởi phát ý muốn siêng năng tinh tấn, cảnh tĩnh tâm, giữ tâm, đó là thứ nhất. Vì khiến pháp ác bất thiện đã sanh đoạn diệt, nên phát khởi ý muốn siêng năng tinh tấn, cảnh tĩnh tâm, giữ tâm, đó là thứ hai. Vì khiến pháp thiện chưa sanh được sanh nên phát khởi ý muốn siêng năng tinh tấn, cảnh tỉnh tâm, giữ tâm, đó là thứ ba. Vì khiến pháp thiện đã sanh đứng vững chẳng mất, tu và tác chứng trí làm cho đầy đủ tăng trưởng rộng lớn, nên phát khởi ý muốn siêng năng tinh tấn, cảnh tnh tâm, giữ tâm, đó là thứ tư. Đó là bốn chánh đoạn(3).

 

Này Thiện Hiện! Thế nào là bốn thần túc?

Này Thiện Hiện! Dục tam ma địa trọn nên đoạn hành (do ước mong thành tựu tam ma địa nên đoạn được hành), tu tập thần túc, nương dựa nhàm, nương dựa lìa, nương dựa diệt, hồi hướng về xả, đấy là thứ nhất. Cần tam ma địa trọn nên đoạn hành (do chuyên cần tu tập tam ma địa tròn đầy nên đoạn hành), tu tập thần túc, nương dựa nhàm, nương dựa lìa, nương dựa diệt, hồi hướng về xả, đấy là thứ hai. Tấn tam ma địa trọn nên đoạn hành (do tinh tấn tu tập tam ma địa thành tựu), tu tập thần túc, nương dựa nhàm, nương dựa lìa, nương dựa diệt, hồi hướng về xả, đấy là thứ ba. Quán tam ma địa trọn nên đoạn hành (do tư duy tam ma địa đầy đủ nên đoạn được hành), tu tập thần túc, nương dựa nhàm, nương dựa lìa, hồi hướng về xả, đấy là thứ tư. Đó gọi là bốn thần túc.

 

Này Thiện Hiện! Những gì gọi là năm căn?

Này Thiện Hiện! Tín căn, tinh tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn. Đó là năm căn.

 

Này Thiện Hiện! Những gì là năm lực?

Này Thiện Hiện! Tín lực, tinh tấn lực, niệm lực, định lực, tuệ lực. Đó gọi là năm lực.

 

Này Thiện Hiện! Những gì gọi là bảy giác chi?

Này Thiện Hiện! Niệm đẳng giác chi, trạch pháp đẳng giác chi, tinh tấn đẳng giác chi, hỷ đẳng giác chi, khinh an đẳng giác chi, định đẳng giác chi, xả đẳng giác chi. Đó gọi là bảy chi đẳng giác.

 

Này Thiện Hiện! Những gì gọi là tám chi Thánh đạo?

Này Thiện Hiện! Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Đó gọi là tám chi Thánh đạo.

- Hoặc khuyên tu hành tam gii thoát môn: Không, vô tướng, vô nguyện ;

- Hoặc khuyên tu hành tám giải thoát;

- Hoặc khuyên tu hành tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ.

- Hoặc khuyên tu hành thập Ba la mật: Bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát Nhã, phương tiện xảo, nguyện, lực, trí Ba la mật;

- Hoặc khuyên an trụ khổ Thánh đế, hoặc khuyên an trụ tập, diệt, đạo Thánh đế.

- Hoặc khuyên an trụ 18 pháp không: Nội không, ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không;

- Hoặc khuyên an trụ chơn như hoặc khuyên an trụ pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới;

- Hoặc khuyên tu hành tất cả Đà la ni môn, Tam ma địa môn;

- Hoặc khuyên tu hành Bồ Tát thập địa: Cực hỷ địa, Ly cấu địa, Phát quang địa, Diệm huệ địa, Cực nan thắng địa, Hiện tiền địa, Viễn hành địa, Bất động địa, Thiện huệ địa, Pháp vân địa;

- Hoặc khuyên tu hành năm nhãn: 1. Nhục nhãn, 2. Thiên nhãn, 3. Huệ nhãn, 4. Pháp nhãn, 5. Phật nhãn;

- Hoặc khuyên tu hành sáu thần thông: 1. Thần túc thông, 2. Thiên nhĩ thông, 3. Tha tâm thông, 4. Túc mệnh thông, 5. Thiên nhãn thông, 6. Lậu tận thông;

- Hoặc khuyên tu hành Như lai mười lực: 1: Tri thị xứ phi xứ trí lực; 2: Tri tam thế nghiệp báo trí lực; 3: Tri chư thiên giải thoát tam muội trí lực; 4: Tri chúng sanh tâm tánh trí lực; 5: Tri chủng chủng giải trí lực; 6: Tri chủng chủng giới trí lực; 7: Tri nhất thiết sở đạo trí lực; 8: Tri thiên nhãn vô ngại trí lực; 9: Tri túc mạng vô lậu trí lực; 10: Tri vĩnh đoạn tập khí trí lực;

- Hoặc khuyên tu hành bốn vô sở úy: 1. Nhất thiết trí vô sở úy, 2. Lậu tận vô sở úy, 3. Thuyết chướng đạo vô sở úy, 4. Thuyết tận khổ đạo vô sở úy;

- Bốn trí vô ngại: Pháp vô ngại trí, nghĩa vô ngại trí, từ vô ngại trí và lạc thuyết vô ngại trí;

- Đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả;

- Mười tám pháp Phật bất cộng là mười tám pháp chỉ đấng Như Lai mới có, A la hán và Duyên giác không có, cũng gọi là Thập bát bất cụ pháp, gồm: 1- Thân vô thất (Thân không có lỗi), 2- Khẩu vô thất (Lời nói không có lỗi), 3- Niệm vô thất (Ý tưởng không có lỗi), 4- Vô dị tưởng (Không có tư tưởng khác biệt), 5- Vô bất định tâm (Tâm thường an định), 6- Vô bất tri dĩ xả (Rõ biết tất cả mọi chuyện nhưng đều buông bỏ), 7- Dục vô diệt (Lòng mong muốn cứu độ chúng sanh không dứt mất), 8- Tinh tấn vô diệt (Sự tinh tấn cứu độ chúng sanh không dứt mất), 9- Niệm vô diệt (Đối với Chánh pháp của ba đời chư Phật, tất cả trí tuệ đều đầy đủ, không có sự thối chuyển), 10- Huệ vô diệt (Trí tuệ đầy đủ không cùng tận), 11- Giải thoát vô diệt (Có đủ hai loại giải thoát là giải thoát hữu vi và giải thoát vô vi, dứt trừ hoàn toàn mọi phiền não), 12- Giải thoát tri kiến vô diệt (Đối với Giải thoát tri kiến trí tuệ sáng suốt, phân biệt vô ngại), 13- Nhất thiết thân nghiệp tùy trí tuệ hành (Hết thảy nghiệp của thân được thực hành theo trí tuệ), 14- Nhất thiết khẩu nghiệp tùy Trí tuệ hành (Hết thảy nghiệp của lời nói được thực hành theo trí tuệ), 15- Nhất thiết ý nghiệp tùy trí tuệ hành (Hết thảy nghiệp của ý được thực hành theo trí tuệ), 16- Trí tuệ tri quá khứ thế vô ngại (Trí tuệ rõ biết đời quá khứ không ngăn ngại), 17- Trí tuệ tri vị lai thế vô ngại (Trí tuệ rõ biết đời vị lai không ngăn ngại), 18- Trí tuệ tri hiện tại thế vô ngại (Trí tuệ rõ biết đời hiện tại không ngăn ngại);

- Hoặc khuyên tu hành pháp vô vong thất;

- Hoặc khuyên tu hành tánh hằng trụ xả;

- Hoặc khuyên tu hành Nhất thiết trí; hoặc khuyên tu hành Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí;

- Hoặc khuyên tu hành ba mươi hai tướng đại sĩ;

- Hoặc khuyên tu hành tám mươi tướng tùy hảo;

- Hoặc khuyên tu hành quả Dự lưu; quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề;

- Hoặc khuyên tu hành tất cả Bồ Tát hạnh;

- Hoặc khuyên tu hành quả vị Giác ngộ tối cao.

Tất cả các thiện pháp vô lậu nêu trên đều gọi là Thánh pháp xuất thế gian. (Q. 380, ĐBN)

 

(Tất cả pháp tu thế gian và Thánh pháp xuất thế gian dưới chương mục của phẩm này mà Đức Phật gọi chung là các thiện pháp, các pháp mầu Phật đạo, các pháp cực kỳ hi hữu, tư lương Bồ đề Bồ Tát hay Bồ Tát đạo, còn gọi là các pháp thực tu thực chứng... được Kinh nhắc đi nhắc lại hàng trăm, hàng ngàn lần trong suốt từ đầu tới cuối đại phẩm này. Vì tánh cách quan trọng của nó trong viêc tu tập và hành trì nên chúng tôi phải tách riêng ra và đúc kết thành một phần riêng biệt gọi là phần thứ I Tổng luận, một trong ba phần chính của thiên Tổng luận này. Tới đây, chúng tôi nghĩ quý vị độc giả có thể thầm hiểu bố cục của thiên Tổng luận. Vậy, xin quý vị có thể quay lại phần thứ I tham khảo nếu có thắc mắc).

 

1- Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu tự tánh của tất cả pháp, tất cả hữu tình rốt ráo đều chẳng thể nắm bắt được; thì tại sao đại Bồ Tát phải tu hành lục Ba la mật? Tại sao đại Bồ Tát phải tu hành bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc? Tại sao đại Bồ Tát phải tu hành ba mươi bảy pháp trợ đạo, mười tám pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao?

- Bạch Thế Tôn! Tất cả hữu tình đều chẳng thể nắm bắt được; sự an lập(4) của hữu tình cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì tất cả hữu tình chẳng thể nắm bắt được nên sắc chẳng thể nắm bắt được; thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì tất cả hữu tình chẳng thể nắm bắt được nên mười hai xứ, mười tám giới chẳng thể nắm bắt được. Vì tất cả hữu tình chẳng thể nắm bắt được, nên mười hai nhân duyên chẳng thể nắm bắt được. Vì tất cả hữu tình chẳng thể nắm bắt được nên bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì tất cả hữu tình chẳng thể nắm bắt được nên tứ thiền, tứ định vô sắc, ba mươi bảy pháp trợ đạo, mười tám pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì tất cả hữu tình chẳng thể nắm bắt được nên ba mươi hai tướng Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc cũng chẳng thể nắm bắt được.

- Bạch Thế Tôn! Trong cái chẳng thể nắm bắt được; không có hữu tình, không có sự an lập hữu tình; không có sắc, không có sự an lập sắc, không có thọ, tưởng, hành, thức, không có sự an lập thọ, tưởng, hành, thức; không có mười hai xứ, không có mười tám giới, không có sự an lập mười hai xứ, mười tám giới; nói chung không có tất cả pháp Phật, cũng không có sự an lập tất cả pháp Phật.

- Bạch Thế Tôn! Tất cả hữu tình, pháp và sự an lập đều bất khả đắc, đều vô sở hữu, đại Bồ Tát làm sao khi hành Bát nhã Ba la mật thậm thâm vì các hữu tình tuyên nói các pháp? Đừng cho rằng đại Bồ Tát tự an trụ pháp bất chánh, vì các hữu tình nói pháp bất chánh, khuyên các hữu tình an trụ pháp bất chánh, dùng pháp điên đảo an lập hữu tình. Vì sao? Vì đại Bồ Tát khi hành Bát Nhã chẳng đắc Bồ đề, huống có Bồ đề pháp có thể đắc, chẳng đắc đại Bồ Tát, huống là có pháp đại Bồ Tát để có thể đắc?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như ông đã nói. Tất cả hữu tình đều bất khả đắc, sự an lập hữu tình cũng bất khả đắc. Tất cả pháp đều bất khả đắc, sự an lập tất cả pháp cũng bất khả đắc. Do bất khả đắc, nên hoàn toàn vô sở hữu. Vì vô sở hữu nên biết nội không, nên biết ngoại không, nội ngoại không… cho đến vô tánh tự tánh cũng không. Nên biết chơn như không, nên biết pháp giới, pháp tánh, bình đẳng tánh, ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế… cũng không. Nên biết Thánh đế khổ không, nên biết Thánh đế tập, diệt, đạo cũng không. Nên biết sắc không, nên biết thọ, tưởng, hành, thức không. Nên biết mười hai xứ, mười tám giới không. Nên biết tứ thiền bát định, 18 pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao cũng không. Nên biết nghiêm tịnh tất cả cõi Phật không, nên biết thành thục hữu tình cũng không. Nên biết ba mươi hai tướng Đại sĩ không, nên biết tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc cũng không.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát khi hành Bát nhã Ba la mật thậm thâm, thấy tất cả pháp đều không rồi, vì các hữu tình tuyên thuyết các pháp, khiến lìa điên đảo; tuy vì hữu tình tuyên thuyết các pháp nhưng đối với hữu tình hoàn toàn không có sở đắc, đối với tất cả pháp cũng không có sở đắc, đối với các tướng không chẳng tăng, chẳng giảm, không thủ, không xả. Do nhân duyên ấy, tuy thuyết các pháp nhưng không có sở thuyết.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát ấy, đối với tất cả pháp khi quán như thế, chứng được vô chướng ngại trí. Do trí này nên chẳng hoại các pháp, không phân biệt hai, vì các hữu tình như thật tuyên thuyết, khiến lìa chấp trước vọng tưởng điên đảo, tùy theo căn cơ mà đạt quả tam thừa. (Q.381, ĐBN)

 

2- Lại nữa, Thiện Hiện! Thí dụ có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hóa thành một hóa Phật, rồi vị hóa Phật này lại có thể hóa làm vô lượng trăm ngàn triệu ức chúng sanh. Khi ấy, vị hóa Phật kia khuyên bảo răn dạy số chúng sanh đã hóa ra ấy hoặc tu hành bố thí Ba la mật, hoặc tu hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự hoặc Bát Nhã, hoặc tu hành tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, ba mươi bảy pháp trợ đạo, mười tám pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao, thì khi ấy vị hóa Phật và chúng sanh được hóa ra đối với các pháp có phân biệt, có phá hoại các pháp được chăng?

Thiện Hiện đáp:

- Bạch Thế Tôn! Không! Bạch Thiện Thệ! Không! Dĩ nhiên, người được biến hóa không thể phân biệt được!

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Do nhân duyên đây phải biết đại Bồ Tát cũng lại như thế. Hành Bát nhã Ba la mật thậm thâm, vì các hữu tình như thật thuyết pháp dù chẳng phân biệt phá hoại pháp tướng mà năng như thật an lập hữu tình, khiến kia an trụ ở bậc nên trụ; tuy đối với hữu tình và tất cả pháp hoàn toàn chẳng thể nắm bắt được nhưng khiến hữu tình giải thoát vọng tưởng điên đảo chấp trước, lấy bản tánh không buộc không mở của các pháp làm phương tiện vậy. Vì sao? Vì bản tánh sắc không buộc không mở. Bản tánh thọ, tưởng, hành, thức cũng không buộc mở. Nếu bản tánh của sắc không buộc không mở thời chẳng phải sắc; nếu bản tánh thọ, tưởng, hành, thức không buộc không mở thời chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Vì sắc cho đến thức rốt ráo tịnh vậy. (Q. 381, ĐBN)

- Này Thiện Hiện! Bản tánh của mười hai xứ, mười tám giới không buộc không mở; bản tánh của tất cả pháp Phật từ hành tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, ba mươi bảy pháp trợ đạo, mười tám pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao cũng không buộc không mở. Nếu bản tánh của tất cả pháp Phật không buộc không mở thì chẳng phải là tất cả pháp Phật. Vì sao? Vì mười hai xứ, mười tám giới cho đến tất cả pháp Phật rốt ráo thanh tịnh vậy.

Nên Kinh nói: “Bản tánh của pháp thế gian không buộc không mở, bản tánh của pháp xuất thế gian cũng không buộc không mở; bản tánh của pháp thế gian không buộc không mở thì chẳng phải là pháp thế gian, bản tánh của pháp xuất thế gian không buộc không mở thì chẳng phải là pháp xuất thế gian. Vì sao? Vì pháp thế gian, pháp xuất thế gian rốt ráo thanh tịnh”. (Q.382, ĐBN)

 

3- Này Thiện Hiện! Như vậy, Đại Bồ Tát khi hành Bát nhã Ba la mật thậm thâm, tuy vì hữu tình tuyên thuyết các pháp nhưng đối với hữu tình và các pháp tánh hoàn toàn không có sở đắc. Vì sao? Vì các hữu tình và tất cả pháp chẳng thể nắm bắt được.

- Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ Tát khi hành Bát nhã Ba la mật thậm thâm, lấy vô sở trụ làm phương tiện, nên an trụ trong cái vô sở đắc của tất cả pháp, nghĩa là lấy vô sở trụ làm phương tiện nên không an trụ ở sắc, không an trụ ở thọ, tưởng, hành, thức; không an trụ ở mười hai xứ, mười tám giới; không an trụ ở tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, ba mươi bảy pháp trợ đạo, mười tám pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến không an trụ kể cả quả vị Giác ngộ tối cao.

- Này Thiện Hiện! Sắc vô sở trụ, thọ tưởng hành thức cũng vô sở trụ, tất cả pháp cũng đều vô sở trụ. Sắc không vô sở trụ; thọ tưởng hành thức không vô sở trụ, tất cả pháp không cũng vô sở trụ. Vì sao? Vì sắc vô tự tánh bất khả đắc, thọ tưởng hành thức vô tự tánh bất khả đắc; tất cả pháp vô tự tánh bất khả đắc. Sắc không vô tự tánh bất khả đắc, thọ tưởng hành thức không cũng vô tự tánh bất khả đắc; tất cả pháp không vô tự tánh bất khả đắc. Vì chẳng phải tất cả pháp không, vô tự tánh, bất khả đắc mà có chỗ trụ vậy.

Trụ chỗ vô sở trụ mới gọi là chính trụ

Pháp thế gian vô sở trụ, pháp xuất thế gian cũng vô sở trụ. Pháp thế gian không vô sở trụ, pháp xuất thế gian không cũng vô sở trụ. Vì sao? Vì pháp thế gian vô tự tánh bất khả đắc, pháp xuất thế gian cũng vô tự tánh bất khả đắc. Rồi chính pháp thế gian không, vô tự tánh bất khả đắc, pháp xuất thế gian không cũng vô vô tự tánh bất khả đắc. Chẳng phải tất cả pháp, pháp không, pháp vô tự tánh bất khả đắc mà có chỗ trụ vậy. Trụ chỗ vô sở trụ mới gọi là trụ!

- Này Thiện Hiện! Chẳng phải pháp vô tánh trụ pháp vô tánh, chẳng phải pháp hữu tánh trụ pháp hữu tánh. Chẳng phải pháp tự tánh trụ pháp tự tánh, chẳng phải pháp tha tánh trụ pháp tự tánh, chẳng phải pháp tự tánh trụ pháp tha tánh. Vì sao? Vì tất cả pháp này đều bất khả đắc. Pháp bất khả đắc trụ ở đâu? Như vậy, đại Bồ Tát khi hành Bát nhã Ba la mật như thế, đem cái “Không” này mà tu khiển các pháp, rồi như thật chỉ dạy cho chúng hữu tình.

- Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát thường hành Bát nhã Ba la mật thậm thâm như thế, đối Phật, Bồ Tát, Độc giác, Thanh văn, tất cả Thánh chúng đều không có lỗi. Vì sao? Chư Phật, Bồ Tát, Độc giác, Thanh văn, tất cả Thánh chúng đối pháp tánh này đều năng tùy giác. Đã tùy giác rồi, vì các hữu tình tuyên nói không trái. Tuy vì các hữu tình tuyên nói các pháp mà đối pháp tánh không chuyển không vượt. Vì sao? Vì thật tánh các pháp tức chơn như, pháp giới. Chơn như, pháp giới như thế đều chẳng khá chuyển khá vượt. Vì sao? Vì chơn như, pháp giới như thế đều vô tự tánh thì làm thế nào có chuyển có vượt được?

 

4- Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu chơn như, pháp giới chân thật không chuyển, không vượt thì sắc cùng với chơn như, pháp giới có khác chăng? Thọ, tưởng, hành, thức cùng với chơn như, pháp giới có khác chăng? Mười hai xứ, mười tám giới cùng với chơn như, pháp giới có khác chăng? Tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, mười tám pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao cùng với chơn như, pháp giới có khác chăng? Pháp thế gian cùng với chơn như, pháp giới có khác chăng? Pháp xuất thế gian cùng với chơn như, pháp giới có khác chăng?

Phật dạy:

- Không! Sắc chẳng khác chơn như, pháp giới; thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng khác chơn như, pháp giới; mười hai xứ, mười tám giới cũng chẳng khác chơn như, pháp giới; tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, mười tám pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao chẳng khác chơn như, pháp giới; pháp thế gian chẳng khác chơn như, pháp giới; pháp xuất thế gian cũng chẳng khác chơn như, pháp giới.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu sắc chẳng khác chơn như, pháp giới; thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng khác chơn như, pháp giới; nếu mười hai xứ, mười tám giới chẳng khác chơn như, pháp giới; nếu mười hai xứ, mười tám giới cũng chẳng khác chơn như, pháp giới v.v… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao chẳng khác chơn như, pháp giới; nếu pháp thế gian chẳng khác chơn như, pháp giới; nếu pháp xuất thế gian cũng chẳng khác chơn như, pháp giới, thì làm sao Thế Tôn an lập hắc pháp xấu xa, chiêu cảm quả báo mà bị rơi vào địa ngục hay đầu thai thành súc sanh, quỷ giới; thì làm sao Thế Tôn an lập bạch pháp(5) tốt đẹp để được hưởng phước báo, sanh trong cõi người trời…?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Căn cứ vào tục đế an lập nhân quả sai biệt như thế, chẳng căn cứ vào thắng nghĩa; trong thắng nghĩa đế, chẳng thể nói có nhân quả sai biệt. Vì sao? Vì trong thắng nghĩa, tất cả pháp tánh (tánh tất cả pháp) chẳng thể phân biệt, vô thuyết vô thị (không thuyết, không chỉ), làm sao có nhân quả sai khác được.

- Này Thiện Hiện! Trong thắng nghĩa đế, sắc không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; thọ, tưởng, hành, thức cũng không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, vì tất cánh không(6), vô tế không(7); trong thắng nghĩa đế, mười hai xứ, mười tám giới không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, vì tất cánh không, vô tế không; trong thắng nghĩa đế, cho đến tất cả pháp Phật cũng không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, vì tất cánh không, vô tế không; trong thắng nghĩa đế, pháp thế gian, pháp xuất thế gian, pháp hữu lậu, pháp vô lậu, pháp hữu vi, pháp vô vi cũng không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, vì tất cánh không, vô tế không.

“Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu y cứ vào tục đế, an lập nhân quả sai biệt, chẳng y cứ vào thắng nghĩa đế thì tất cả phàm phu ngu si đáng lẽ đều là Dự lưu, hoặc đáng lẽ có quả Nhất lai, quả Bất hoàn, quả A la hán, hoặc quả vị Độc giác, hay quả vị Giác ngộ tối cao?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Theo ý ông: Tất cả phàm phu ngu si thật biết thế tục và thắng nghĩa đế chăng? Nếu như thật biết thì đáng lẽ họ là Dự lưu, đáng lẽ có quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, hoặc quả vị Độc giác, hay quả vị Giác ngộ tối cao. Nhưng các phàm phu ngu si chẳng thật biết thế tục và thắng nghĩa đế, không biết Thánh đạo, không tu Thánh đạo thì làm sao họ được Thánh quả sai biệt? Chỉ bậc Thánh có khả năng như thật biết thế tục và thắng nghĩa đế, biết có Thánh đạo, có tu Thánh đạo. Vì vậy, mới đắc Thánh quả sai biệt.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu tu Thánh đạo thì có đắc Thánh quả chăng?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Không! Chẳng phải tu Thánh đạo có thể đắc Thánh quả, cũng chẳng phải chẳng tu Thánh đạo có thể đắc Thánh quả, chẳng phải lìa Thánh đạo có thể đắc Thánh quả, cũng chẳng phải trụ trong Thánh đạo có thể đắc Thánh quả. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì trong thắng nghĩa đế, đạo và đạo quả chẳng thể nắm bắt được. (Q.383, ĐBN)

Này Thiện Hiện! Như thế, đại Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã thậm thâm, tuy vì hữu tình an lập Thánh quả có nhiều bậc sai biệt, mà chẳng phân biệt Thánh quả như thế ở cảnh giới hữu vi hay cảnh giới vô vi an lập sai khác.

- Bạch Thế Tôn! Nếu chẳng phân biệt Thánh quả như thế ở cảnh giới hữu vi hoặc cảnh giới vô vi mà an lập sai biệt thì tại sao Thế Tôn nói dứt ba gút(8) gọi quả Dự lưu, mỏng dục tham sân gọi quả Nhất lai, dứt thuận hạ phần(9) năm gút gọi quả Bất hoàn, dứt thuận thượng phần(10) năm gút gọi là A la hán, khiến bao nhiêu pháp nhóm đều thành pháp diệt gọi là Độc giác Bồ đề, dứt hẳn tất cả tập khí nối nhau gọi là Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề? Vậy, làm sao con biết nghĩa Phật đã nói là chẳng phân biệt Thánh quả như thế ở cảnh giới hữu vi hoặc cảnh giới vô vi mà an lập sai biệt?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Theo ý ông: Các Thánh quả đã nói là quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, quả vị Độc giác, quả vị Giác ngộ tối cao, như thế là Thánh quả hữu vi hay là Thánh quả vô vi?

Thiện Hiện đáp:

- Thánh quả như thế đều là vô vi, chẳng phải là hữu vi.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Trong pháp vô vi, có phân biệt chăng?

Thiện Hiện đáp:

- Bạch Thế Tôn! Không! Bạch Thiện Thệ! Không!

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Nếu thiện nam thiện nữ thông đạt tất cả hữu vi, vô vi đều đồng một tướng, đó là vô tướng, thì thiện nam thiện nữ ấy, ngay lúc đó, đối với các pháp có phân biệt đây là hữu vi, hoặc vô vi chăng?

Thiện Hiện đáp:

- Bạch Thế Tôn! Không! Bạch Thiện Thệ! Không!

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát cũng lại như thế, khi hành Bát Nhã thậm thâm, tuy vì hữu tình tuyên thuyết các pháp nhưng chẳng phân biệt pháp tướng đã thuyết, đó là pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, hoặc pháp không không… cho đến pháp không không tánh tự tánh.

- Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát ấy, đối với các pháp không có chấp trước, cũng luôn dạy người đối với các pháp không chấp trước, đó là đối với bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã hoặc đối với tứ thiền tứ định, ba mươi bảy pháp trợ đạo; mười tám pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao, đều không chấp trước. Vì không chấp trước nên đối với tất cả xứ đều được vô ngại. Như hóa Phật mà chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hóa ra, tuy hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã được đắc quả, nhưng đối với quả ấy chẳng thọ, chẳng trước, chỉ vì hữu tình ban Niết bàn; tuy hành tất cả các thiện pháp, nhưng đối với các quả do tu hành mà được, cũng chẳng thọ, chẳng trước, chỉ vì hữu tình mà ban Niết bàn.

- Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát cũng giống như thế, khi hành Bát Nhã thậm thâm đối với tất cả pháp hoặc thế gian hoặc xuất thế gian, hoặc hữu lậu hoặc vô lậu, hoặc hữu vi hoặc vô vi... đều vô sở trụ, vô chướng ngại. Vì sao? Vì hoàn toàn như đạt thật tướng của tất cả pháp vậy”. (Q. 383, ĐBN)

 

Thích nghĩa:

(1). Theo bản dịch ĐBN đã củ soát đăng trong thuvienhoasen.org thì phẩm “Các Tướng Công Đức” bắt đầu từ cuối quyển thứ 379. Còn theo tuvienquangduc.com thì phẩm “Các Tướng Công Đức” bắt đầu từ quyển 380. Nếu theo bản gốc bằng chữ Hán đăng trong hoavouu.com thì bản c soát trong thuvienhoasen.org theo đúng bản chữ Hán hơn. Sở dĩ, hai bản dịch có sai khác như vậy là vì bản gốc bằng chữ Hán không phân chia rõ ràng như cách trình bày theo Tây Âu ngày nay. Chúng tôi phần lớn tóm lược Kinh này, lấy bản đã củ soát trong thuvienhoasen.org hay quangduc.com hay bản gốc trong tuvienquangduc.com phối hợp tham chiếu, nếu có thắc mắc thì chúng tôi tham thảo thêm bản chữ Hán. Tuy nhiên, xin độc giả đừng quá chú trọng vào hình thức mà quên đi ý kinh. Nói như vậy cũng không đúng lắm, vì nếu chiết giảng một phẩm mà cắt đầu thêm đuôi, lẫn lộn quyển nọ với quyển kia, thì sẽ làm sai lạc ý Kinh. Chúng tôi, người tóm lược và chiết giải Kinh phải có bổn phận trình bày cho đúng với Kinh sách để khỏi bị thất thố.

(2). Thập tưởng: (十想) Chỉ cho 10 tư tưởng hoặc 10 điều phải quán tưởng. Đó là: 1- Vô thường tưởng: Quán xét tất cả các pháp hữu vi luôn luôn sinh diệt, vô thường biến hoại. 2- Khổ tưởng: Quán xét tất cả pháp hữu vi là vô thường, luôn bị 3 khổ, 8 khổ bức bách. 3- Vô ngã tưởng: Quán tưởng tất cả pháp là khổ, cũng không tự tại, đều do nhân duyên sinh và không có tự tính, cho nên là vô ngã. 4- Thực bất tịnh tưởng: Quán tưởng tất cả thức ăn uống của thế gian đều từ các nhân duyên nhơ nhớp sinh ra, tất thảy là vật bất tịnh. 5- Nhất thiết thế gian bất khả lạc tưởng: Quán tưởng tất cả thế gian không có một điều gì là vui thú, chỉ toàn là tội lỗi, xấu ác. 6- Tử tưởng: Quán tưởng về cái chết. 7- Bất tịnh tưởng: Quán tưởng 36 vật bên trong thân con người và 9 cái lỗ ở ngoài thân đều bài tiết ra những thứ hôi thối, nhớp nhúa. 8- Đoạn tưởng. 9- Ly dục tưởng. 10- Tận tưởng. Ba tưởng sau cùng là quán tưởng được Bồ đề niết bàn, đoạn trừ phiền não, lìa bỏ cõi mê sống chết và dứt hết hoặc nghiệp sinh tử. Về sự đồng dị giữa Thập tưởng và Cửu tướng quán (tức Cửu tưởng, là 9 pháp quán bất tịnh về xác chết của con người nhằm diệt trừ tham dục) thì luận Đại trí độ quyển 21 có nêu ra nhiều thuyết. Có thuyết cho rằng Cửu tướng quán chưa được thiền định, vẫn còn bị dâm dục ngăn che, còn Thập tưởng thì có năng lực diệt trừ 3 độc như dâm dục... Hoặc cho rằng Cửu tướng quán là sơ học, còn Thập tưởng là thành tựu. Hoặc có thuyết chủ trương Thập tưởng và Cửu tướng quán đồng là lìa dục, đều là Niết bàn. Cũng có thuyết cho rằng Cửu tướng quán là nhân, còn Thập tưởng là quả. Lại có thuyết chủ trương Cửu tướng quán là môn ngoài, mà Thập tưởng là môn trong. [X. Kinh Đại phẩm Bát Nhã Q.1; Đại thừa nghĩa chương Q.14]- Phật Quang từ điển.

Người xưa lắm lời nhiều ý quá, nhiều khi độc giả chẳng khác nào người câm ăn phải mướp đắng, hậu bối có bao giờ nghĩ cặn kẽ như thế đâu! TB

(3). Bốn niệm trụ và bốn chánh đoạn: Vì hai pháp tu này thường lẫn lộn, khó nhớ nên chúng tôi ghi lại nguyên văn của Kinh ĐBN, để lưu ý độc giả!

(4). An lập: (安立) Tức là bày đặt các nghĩa sai biệt. Cũng tức là dùng lời nói, danh tướng để phân biệt các sự vật khác nhau. Trái lại là phi an lập. Phi an lập là vượt lên trên sự sai biệt tương đối, không dùng lời nói và danh tướng để bày tỏ. Duy Thức Nhị Thập Luận Thuật Ký quyển thượng có nêu lên bốn nghĩa an lập, tức là: 1- An trí, là đối với sự lý đã tồn tại, thành lập cái căn cứ tồn tại của sự lý ấy, cũng gọi là kiến lập, thành lập. 2- Thi thiết, là dùng đạo lý rộng rãi đặt bày cái lý thú của giáo pháp. 3- Khai diễn, đối với thuyết cũ đã nói rồi, thì nói thêm cho rộng ra. 4- Khả kiến, là đối với cảnh giới thuộc pháp tính đã dứt mọi đường nói năng tư lự, thì đem giáo lý tương xứng và dùng lời nói có thể thông suốt cảnh giới ấy để miêu tả. Cũng sách đã dẫn, bảo luận sư Trần Na gọi chung Năng lập, Năng phá đều là an lập; tức hay lập thuyết Đại thừa Duy Thức của tông mình, hay phá luận chấp trước hữu cảnh của tông người, cho nên gọi là An lập. Lại theo luận Đại-tì-bà-sa quyển 121, thì an lập quả, nghĩa là dựa vào phong luân mà an lập thủy luân, lại dựa vào thủy luân mà an lập kim luân, rồi cứ như thế mà an lập đại địa cho đến an lập tất cả hữu tình, vô tình; cũng tức là cái kết quả được an lập trên một cơ sở nào đó, gọi là An lập quả. Ở đây, an lập là nghĩa an trí, kiến lập, tương đương với nghĩa thành lập trong Duy Thức Nhị Thập Luận Thuật Kí. Ngoài ra, đối với bản chất của chân như (lý chân đế), đặt bày những lời nói danh tướng khác nhau để giải thích, gọi là An lập đế; còn lìa tất cả lời nói, danh tướng, do lập trường siêu việt tuyệt đối mà thể ngộ lý chân như, thì gọi là Phi an lập đế. Luận Thành Duy Thức quyển 9 nói, trong Tướng Kiến Đạo, nếu quán Phi an lập đế, thì có ba phẩm tâm, mà nếu duyên theo An lập đế, thì có mười sáu tâm. Lại Đại Thừa Pháp Uyển Nghĩa Lâm Chương quyển 2 phần cuối, bảo bốn loại Thế tục đế thuộc về An lập đế, mà trong bốn loại Thắng nghĩa đế thì ba loại trước cũng thuộc An lập đế, chỉ có loại sau cùng là Thắng nghĩa đế thuộc Phi an lập đế mà thôi. [X. Kinh Vô Lượng Thọ Q.thượng; luận Câu Xá Q.11; luận Thành Duy Thức Q.8; Thành Duy Thức Luận Thuật Kí Q.9 phần cuối; Thắng Man Bảo Quật Q.thượng phần cuối]- Phật Quang tự điển.

Nói nôm na an lập hay thiết lập, thiết định là các giáo lý (có tánh cách qui ước) mô tả về thực tại được tạo lập nhất thời bằng ngôn ngữ, qua đó, cho dù có siêu việt thực tại, nhưng vẫn là thứ được thiết định tạm thời (s: pratisthā, pratisthita, ropana, vyavasthāna, sanniveśa).

(5). Hắc pháp và bạch pháp: Hắc pháp là chỉ cho các pháp xấu ác hoặc các pháp hữu lậu bất thiện. Bạch pháp là chỉ chung các thiện pháp, pháp lành, các thiện pháp vô lậu, trái với hắc pháp kể trên.

(6). Tất Cánh Không: Tất cánh (atyanta)cũng gọi cứu cánh, rốt ráo, tối hậu, tuyệt đối. Tất Cách Không (Atyanta-sunyata): Cái Không tối hậu, cái Không tuyệt đối. Thí dụ: Chân lý thanh tịnh tuyệt đối (Niết bàn, thật tướng, tánh không...) xa lìa phiền não ô nhiễm thì gọi là Tất cánh tịnh.

(7). Vô Tế Không: Vô tế (Anavaragra) không có giới biên; Vô Tế Không (Anavaragra-sunyata): Cái Không không biên tế, cái Không của biên tế cũng không nốt.

Tất Cánh Không và Vô Tế Không là hai pháp không trong 18 pháp không (sunyata) do Bát Nhã đề xướng. (Xem lại thích nghĩa trong phần thứ I Tổng luận).

(8). Gút, kết hay kiết là sự trói buộc, chỉ cho phiền não. Đã giải thích rồi.

(9). Ngũ thuận hạ phần kết (五下分結) Phạm: Paĩca-àvarahàgìya-saôyo= janàni. Gọi tắt: Ngũ hạ kết, Ngũ hạ. Đối lại: Ngũ thượng phần kết. Chỉ cho 5 thứ kết hoặc (phiền não buộc chặt) thuận theo hạ phần giới, tức là 5 thứ kết hoặc thuộc hạ phần giới (cõi Dục) trong 3 cõi. Năm thứ kết hoặc này buộc chặt chúng sinh trong cõi Dục, khiến không thể nào thoát ra được. Ngũ hạ phần kết là: 1- Dục tham: Đối với cảnh vừa ý sinh tâm tham đắm, không biết thế nào là đủ. 2- Sân khuể: Đối với cảnh trái ý nổi lòng giận tức, mãi không thôi. 3- Hữu thân kiến: Đối với danh (tâm), sắc (sắc thân), 5 ấm, 12 nhập, 18 giới, vọng chấp là thân, bám chặt vào ngã kiến. 4- Giới cấm thủ kiến: Chấp lấy các tà giới phi lý, vô đạo. 5- Si: Tâm mê trái lý, ngờ vực không quyết, do sự ngờ vực này mà mê chân theo vọng, bỏ giác hợp trần. Do 2 kết Dục tham và Sân khuể nói trên mà chúng sinh cõi Dục không thể thoát ra khỏi cõi Dục, nếu người có khả năng vượt thoát nhưng lại do 3 kết sau (Hữu thân kiến, Giới cấm thủ kiến, Nghi) nên cuối cùng cũng trở lại cõi Dục, vì thế lập riêng 5 thứ kết hoặc này mà gọi là Thuận hạ phần kết. Ngũ thuận hạ phần kết lấy 31 việc làm tự tính, Dục tham và Sân khuể mỗi thứ đều là sở đoạn (cái được đoạn trừ) của 5 bộ cõi Dục, cho nên có 10 việc; Hữu thân kiến là Kiến khổ sở đoạn (phiền não do Kiến đạo dứt trừ) trong 3 cõi, vì thế có 3 việc; Giới cấm thủ kiến đều là sở đoạn của Kiến đạo và Tu đạo trong 3 cõi, cho nên có 6 việc; Nghi đều là sở đoạn của 4 bộ trong 3 cõi, vì thế có 12 việc, tổng cộng là 31 việc. [X. Kinh Tạp a hàm Q.32; luận Câu xá Q.21; luận Đại tì bà sa Q.49; luận Thuận chính lý Q.54; Đại thừa nghĩa chương Q.5, phần cuối]. (xt. Ngũ Bộ)- Từ điển Phật Quang.

(10). Ngũ thuận thượng phần kết: (五上分結) Phạm: Paĩcaùrdhvabhàgìyasaôyojanàni. Gọi tắt: Ngũ thượng kết, Ngũ thượng. Năm thứ phiền não (kết = thắt, buộc) trói buộc chúng sinh ở 2 cõi Sắc và Vô sắc thuộc thượng phần giới, làm cho không ra khỏi được 2 cõi này. Đó là: 1- Sắc tham: Phiền não tham đắm 5 món dục lạc của cõi Sắc. 2- Vô sắc tham: Phiền não tham đắm cảnh giới thiền định của cõi Vô sắc. 3- Điệu cử: Chúng sinh trong 2 cõi trên do tâm niệm loạn động mà lui mất thiền định. 4- Mạn: Chúng sinh trong 2 cõi trên do tâm kiêu mạn mà cậy mình, lấn lướt người khác. 5- Vô minh: Phiền não do tham đắm thiền định mà không rõ biết chân tính. Năm phiền não (kết) này lấy 8 việc ở cõi trên do Tu đạo đoạn trừ trong thân bậc Thánh làm tự tính, nghĩa là Sắc tham, tức ái của cõi Sắc do Tu đạo đoạn trừ (1 việc); Vô sắc tham, tức là ái của cõi Vô sắc do Tu đạo đoạn trừ (1 việc); Điệu cử tức là Điệu cử của 2 cõi trên đều do Tu đạo đoạn trừ (2 việc); Mạn tức là Mạn của 2 cõi trên đều do Tu đạo đoạn trừ (2 việc); Vô minh tức là Vô minh của 2 cõi trên đều do Tu đạo đoạn trừ (2 việc). Ngũ thượng phần kết này chỉ giới hạn ở Tu đạo đoạn chứ không chung cho Kiến đạo đoạn, vì những phiền não (kết hoặc) do Kiến đạo đoạn thường làm cho con người sa đọa, cho nên không được lập làm Thượng phần kết. [X. Kinh Chúng tập trong Trường a hàm Q.8; luận Câu xá Q.21; luận Đại tì bà sa Q.49; luận A tì đạt ma phát trí Q.3; luận Thành thực Q.10]. (xt. Ngũ Hạ Phần Kết). - Tự điển Phật Quang. Đã thích nghĩa rồi, nhắc lại để nhớ!

 

Lược giải:

 

Phần đầu của phẩm “Các Tướng Công Đức”, liệt kê tất các pháp mầu Phật đạo hay còn gọi là 81 khoa danh tướng Bát Nhã mà chúng tôi gộp lại thành một phần riêng gọi là “phần thứ I Tổng luận”, một trong ba phần chính của thiên Tổng luận này, tổng cộng hơn 150 trang. Nên trong phần lược giải của phẩm này chúng tôi không lặp lại nữa.

Chúng ta, cố gắng tụng đọc các giáo lý của phần sau phẩm này mà thôi. Đây là tất cả giáo lý được xem là quan trọng trong việc đọc tụng thọ trì không những đối với ĐBN mà cho cả hệ Bát Nhã nữa!

 

1. Tất cả pháp đều không thể nắm bắt được.

 

Trong cái chẳng thể nắm bắt được; không có hữu tình, không có sự an lập hữu tình; không có sắc, không có sự an lập của sắc, không có thọ, tưởng, hành, thức, không có sự an lập của thọ, tưởng, hành, thức; không có 12 xứ, 18 giới, không có sự an lập của 12 xứ, 18 giới; nói rộng ra không có tất cả pháp Phật, cũng không có sự an lập của tất cả pháp Phật.

Tất cả hữu tình, pháp và sự an lập đều bất khả đắc. Do bất khả đắc, nên hoàn toàn vô sở hữu. Vì vô sở hữu nên biết nội không, nên biết ngoại không, nội ngoại không… cho đến vô tánh tự tánh cũng không. Nên biết chơn như không, nên biết pháp giới, pháp tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế… cũng không. Nên biết Tứ đế không. Nên biết tứ thiền, tứ định, 18 pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao cũng không. Nên biết tất cả cõi Phật không, nên biết thành thục hữu tình cũng không, thanh tịnh Phật độ cũng không.

Đại Bồ Tát khi hành Bát nhã Ba la mật thậm thâm, thấy tất cả pháp đều không rồi, vì các hữu tình tuyên thuyết các pháp, khiến lìa điên đảo; tuy vì hữu tình tuyên thuyết các pháp nhưng đối với hữu tình hoàn toàn không có sở đắc, đối với tất cả pháp cũng không có sở đắc, đối với tướng không cũng chẳng tăng chẳng giảm, chẳng thủ chẳng xả. Do nhân duyên ấy, tuy thuyết các pháp nhưng không có sở thuyết.

Đại Bồ Tát ấy, đối với tất cả pháp khi quán như thế, chứng được trí vô ngại. Do trí này nên chẳng hoại các pháp, không phân biệt hai vì hữu tình như thật tuyên thuyết, khiến lìa chấp trước vọng tưởng điên đảo, tùy theo căn cơ mà đạt quả Tam thừa.

Đây là quan điểm thiết yếu của Bát Nhã. Bát Nhã hay tất cả chư Phật chư Bồ Tát không an lập hữu tình. Hữu tình nương Bát Nhã, nương các bậc thang giáo lý mà tự vươn lên trong ánh sáng giác ngộ. Không ai có thể an lập cho ai cả. Vì vậy Kinh luôn luôn nhắc tất cả các pháp vô sở hữu, bất khả đắc, các pháp là không... Và khi tuyên bố như vậy thì Kinh bảo bậc sơ học Đại thừa đừng kinh đừng khủng cũng đừng hoang mang hối tiếp.

 

2. Người được biến hóa không thể phân biệt.

 

Ví như có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hóa thành một hóa Phật, rồi vị hóa Phật này lại có thể hóa làm vô lượng trăm ngàn triệu ức chúng sanh. Khi ấy, vị hóa Phật kia khuyên bảo răn dạy số chúng sanh đã hóa ra ấy, hoặc tu hành lục Ba la mật hoặc tu hành tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, 37 pháp trợ đạo, 18 pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao, thì khi ấy vị hóa Phật và chúng sanh được hóa ra đối với các pháp không có phân biệt, nên không phá hoại các pháp. Vì người được biến hóa không thể phân biệt. Do nhân duyên đây phải biết đại Bồ Tát cũng lại như thế. Hành Bát Nhã thậm thâm, vì các hữu tình như thật thuyết pháp dù chẳng phân biệt phá hoại pháp tướng mà năng như thật an lập hữu tình, khiến họ an trụ bậc nên trụ; tuy đối với hữu tình và tất cả pháp hoàn toàn chẳng thể nắm bắt được nhưng khiến hữu tình giải thoát vọng tưởng điên đảo chấp trước, lấy bản tánh không buộc không mở của các pháp làm phương tiện. Vì sao?

bản tánh sắc không buộc không mở, bản tánh thọ, tưởng, hành, thức cũng không buộc mở. Nếu bản tánh của sắc không buộc không mở thời chẳng phải sắc; nếu bản tánh thọ, tưởng, hành, thức không buộc không mở thời chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Vì sắc cho đến thức rốt ráo tịnh vậy. Bản tánh của 12 xứ, 18 giới không buộc không mở; bản tánh của tất cả pháp Phật từ tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, 37 pháp trợ đạo, 18 pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao cũng không buộc không mở. Nếu bản tánh của tất cả pháp Phật không buộc không mở thì chẳng phải là tất cả pháp Phật. Vì sao? Vì 12 xứ, 18 giới... cho đến tất cả pháp Phật rốt ráo thanh tịnh vậy.

Bản tính của tất cả pháp cũng như thế, vì tất cả pháp đều bất khả đắc, bất khả đắc tức không thể nắm bắt được. Nếu không nắm bắt được thì vọng niệm điên đảo không sanh, hay nói khác là tâm thể vắng lặng. Nếu tâm thể vắng lặng, nên thấy đâu đâu cũng cùng toàn một màu thanh tịnh: Trời xanh vẫn là trời xanh, mây trắng vẫn là mây trắng, hòn núi kia ngàn năm vẫn là hòn núi cũ, không vì bản tánh của nó mà nói đẹp nói xấu, nói cao nói thấp, nói lớn nói nhỏ. Khi tâm lặng lẽ thì núi vẫn là núi, sông vẫn là sông. Tất cả người vật, trong ngoài đều thanh tịnh như nhau!

Nên Kinh nói: “Bản tánh của pháp thế gian không buộc không mở, bản tánh của pháp xuất thế gian cũng không buộc không mở; bản tánh của pháp thế gian không buộc không mở thì chẳng phải là pháp thế gian, bản tánh của pháp xuất thế gian không buộc không mở thì chẳng phải là pháp xuất thế gian. Vì sao? Vì pháp thế gian, pháp xuất thế gian rốt ráo thanh tịnh vậy”.

 

3. Bồ Tát lấy vô sở trụ làm phương tiện.

 

Đại Bồ Tát khi hành Bát Nhã thậm thâm, lấy vô sở trụ làm phương tiện, nghĩa là lấy vô sở trụ làm phương tiện nên không an trụ ở sắc, không an trụ ở thọ, tưởng, hành, thức; không an trụ ở 12 xứ, 18 giới; không an trụ ở tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, 37 pháp trợ đạo, 18 pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến không an trụ kể cả quả vị Giác ngộ tối cao.

Sắc vô sở trụ, thọ tưởng hành thức cũng vô sở trụ, tất cả pháp cũng đều vô sở trụ. Sắc không vô sở trụ; thọ tưởng hành thức không vô sở trụ, tất cả pháp không cũng vô sở trụ. Vì sao? Vì sắc vô tự tánh bất khả đắc, thọ tưởng hành thức vô tự tánh bất khả đắc; tất cả pháp vô tự tánh cũng bất khả đắc. Sắc không vô tự tánh bất khả đắc, thọ tưởng hành thức không cũng vô tự tánh bất khả đắc; tất cả pháp không vô tự tánh bất khả đắc. Vì chẳng phải tất cả pháp không vô tự tánh, bất khả đắc mà có chỗ trụ. Trụ chỗ vô sở trụ mới gọi là chơn trụ.

Pháp thế gian vô sở trụ, pháp xuất thế gian cũng vô sở trụ. Pháp thế gian không vô sở trụ, pháp xuất thế gian không cũng vô sở trụ. Vì sao? Vì pháp thế gian vô tự tánh bất khả đắc, pháp xuất thế gian cũng vô tự tánh bất khả đắc. Rồi chính pháp thế gian không, vô tự tánh bất khả đắc, pháp xuất thế gian không cũng vô tự tánh bất khả đắc. Chẳng phải tất cả pháp không, pháp vô tự tánh bất khả đắc mà có chỗ trụ. Trụ chỗ vô sở trụ mới gọi là trụ! Vì sao?

Vì chẳng phải pháp vô tánh trụ pháp vô tánh, chẳng phải pháp hữu tánh trụ pháp hữu tánh. Chẳng phải pháp tự tánh trụ pháp tự tánh, chẳng phải pháp tha tánh trụ pháp tự tánh, chẳng phải pháp tự tánh trụ pháp tha tánh. Vì sao? Vì tất cả pháp này đều bất khả đắc. Pháp bất khả đắc trụ ở đâu? Như vậy, đại Bồ Tát khi hành Bát nhã Ba la mật như thế, đem cái “không” này mà tu khiển các pháp, rồi như thật chỉ dạy chúng hữu tình.

Đại Bồ Tát thường hành Bát nhã Ba la mật thậm thâm như thế, đối Phật, Bồ Tát, Độc giác, Thanh văn, tất cả Thánh chúng đều không có lỗi. Vì sao? Chư Phật, Bồ Tát, Độc giác, Thanh văn, tất cả Thánh chúng đối pháp tánh này đều năng tùy giác. Đã tùy giác rồi, vì các hữu tình tuyên nói không trái. Tuy vì các hữu tình tuyên nói các pháp mà đối pháp tánh không chuyển không vượt. Vì sao? Vì thật tánh các pháp tức chơn như, pháp giới. Chơn như, pháp giới như thế đều chẳng khá chuyển khá vượt. Vì sao? Vì chơn như, pháp giới như thế đều vô tự tánh thì làm thế nào có chuyển có vượt được?

 

4. Tất cả pháp cùng chơn như không khác:

Nếu chơn như, pháp giới chân thật không chuyển, không vượt thì uẩn, xứ, giới cùng với chơn như, pháp giới chẳng có sai khác. Pháp Phật, pháp thế gian, pháp xuất thế gian cùng với chơn như, pháp giới cũng chẳng có sai khác. Chư Phật căn cứ vào tục đế an lập nhân quả sai biệt như thế, chẳng căn cứ vào thắng nghĩa đế. Trong thắng nghĩa, chẳng thể nói có nhân quả sai biệt. Vì sao? Vì trong thắng nghĩa, tất cả pháp tánh (tánh tất cả pháp) chẳng thể phân biệt, vô thuyết vô thị, làm sao có nhân quả sai khác được.

Trong thắng nghĩa đế, sắc không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; thọ, tưởng, hành, thức cũng không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, vì tất cánh không, vô tế không. Trong thắng nghĩa đế, 12 xứ, 18 giới không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, vì tất cánh không, vô tế không. Trong thắng nghĩa đế, tất cả pháp Phật cũng không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, vì tất cánh không, vô tế không. Trong thắng nghĩa đế, pháp thế gian, pháp xuất thế gian, pháp hữu lậu, pháp vô lậu, pháp hữu vi, pháp vô vi cũng không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, vì tất cánh không, vô tế không.

Phàm phu ngu si không thật biết Thế đế (còn gọi là tục đế - tương đối), không thật biết Thắng nghĩa đế (còn gọi là Thánh đế - tuyệt đối), không thật biết Thánh đạo, nên không tu Thánh đạo thì làm sao được Thánh quả sai biệt. Chỉ có Thánh giả có khả năng như thật biết tục đế và thắng nghĩa đế, biết có Thánh đạo, có tu Thánh đạo. Vì vậy, mới đắc Thánh quả sai khác.

Nhưng chẳng phải tu Thánh đạo có thể đắc Thánh quả, cũng chẳng phải chẳng tu Thánh đạo có thể đắc Thánh quả, chẳng phải lìa Thánh đạo có thể đắc Thánh quả, cũng chẳng phải trụ trong Thánh đạo có thể đắc Thánh quả. Vì sao? Vì trong thắng nghĩa đế, đạo và đạo quả chẳng thể nắm bắt được(bất khả đắc).

Như thế, đại Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật thậm thâm, tuy vì hữu tình an lập Thánh quả có nhiều bậc sai khác, mà chẳng phân biệt Thánh quả như thế ở cảnh giới hữu vi, cảnh giới vô vi sai khác.

Nếu thiện nam thiện nữ thông đạt tất cả pháp hữu vi, vô vi đều đồng nhất tướng, chỗ gọi là vô tướng, thì thiện nam thiện nữ ấy, ngay lúc đó, đối với các pháp không phân biệt. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, khi hành Bát nhã Ba la mật thậm thâm, tuy vì hữu tình tuyên thuyết các pháp nhưng chẳng phân biệt pháp tướng đã thuyết, đó là pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, hoặc pháp không không… cho đến pháp không không tánh tự tánh. Đại Bồ Tát ấy, đối với các pháp không có sự chấp trước, cũng luôn dạy người đối với các pháp không chấp trước, đó là đối với bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật hoặc đối với tứ thiền bát định, 37 pháp trợ đạo; 18 pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao, đều không chấp trước. Vì không chấp trước nên đối với tất cả thời xứ đều không ngăn ngại. Như hóa Phật mà chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hóa ra, tuy hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật được đắc quả, nhưng đối với quả ấy chẳng thọ, chẳng trước, chỉ vì hữu tình ban Niết bàn; tuy hành tất cả các thiện pháp, nhưng đối với các quả do tu hành mà được, cũng chẳng thọ, chẳng trước, chỉ vì hữu tình ban Niết bàn.

Đại Bồ Tát cũng vậy khi hành Bát nhã Ba la mật thậm thâm đối với tất cả pháp hoặc thế gian, hoặc xuất thế gian, hoặc hữu lậu, hoặc vô lậu, hoặc hữu vi, vô vi, đều vô sở trụ, thì không còn ngăn ngại. Vì sao? Vì hoàn toàn như đạt thật tướng của tất cả pháp vậy.

Người nào đạt được thật tướng của tất cả pháp như vậy, người ấy chứng được chơn như, pháp giới hay nói khác là giác ngộ!

 

Kết kuận:

 

Trên đây chỉ là tóm lược của tóm lược, không có gì gọi là giải luận. Vì tất cả pháp Phật còn gọi là các pháp mầu Phật đạo đều được giải thích ở phần thứ I Tổng luận rồi. Nên ở đây, không có gì để nói thêm. Tuy nhiên, phần sau của phẩm này Kinh nhắc nhở: Tất cả pháp đều không, không thành không hoại, không sanh không diệt, không nhiễm không tịnh, không thể nắm bắt, vô sở hữu, bất khả đắc. Nên không thủ, không xả, không trụ, không chứng, không đắc, không phân biệt, không chấp… Đó là những giáo lý thậm thâm của Đại Bát Nhã, được xiển dương và được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong toàn thể đại phẩm này. Nên ở đây tóm lược để nhắc nhở.

Chỉ cần niệm rằng Bát nhã Ba la mật hay tất cả pháp Phật hay chư Phật chư Bồ Tát… không an lập cho ai hết. Chỉ có hữu tình không ai khác hơn hữu tình phải tự mình vươn lên trong ánh sáng giác ngộ. Đừng mong cầu nắm bắt, đừng nương vịn hay ỷ lại bất cứ giáo pháp nào dù được xem là thắng diệu nhất.

“Các Tướng Công Đức” nêu trên được xem như một bản liệt kê các bậc thang giáo lý. Căn cứ vào kiếp sống hiện tại, với quán chiếu Bát Nhã mà suy ra trong quá khứ sống có tu hành, có tích tụ công đức thiện căn hay không? Cũng nhờ căn cứ vào đời sống hiện tại, chúng ta biết tương lai sống chết khổ vui sẽ thuộc vào cảnh giới nào trong thập giới.

Nếu trong hiện tại có đời sống tâm tối tàn ác sát nhân vô đạo… chắc chắn sẽ bị đọa địa ngục; nếu tham lam, biển lận… gây đau khổ cho người, chắc chắn sẽ đọa ngạ quỷ; nếu gian dâm vô độ… chẳng còn lương tâm, chắc chắn sẽ đọa vào loài súc sanh; nếu nhiều sân hận thích tranh đoạt đánh đắm, máu lửa, thương yêu bênh bỏ vô chừng… chắc sẽ rơi vào hàng a tu la, quỷ dữ; nếu có đức độ hơn người, sống cuộc đời lành mạnh lại biết giữ 5 giới… kiếp sau trở lại làm người, có đời sống tốt đẹp, đạo đức hơn; nếu biết tu thập thiện thì được lên 25 cảnh giới cõi trời; nếu đoạn một phần hay toàn phần kiến hoặc hay tư hoặc lại biết tu tứ đế thì đạt 4 quả Thanh văn; nếu tu và đoạn đứt 12 nhân duyên, thoát sanh tử thì chứng Bích Chi Phật; nếu tu lục độ vạn hạnh, tu tất cả các pháp môn Phật học lại hy sinh nhiều đời kiếp cho toàn thể chúng sanh thì sẽ thành Bồ Tát, Phật.

Phật không xô ai xuống địa ngục, không đưa ai vào Niết Bàn, tất cả đều do mình chọn lựa quyết định. Nhờ pháp Phật, nhờ Bát Nhã mà có cái nhìn đúng, cái thấy đúng, chọn lựa đúng… tu theo chánh đạo thì thoát khỏi lục đạo luân hồi, thoát ly sanh tử… Tất cả là tùy thuộc ý chí, nghị lực của chính mình, không ai ngoài mình. Phải tự mình vươn lên trong ánh sanh giác ngộ. “Các Tướng Công Đức” là chìa khóa do Phật trao lại cho những người con Phật kể từ khi Phật giác ngộ. Hãy cố ôm lấy nó như phần thưởng to lớn nhất trong kiếp này, để thực thi hạnh nguyện cho được vuông tròn, chớ đừng quên mất!

 

---o0o---



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567