Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

66. Phẩm “Vô Tướng Vô Đắc" (Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu; Diễn đọc: Phật tử Quảng Tịnh; Lồng nhạc: Phật tử Quảng Phước)

23/07/202012:22(Xem: 8382)
66. Phẩm “Vô Tướng Vô Đắc" (Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu; Diễn đọc: Phật tử Quảng Tịnh; Lồng nhạc: Phật tử Quảng Phước)

 

TỔNG LUẬN 

KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***

 66. Vô Tướng Vô Đắc


PHẨM “VÔ TƯỚNG VÔ ĐẮC"



Phần sau quyển 373 đến phần đầu quyển 378, Hội thứ I, ĐBN.

(Tương đương với phẩm: “Nhất Niệm” quyển thứ 25, MHBNBLM)



Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu

Diễn đọc: Cư Sĩ Quảng Tịnh

Lồng nhạc: Cư Sĩ Quảng Phước







 

Tóm lược:

 

1. Không tưởng Có, tưởng Không, xa lìa hai tưởng.

(Tương đương với phẩm “Nhất Niệm” quyển thứ 25, MHBNBLMĐ)

 

Phẩm “Vô Tướng” quyển 466, ĐBN chúng tôi có dịp viện dẫn trong phẩm “Tam Huệ” trước đây có cùng một giáo nghĩa giống như phần mở đầu của phẩm này:

“Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp đều lấy vô tánh làm tự tánh, các Bồ Tát Ma ha tát nhận thấy những gì mà muốn lợi ích an vui hữu tình cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề?

Phật bảo Thiện Hiện! Vì tất cả pháp đều lấy vô tánh làm tự tánh mà các Bồ Tát muốn lợi ích an vui hữu tình. Vì sao? Vì các loại hữu tình đủ kiến chấp đoạn thường, trụ có sở đắc, khó điều phục được, ngu si điên đảo khó giải thoát.

Thiện Hiện phải biết, kẻ trụ có sở đắc, bởi tưởng có sở đắc, không đắc, không hiện quán, cũng không được Vô Thượng Bồ đề.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật rằng: Nếu kẻ có sở đắc, sẽ không đắc, không hiện quán, cũng không Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Kẻ không sở đắc, sẽ có đắc, có hiện quán, có được Vô Thượng Bồ đề chăng?

Phật bảo: Thiện Hiện! Nếu không sở đắc, tức là đắc, tức là hiện quán, tức là Vô Thượng Bồ đề. Vì sao? Vì kẻ đó chẳng hoại pháp giới vậy.

Thiện Hiện! Phải biết nếu đối “không sở đắc” đây muốn có sở đắc, muốn đắc hiện quán, muốn đắc Vô Thượng Bồ đề, phải biết kẻ đó muốn hoại pháp giới.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật rằng: Nếu kẻ có sở đắc, sẽ không đắc, không hiện quán, tức là Vô Thượng Bồ đề hay không sở đắc tức là đắc, tức là hiện quán, tức là Vô Thượng Bồ đề?

Trong không sở đắc, không đắc, không hiện quán cũng không Vô Thượng Bồ đề, các Bồ Tát Ma ha tát làm sao được từ sơ địa lên đến thập địa. Làm sao có được Vô sanh pháp nhẫn. Làm sao có được dị thục thần thông. Làm sao được có dị thục bố thí Ba la mật cho đến Bát nhã Ba la mật. Làm sao an trụ pháp sanh dị thục như thế để thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật. Ở chỗ chư Phật cung kính cúng dường các món thượng diệu để được căn lành, cho đến Vô Thượng Bồ đề cùng quả bất tận. Lần lữa cho đến sau vào Niết bàn, Thiết lợi la (xá lợi) của mình và các đệ tử vẫn được người đời cung kính cúng dường, thế lực căn lành như vậy mới bất tận.

Phật bảo: Thiện Hiện! Vì tất cả pháp không sở đắc nên các Bồ Tát Ma ha tát được sơ địa cho đến thập địa. Tức do đây nên được Vô sanh pháp nhẫn. Tức do đây nên được dị thục thần thông. Tức do đây nên được dị thục bố thí cho đến Bát Nhã. Tức do đây nên được an trụ pháp sanh dị thục, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật. Ở chỗ chư Phật cung kính cúng dường các món thượng diệu mới được căn lành, cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề cùng quả bất tận. Lần lữa cho đến sau vào Niết bàn, Thiết lợi la của mình và các đệ tử vẫn được người đời cung kính cúng dường, thế lực căn lành vậy mới bất tận.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật rằng: Nếu tất cả pháp đều không sở đắc, bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát Nhã và các thần thông có sai khác không?

Phật bảo: Thiện Hiện! Không sở đắc ấy, bố thí kể cả 5 Ba la mật kia và các thần thông đều không sai khác. Nhưng vì muốn khiến kẻ có sở đắc kia lìa các chấp đắm, phương tiện tuyên nói bố thí cùng năm Ba la mật và các thần thông có tướng sai khác.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật rằng: Vì nhân duyên gì không sở đắc, bố thí cùng năm Ba la mật và các thần thông nói không sai khác?

Phật bảo: Thiện Hiện! Các Bồ Tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật thậm thâm, chẳng đắc bố thí, chẳng đắc kẻ thí, chẳng đắc kẻ thọ, chẳng đắc vật thí, chẳng đắc quả thí mà hành bố thí. Chẳng đắc tịnh giới mà hộ trì tịnh giới. Chẳng đắc nhẫn nhục mà tu nhẫn nhục. Chẳng đắc tinh tiến mà siêng tinh tiến. Chẳng đắc thiền định mà vào thiền định. Chẳng đắc Bát Nhã mà khởi Bát Nhã. Chẳng đắc thần thông mà phát khởi thần thông. Chẳng đắc tứ niệm xứ cho đến bát Thánh đạo mà tu tứ niệm xứ cho đến bát Thánh đạo. Chẳng đắc ba môn giải thoát mà tu ba môn giải thoát. Chẳng đắc bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc mà tu bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Chẳng đắc tám giải thoát cho đến mười biến xứ mà tu tám giải thoát cho đến mười biến xứ.

Chẳng đắc Bồ Tát địa mà tu Bồ Tát địa. Chẳng đắc Đà la ni, Tam ma địa mà tu Đà la ni, Tam ma địa. Chẳng đắc năm nhãn, sáu thần thông mà tu năm nhãn, sáu thần thông. Chẳng đắc pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả mà tu pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả... cho đến chẳng đắc Nhất thiết chủng trí mà tu Nhất thiết chủng trí. Chẳng đắc hữu tình mà thành thục hữu tình. Chẳng đắc cõi Phật mà nghiêm tịnh cõi Phật. Chẳng đắc tất cả Phật pháp mà chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Như vậy, Thiện Hiện! Các Bồ Tát Ma ha tát nên hành vô sở đắc Bát nhã Ba la mật thậm thâm. Nếu Bồ Tát Ma ha tát năng hành vô sở đắc như vậy, tất cả ác ma và bà con ma đều chẳng năng hoại(1).

 

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Tại sao đại Bồ Tát khi hành Bát nhã Ba la mật nhất tâm nhiếp thọ đầy đủ bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật; cũng có thể nhiếp thọ đầy đủ bốn thiền, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, cũng có thể nhiếp thọ đầy đủ 37 pháp trợ đạo, tứ Thánh đế, 18 pháp bất cộng, cũng có thể nhiếp thọ đầy đủ Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí...cho đến ba mươi hai tướng đại sĩ và tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật, hành bố thí chẳng lìa Bát Nhã là đều do Bát nhã Ba la mật nhiếp thọ, việc tu tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự chẳng lìa Bát Nhã là đều do Bát nhã Ba la mật nhiếp thọ; việc tu bốn thiền, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, 37 pháp trợ đạo, tứ Thánh đế, 18 pháp bất cộng, chẳng lìa Bát Nhã đều do Bát nhã Ba la mật nhiếp thọ…; việc tu Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí, chẳng lìa Bát Nhã là đều do Bát nhã Ba la mật nhiếp thọ; việc tu ba mươi hai tướng đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc, chẳng lìa Bát Nhã là đều do Bát nhã Ba la mật nhiếp thọ.

- Này Thiện Hiện! Như vậy, đại Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật trong khoảng một sát na, tâm có thể nhiếp thọ đầy đủ bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã; cũng có thể nhiếp thọ đầy đủ bốn thiền, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, 37 pháp trợ đạo, tứ Thánh đế, 18 pháp bất cộng…; cũng có thể nhiếp thọ đầy đủ Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí; cũng có thể nhiếp thọ đầy đủ ba mươi hai tướng đại sĩ và tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Tại sao đại Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật, các việc đã làm chẳng lìa Bát Nhã, thường được Bát nhã Ba la mật nhiếp thọ nên trong khoảng một sát na, tâm có thể nhiếp thọ đầy đủ bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật; tâm có thể nhiếp thọ đầy đủ bốn thiền, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, 37 pháp trợ đạo, tứ Thánh đế, 18 pháp bất cộng…; tâm có thể nhiếp thọ đầy đủ Nhất thiết tướng trí cho đến ba mươi hai tướng đại sĩ và tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật, việc hành bố thí vì được Bát nhã Ba la mật nhiếp thọ nên xa lìa hai tưởng; việc hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật, vì được Bát nhã Ba la mật nhiếp thọ nên xa lìa hai tưởng; việc tu bốn thiền, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, 37 pháp trợ đạo, tứ Thánh đế, 18 pháp bất cộng vì được Bát nhã Ba la mật nhiếp thọ nên xa lìa hai tưởng…; cho đến việc tu Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí, vì được Bát nhã Ba la mật nhiếp thọ nên xa lìa hai tưởng; việc dẫn phát ba mươi hai tướng đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc, vì được Bát nhã Ba la mật nhiếp thọ nên xa lìa hai tưởng(2).

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Tại sao đại Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật, tuy hành bố thí mà không có hai tưởng, tuy hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã mà không có hai tưởng; tuy tu bốn thiền mà không có hai tưởng, tuy tu bốn vô lượng, bốn định vô sắc, 37 pháp trợ đạo, tứ Thánh đế, 18 pháp bất cộng mà không có hai tưởng…; tuy tu Nhất thiết trí, tuy tu Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí mà không có hai tưởng; việc dẫn phát ba mươi hai tướng đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc mà không có hai tưởng?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã vì muốn viên mãn bố thí Ba la mật nên ngay trong khi bố thí, nhiếp thọ luôn tất cả tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã mà hành bố thí; nhiếp thọ luôn tất cả bốn thiền, bốn vô lượng, bốn định vô sắc mà hành bố thí; nhiếp thọ luôn 37 pháp trợ đạo, tứ Thánh đế, 18 pháp bất cộng mà hành bố thí…; nhiếp thọ luôn Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí mà hành bố thí; nhiếp thọ luôn 32 tướng đại sĩ và tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc mà hành bố thí. Do nhân duyên đó, mà không có hai tưởng.

- Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật, vì muốn viên mãn tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã nên ngay trong tịnh giới nhiếp thọ luôn tất cả bố thí, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã mà hành tịnh giới; nhiếp thọ luôn tất cả bốn thiền, bốn vô lượng, bốn định vô sắc mà hành tịnh giới; nhiếp thọ luôn 37 pháp trợ đạo, tứ Thánh đế, 18 pháp bất cộng mà hành tịnh giới…; nhiếp thọ luôn Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí mà hành tịnh giới, nhiếp thọ luôn ba mươi hai tướng đại sĩ và tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc mà hành tịnh giới. Do nhân duyên đó, mà không có hai tưởng.

 

- Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã, vì muốn viên mãn bốn tịnh lự nên ngay trong bốn thiền nhiếp thọ tất cả bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, Bát Nhã mà tu bốn tịnh lự; nhiếp thọ tất cả bốn thiền, bốn vô lượng, bốn định vô sắc mà tu bốn tịnh lự; nhiếp thọ luôn 37 pháp trợ đạo, tứ Thánh đế, 18 pháp bất cộng mà hành bốn tịnh lự…; nhiếp thọ luôn Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí mà hành bốn tịnh lự, nhiếp thọ luôn 32 tướng đại sĩ và tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc mà hành bốn tịnh lự. Do nhân duyên đó, mà không có hai tưởng.

- Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật, vì muốn viên mãn bốn vô lượng, bốn định vô sắc nên ngay trong bốn vô lượng, bốn định vô sắc nhiếp thọ tất cả bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã mà tu bốn vô lượng, bốn định vô sắc; nhiếp thọ tất cả bốn thiền, bốn vô lượng, bốn định vô sắc mà tu bốn vô lượng, bốn định vô sắc; nhiếp thọ tất cả 37 pháp trợ đạo, tứ Thánh đế, 18 pháp bất cộng mà tu bốn vô lượng, bốn định vô sắc…; nhiếp thọ luôn Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí mà tu bốn vô lượng, bốn định vô sắc; nhiếp thọ luôn 32 tướng đại sĩ và tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc mà tu bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Do nhân duyên đó, mà không có hai tưởng.

- Này Thiện Hiện! Cũng như vậy, các đại Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật, muốn viên mãn 37 pháp trợ đạo, nên ngay trong 37 pháp trợ đạo, nhiếp thọ tất cả bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã mà tu 37 pháp trợ đạo; nhiếp thọ luôn tất cả bốn thiền, bốn vô lượng, bốn định vô sắc mà tu 37 pháp trợ đạo; nhiếp thọ luôn tứ Thánh đế, 18 pháp bất cộng mà tu 37 pháp trợ đạo…; nhiếp thọ luôn Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí mà tu 37 pháp trợ đạo, nhiếp thọ luôn ba mươi hai tướng đại sĩ và tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc mà tu 37 pháp trợ đạo. Do nhân duyên đó, mà không có hai tưởng.

Nói tóm lại, các đại Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật, muốn viên mãn tất cả pháp Phật nói chung thì ngay trong tất cả pháp Phật nầy, phải nhiếp thọ tất cả bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã mà tu tất cả pháp Phật. Do nhân duyên đó, mà không có hai tưởng.

 

2. Đem tâm vô lậu, ly tướng tu hành tất cả thiện pháp.

 

Lại nữa, này Thiện Hiện! Vì Đại Bồ Tát ấy tu hành Bát nhã Ba la mật nên khi hành bố thí an trụ tâm vô lậu mà hành bố thí; hoặc khi hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã, an trụ tâm vô lậu mà hành tịnh giới cho đến Bát Nhã. Vì vậy, tuy hành bố thí cho đến Bát Nhã nhưng không có hai tưởng. Khi tu bốn thiền, an trụ tâm vô lậu mà tu bốn thiền, hoặc khi tu tứ vô lượng, tứ định vô sắc, an trụ tâm vô lậu mà tu bốn thiền, tứ vô vô lượng, tứ định vô sắc. Khi tu 37 phép trợ đạo, thì an trụ tâm vô lậu mà tu 37 phép trợ đạo. Khi tu tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, 18 pháp không, chơn như, pháp giới, năm loại mắt, sáu thần thông, Nhất thiế trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao, thì cũng an trụ tâm vô lậu mà hành tất cả Phật pháp. Vì vậy, tuy hành tất cả Phật pháp mà nói không có hai tưởng.

 

Dùng tâm ly tướng mà tu lục Ba la mật và tất cả các thiện pháp.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ Tát vì tu hành Bát nhã Ba la mật, tu bố thí cho đến Bát Nhã, an trụ tâm vô lậu mà hành bố thí cho đến Bát Nhã? Hay nói rộng ra thế nào là đại Bồ Tát vì tu hành Bát nhã Ba la mật tu tất cả các thiện pháp trụ tâm vô lậu mà hành tất cả các thiện pháp?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật, dùng tâm ly tướng mà tu bố thí, chẳng thấy mình hành, chẳng thấy mình xả, đối với việc này mà hành bố thí, do việc này mà bố thí, vì việc này mà bố thí, hành bố thí như thế là an trụ trong tâm vô lậu ly tướng, lìa ái, lìa xan. Khi ấy, chẳng thấy sở hành, lại cũng chẳng thấy tâm vô lậu này cho đến chẳng thấy tất cả Phật pháp; như thế là đại Bồ Tát an trụ tâm vô lậu mà hành bố thí. Đại Bồ Tát này khi tu hành Bát nhã Ba la mật, dùng tâm ly tướng mà tu tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, thiền định, Bát nhã Ba la mật cũng lại như thế.

- Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật, dùng tâm ly tướng tu hành tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc: Chẳng thấy (mình tu) tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định, chẳng thấy mình xả việc này, đối với việc này... do việc này... vì việc này... mà tu tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định. Như thế là an trụ tâm vô lậu lìa tướng, không nhiễm ô, không chấp trước mà tu tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định; khi ấy, chẳng thấy việc tu hành cũng lại chẳng thấy tâm vô lậu này, cho đến chẳng thấy tất cả Phật pháp; như thế là đại Bồ Tát an trụ tâm vô lậu mà tu tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc.

- Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật, dùng tâm ly tướng tu hành 37 phép trợ đạo, tứ Thánh đế, 18 pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao, chẳng thấy mình tu, chẳng thấy mình xả việc này, đối với việc này..., do việc này..., vì việc này... mà tu tất cả pháp nói trên. Như thế là an trụ trong tâm vô lậu lìa tướng, không nhiễm ô, không chấp trước thì chẳng thấy sở tu, chẳng thấy năng tu, cho đến chẳng thấy tất cả Phật pháp; như thế là đại Bồ Tát an trụ tâm vô lậu mà tu tất cả pháp. (Q.376, ĐBN)

 

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Khi đại Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật ở trong tất cả pháp vô tướng, vô giác, vô đắc, vô ảnh, vô tác làm sao có thể viên mãn bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật? Hay nói rộng ra làm sao có thể viên mãn tất cả pháp Phật?

Phật bảo:        

- Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát khi hành Bát nhã Ba la mật thậm thâm, có thể dùng tâm vô lậu ly tướng mà hành bố thí; nếu các hữu tình cần ăn thì cho ăn, cần uống cho uống, cần y phục cho y phục, cần đồ nằm cho đồ nằm, cần xe cộ, của cải, nhà đất v.v… cần thứ gì đều cho hết; hoặc có người cần mắt, tủy, não, da, thịt, lóng đốt, gân cốt v.v… cũng đều cho hết, không đếm xỉa gì đến những lời đàm tiếu, khuynh đảo. Đại Bồ Tát ấy, vì tu hành Bát nhã Ba la mật thậm thâm, không vì vậy mà ân hận thối thất. Đại Bồ Tát ấy, đem phước bố thí này cho các hữu tình cùng có như nhau, hồi hướng quả vị Giác ngộ tối cao. Khi bố thí và hồi hướng như thế, chẳng thấy tướng ấy, nghĩa là chẳng thấy ai cho, ai nhận, bố thí vật gì, đối với cái gì mà thí, do cái gì mà thí, vì cái gì mà thí, vì sao mà thí; cũng lại chẳng thấy ai năng hồi hướng, hồi hướng về đâu, đối với cái gì mà hồi hướng, do cái gì mà hồi hướng, vì cái gì mà hồi hướng, tại sao phải hồi hướng; đối với tất cả sự vật như thế đều chẳng thấy. Vì sao? Vì các pháp như thế đều không. Đại Bồ Tát ấy, quán tất cả pháp đều không rồi, lại nghĩ: Ai năng hồi hướng, hồi hướng về đâu, đối với cái gì…, do cái gì…, vì cái gì…, tại sao phải hồi hướng? Tất cả pháp như thế đều chẳng thể nắm bắt được. Đại Bồ Tát ấy, do quán như thế và nghĩ như thế, nên việc hồi hướng đó gọi là thiện hồi hướng, lìa độc hồi hướng, cũng gọi là ngộ nhập pháp giới hồi hướng; do đó lại có thể nghiêm tịnh cõi Phật, thành thục hữu tình; cũng có thể viên mãn bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã; cũng có thể viên mãn tứ thiền, tứ vô lượng, tứ địnhvô sắc, 18 pháp bất công, Nhất thiết trí… cho đến viên mãn quả vị Giác ngộ tối cao. (Q.376, ĐBN)

Đại Bồ Tát ấy, tuy có thể viên mãn bố thí như thế, nhưng chẳng nhiếp thọ quả dị thục của bố thí(3); tuy chẳng nhiếp thọ quả dị thục của bố thí nhưng do khéo thanh tịnh bố thí, nên tùy ý có thể có đầy đủ tất cả tài vật như chư thiên Tha hóa tự tại, tất cả nhu yếu đều tùy ý hiện ra, Đại Bồ Tát ấy cũng như thế, cần nhu yếu gì đều tùy ý hiện đủ. Do thế lực bố thí này tăng thượng, nên có thể dùng đủ các thứ đồ cúng thượng diệu, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen chư Phật Thế Tôn. Đại Bồ Tát ấy do bố thí này nhiếp thọ các hữu tình, phương tiện thiện xảo dùng pháp ba thừa mà an lập họ, khiến cho tùy theo căn cơ mà được lợi lạc.

Này Thiện Hiện! Như vậy, đại Bồ Tát khi hành Bát nhã Ba la mật thậm thâm, do tâm lực vô lậu ly tướng, mà có thể ở trong tất cả pháp vô tướng, vô giác, vô đắc, vô ảnh, vô tác, viên mãn bố thí, cũng có thể viên mãn các công đức khác.

 

- Lại nữa. Thiện Hiện! Làm sao đại Bồ Tát khi hành Bát nhã Ba la mật thậm thâm, ở trong tất cả pháp vô tướng, vô giác, vô đắc, vô ảnh, vô tác, có thể viên mãn tịnh giới Ba la mật?

- Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát khi hành Bát Nhã, có thể dùng tâm vô lậu lìa tướng, thọ trì tịnh giới, đó là pháp sở nhiếp của chi Thánh đạo vô lậu, khi ấy đắc giới thanh tịnh trọn vẹn; tịnh giới như thế, không khuyết, không hở, không tỳ vết, không ô uế, không có thủ trước, xứng đáng nhận cúng dường; được người trí khen ngợi là thọ trì khéo léo, cứu cánh tuyệt vời, tùy thuận thắng định, chẳng thể khuất phục; do tịnh giới này, đối với tất cả pháp, không có thủ trước, nghĩa là chẳng thủ trước sắc, cũng chẳng thủ trước thọ, tưởng, hành, thức; chẳng thủ trước 12 xứ, 18 giới cũng chẳng thủ trước tất cả pháp Phật; chẳng thủ trước 32 tướng đại sĩ, cũng chẳng thủ trước 80 vẻ đẹp phụ thuộc; chẳng thủ trước được sanh vào dòng họ lớn Sát đế lợi, cũng chẳng thủ trước được sanh vào dòng họ lớn Bà la môn, Trưởng giả, Cư sĩ; chẳng thủ trước được sanh vào 25 cõi trời sai khác của  Dục, Sắc và Vô sắc giới; chẳng thủ trước quả Dự lưu, cũng chẳng thủ trước quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, quả vị Độc giác; chẳng thủ trước ngôi vị Chuyển luân vương, cũng chẳng thủ trước các ngôi vua khác và các Tể quan phú quí tự tại, mà chỉ đem sự hộ trì tịnh giới như thế cho các hữu tình cùng có như nhau, hồi hướng quả vị Giác ngộ; dùng vô tướng, vô đắc, vô nhị làm phương tiện mà hồi hướng; chẳng phải dùng có tướng, có đắc, có hai làm phương tiện. Tùy theo thế tục mà hồi hướng, chứ chẳng phải thắng nghĩa.

Do nhân duyên này, tất cả Phật pháp đều được viên mãn. Đại Bồ Tát ấy, do tịnh giới Ba la mật này viên mãn thanh tịnh, nên phương tiện thiện xảo khởi phát phần thắng tấn của tứ thiền, dùng sự không mê đắm làm phương tiện, mà khởi phát các thần thông. Đại Bồ Tát ấy dùng thiên nhãn dị thục sanh thanh tịnh, thường thấy chư Phật hiện tại trong vô biên thế giới ở khắp mười phương, an ổn trụ trì, vì các hữu tình, tuyên thuyết chánh pháp; thấy rồi cho đến khi chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao, cũng không quên mất. Đại Bồ Tát ấy dùng thiên nhĩ thanh tịnh vượt hẳn người thường, nghe chư Phật trong mười phương thuyết pháp; nghe rồi cho đến khi chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao thường chẳng quên mất, theo pháp đã nghe có thể làm các việc lợi lạc cho mình và người, không có việc nào là vô ích. Đại Bồ Tát ấy dùng tha tâm trí sai biệt, để biết tâm và tâm sở của mười phương Phật và các hữu tình; biết rồi thường phát khởi các việc lợi lạc cho tất cả hữu tình. Đại Bồ Tát ấy dùng trí túc trụ tùy niệm biết nghiệp đã tạo đời trước của các hữu tình, do nghiệp đã tạo không hoại mất nên sanh vào các chỗ như thế... thọ các điều khổ, vui; biết rồi vì họ mà nói nhân duyên nghiệp cũ, khiến họ nhớ biết mà làm việc lợi ích. Đại Bồ Tát ấy dùng trí lậu tận an lập hữu tình, hoặc khiến an trụ quả Dự lưu, hoặc khiến an trụ quả Nhất lai, hoặc khiến an trụ quả Bất hoàn, hoặc quả A la hán, hoặc quả vị Độc giác, hoặc bậc đại Bồ Tát hoặc khiến an trụ quả vị Giác ngộ tối cao. Nói tóm lại, đại Bồ Tát ấy bất cứ ở nơi nào tùy theo khả năng sai khác của các hữu tình mà phương tiện thiện xảo, khiến họ an trụ trong các thiện pháp.

Này Thiện Hiện! Như vậy là đại Bồ Tát khi hành Bát nhã Ba la mật thậm thâm, do tâm lực vô lậu lìa các tướng mà có thể ở trong tất cả pháp vô tướng, vô giác, vô đắc, vô ảnh, vô tác, viên mãn tịnh giới Bát nhã Ba la mật, cũng có thể viên mãn các công đức khác.

 

- Lại nữa. Thiện Hiện! Làm sao đại Bồ Tát khi hành Bát nhã Ba la mật thậm thâm, ở trong tất cả pháp vô tướng, vô giác, vô đắc, vô ảnh, vô tác, có thể viên mãn an nhẫn Ba la mật?

- Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát khi hành Bát nhã Ba la mật thậm thâm, năng đem tâm ly tướng vô lậu mà tu an nhẫn. Đại Bồ Tát này từ sơ phát tâm cho đến lúc ngồi ở tòa Bồ đề vi diệu. Trong khoảng giữa đó, giả sử các loại hữu tình đều cầm các thứ ngói đá dao gậy đua nhau đến gia hại, đại Bồ Tát này chẳng khởi lên một niệm sân hận. Bấy giờ, đại Bồ Tát nên tu hai nhẫn. Những gì là hai? Một là nên chịu tất cả hữu tình mạ nhục gia hại chẳng sanh tức giận, đó là Phục sân nhuế nhẫn. Hai là nên khởi Vô sanh pháp nhẫn. Đại Bồ Tát này nếu bị các thứ ác ngôn mạ nhục, hoặc bị các thứ dao gậy gia hại, nên suy nghĩ kỹ, so lường quan sát: Ai năng mạ nhục, ai năng gia hại, ai chịu nhục mạ, ai chịu gia hại, ai khởi tức giận, ai nên nhẫn chịu? Lại nên quan sát hết thảy pháp tánh rốt ráo đều không, pháp đã chẳng có, huống là pháp tánh. Đã không có pháp tánh, huống lại có hữu tình. Khi quan sát như thế hoặc năng mạ nhục, hoặc sở mạ nhục, hoặc năng gia hại, hoặc sở gia hại, đều chẳng thấy có. Cho đến mổ xẻ cắt chia thân thể từng phần, nơi tâm an nhẫn đều không có niệm gì khác. Đối với các pháp tánh quán sát như thế thì có khả năng chứng đắc vô sanh pháp nhẫn. Vì sao gọi là Vô sanh pháp nhẫn? Nghĩa là khiến cho các phiền não chẳng sanh và quán các pháp rốt ráo chẳng khởi, vi diệu trí huệ thường không gián đoạn. Vì vậy, gọi là Vô sanh pháp nhẫn. Đại Bồ Tát này an trụ trong hai thứ nhẫn như thế, mau năng viên mãn bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát Nhã, cũng có thể viên mãn tất cả pháp Phật. Đại Bồ Tát này, tu hành Bát nhã Ba la mật, phương tiện thiện xảo thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, có thể mau đầy đủ Nhất thiết tướng trí, chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao, chuyển pháp luân mầu nhiệm, độ vô lượng chúng sanh.

Này Thiện Hiện! Như vậy, đại Bồ Tát khi hành Bát nhã Ba la mật thậm thâm, do tâm lực vô lậu ly tướng, mà có thể ở trong tất cả pháp vô tướng, vô giác, vô đắc, vô ảnh, vô tác, viên mãn an nhẫn cũng có thể viên mãn các công đức khác.

 

- Lại nữa. Thiện Hiện! Làm sao đại Bồ Tát khi hành Bát nhã Ba la mật thậm thâm, ở trong tất cả pháp vô tướng, vô giác, vô đắc, vô ảnh, vô tác, có thể viên mãn tinh tấn Ba la mật?

- Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát khi hành Bát nhã Ba la mật thậm thâm, có thể dùng tâm vô lậu ly tướng mà tu tinh tấn, thành tựu tinh tấn tâm dõng mãnh, nên năng viên mãn các Thánh đạo vô lậu và chi đạo sở nhiếp tinh tấn Ba la mật. Do đó, có thể khiến cho tất cả nghiệp thân, ngữ, ý bất thiện không có chỗ phát sanh. Đại Bồ Tát ấy, chẳng bao giờ thủ trước sắc, thọ, tưởng, hành, thức hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly; cũng chẳng bao giờ thủ trước 12 xứ, 18 giới, tứ thiền bát định, 18 pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tĩnh hoặc chẳng tịch tĩnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly. Đại Bồ Tát ấy chẳng bao giờ thủ trước đây là Dự lưu, là Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác, Bồ Tát Như Lai, cũng chẳng thủ trước hữu tình đắc những giai vị như thế nên được gọi là Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn v.v… Vì sao? Vì các pháp đều không có tự tánh nên đại Bồ Tát ấy thành tựu tinh tấn tâm dõng mãnh, tuy làm việc lợi ích cho các hữu tình nhưng chẳng tiếc thân mạng mà đối với hữu tình, hoàn toàn vô sở đắc; tuy có thể viên mãn sở tu là tinh tấn nhưng đối với tinh tấn, hoàn toàn vô sở đắc; tuy có thể viên mãn tất cả Phật pháp, nhưng đối với Phật pháp hoàn toàn vô sở đắc; tuy có thể nghiêm tịnh tất cả cõi Phật, nhưng đối với cõi Phật hoàn toàn vô sở đắc. Đại Bồ Tát ấy thành tựu tinh tấn thân, tâm như vậy, tuy có thể xa lìa tất cả ác pháp, cũng có thể nhiếp thọ tất cả thiện pháp nhưng không thủ trước. Vì không thủ trước nên từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, từ thế giới này đến thế giới khác; vì muốn làm lợi ích cho các hữu tình, nên các thần thông muốn thị hiện đều có thể thị hiện tự tại vô ngại, nhơn đó hóa đạo vô biên hữu tình khiến nhập chánh đạo, xa lìa giết hại, xa lìa không cho mà lấy, xa lìa dâm dục tà hạnh, xa lìa lời nói hư vọng, lời nói ly gián, lời nói thô ác, lời nói tạp uế, xa lìa tham dục, sân nhuế, tà kiến; hoặc dùng bố thí nhiếp thọ các hữu tình, hoặc dùng tịnh giới nhiếp thọ các hữu tình, hoặc dùng an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã nhiếp thọ các hữu tình. Vì muốn làm lợi ích cho các hữu tình, hoặc xả của báu, hoặc xả thê tử, hoặc xả ngôi vua, hoặc xả các bộ phận của thân thể, hoặc xả sanh mạng, tùy các hữu tình mà làm lợi ích cho họ.

Này Thiện Hiện! Như vậy, đại Bồ Tát khi hành Bát nhã Ba la mật thâm thâm, do tâm lực vô lậu lìa tướng nên ở trong tất cả pháp vô tướng, vô giác, vô đắc, vô ảnh, vô tác, viên mãn tinh tấn cũng có thể viên mãn các công đức khác.

 

- Lại nữa. Thiện Hiện! Thế nào là đại Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật thậm thâm, có thể ở trong tất cả pháp vô tướng, vô giác, vô đắc, vô ảnh, vô tác, viên mãn tịnh lự Ba la mật?

- Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật thâm thâm có thể dùng tâm vô lậu ly tướng mà tu tịnh lự. Đại Bồ Tát ấy, trừ định Như Lai, đối với các thiền định, từ sơ thiền tới tứ thiền, từ không vô biên xứ định cho tới phi phi tưởng xứ định đều có thể viên mãn. Đại Bồ Tát ấy an trụ tịnh lự, đối với tám giải thoát, đối với tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, có thể nhập theo chiều thuận nghịch, an trụ trọn vẹn. Đại Bồ Tát ấy có thể nhập các Tam ma địa như Tam ma địa giải thoát, Tam ma địa vô gián, Tam ma địa kim cang dụ, an trụ trọn vẹn. Đại Bồ Tát ấy an trụ tịnh lự, tu ba mươi bảy phép trợ đạo viên mãn, dùng Đạo tướng trí nhiếp thọ tất cả Tam ma địa rồi, lần lượt tu vượt qua bậc Tịnh quán, bậc Chủng tánh, bậc Đệ bát, bậc Kiến, bậc Bạc, bậc Ly dục, bậc Dĩ biện, bậc Độc giác, chứng nhập Bồ Tát Chánh tánh ly sanh; đã nhập bậc Chánh tánh ly sanh rồi, tu các địa hạnh, viên mãn Phật địa. Đại Bồ Tát ấy, tuy đối với các bậc lần lượt tu vượt qua nhưng ở khoảng giữa không thủ trước quả chứng cho đến khi chưa đắc Nhất thiết tướng trí. Đại Bồ Tát ấy an trụ tịnh lự, từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen chư Phật Thế Tôn. Ở chỗ chư Phật trồng các căn lành, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật; từ thế giới này đến thế giới khác, làm lợi ích cho các hữu tình, thân tâm không mệt mỏi, hoặc dùng bố thí nhiếp thọ các hữu tình, hoặc dùng tịnh giới nhiếp thọ các hữu tình, hoặc dùng an nhẫn, tịnh lự, Bát Nhã nhiếp thọ các hữu tình; hoặc dùng giải thoát, giải thoát tri kiến nhiếp thọ các hữu tình; hoặc giáo hóa hữu tình an trụ quả Dự lưu, hoặc giáo hóa hữu tình an trụ quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác, hoặc Bồ Tát; hoặc giáo hóa hữu tình an trụ quả vị Giác ngộ tối cao, tùy theo thế lực thiện căn và thiện pháp tăng trưởng của các hữu tình mà dùng các thứ phương tiện khiến họ an trụ. Đại Bồ Tát ấy an trụ tịnh lự có thể dẫn phát tất cả pháp môn Tam ma địa, có thể dẫn phát tất cả pháp môn Đà la ni, có thể đắc bốn sự hiểu biết thông suốt thù thắng, có thể đắc thần thông dị thục thù thắng. Đại Bồ Tát ấy, do đắc thần thông dị thục thù thắng nên quyết định chẳng nhập lại mẫu thai, quyết định chẳng hưởng thú vui dâm dục, quyết định chẳng bị sanh quả làm nhiễm. Vì sao? Vì đại Bồ Tát ấy khéo thấy, khéo đạt tất cả pháp tánh đều như huyễn hóa nhưng vẫn thừa bi nguyện nhiêu ích hữu tình. Tuy nương nơi bi nguyện nhiêu ích mà đạt hữu tình, nhưng hữu tình và thi khiết kia cũng đều bất khả đắc, mà vẫn cứ an lập tất cả hữu tình khiến họ an trụ pháp bất khả đắc. Đó là nương lý thế tục mà nói, chẳng nương thắng nghĩa. Đại Bồ Tát ấy an trụ tịnh lự Ba la mật, tu hành tất cả tịnh lự, giải thoát, đẳng trì, đẳng chí(4), cho đến viên mãn sở cầu là quả vị Giác ngộ tối cao, thường chẳng xả ly sở tu là tịnh lự Ba la mật. Đại Bồ Tát ấy hành Đạo tướng trí, phương tiện dẫn phát Nhất thiết tướng trí, an trụ trong đó, vĩnh viễn đoạn trừ tất cả tập khí tương tục. Vì đại Bồ Tát ấy, có thể đoạn trừ vĩnh viễn tập khí tương tục, nên có thể tự lợi và lợi tha chính đáng. Vì đại Bồ Tát ấy, có thể tự lợi, lợi tha chính đáng, nên có thể làm ruộng phước thanh tịnh, có thể thọ nhận tất cả sự cung kính cúng dường của trời, người, A tu la v.v... trong thế gian.

Này Thiện Hiện! Như thế, đại Bồ Tát khi hành Bát nhã Ba la mật thậm thâm, do tâm lực vô lậu ly tướng nên có thể ở trong tất cả pháp vô tướng, vô giác, vô đắc, vô ảnh, vô tác, viên mãn tịnh lự, cũng có thể viên mãn các công đức khác.

 

- Lại nữa. Thiện Hiện! Thế nào là đại Bồ Tát khi hành Bát nhã Ba la mật thậm thâm, có thể ở trong tất cả pháp vô tướng, vô giác, vô đắc, vô ảnh, vô tác, viên mãn Bát nhã Ba la mật?

- Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát khi hành Bát nhã Ba la mật thậm thâm, có thể dùng tâm vô lậu ly tướng mà tu Bát Nhã. Đại Bồ Tát ấy, chẳng thấy một pháp nhỏ nào thật có thành tựu, nghĩa là chẳng thấy sắc, thọ, tưởng, hành, thức sanh hay diệt; chẳng thấy sắc, thọ, tưởng, hành, thức tăng ích hay tổn giảm; chẳng thấy sắc thọ, tưởng, hành, thức có chứa nhóm hay ly tán. Như thật quán sắc, thọ, tưởng, hành, thức là hư vọng, chẳng bền chắc, thật không tự tại; chẳng thấy 12 xứ, 18 giới thật có thành tựu, sanh hay diệt, tăng ích hay tổn giảm, có chứa nhóm hay ly tán; chẳng thấy tất cả pháp hữu lậu hay vô lậu thật có thành tựu, sanh hay diệt, tăng ích hay tổn giảm, có chứa nhóm hay ly tán. Như thật quán tất cả pháp hữu lậu hay vô lậu là hư vọng, chẳng bền chắc, thật không tự tại. Đại Bồ Tát ấy khi quán như thế, chẳng đắc tự tánh của sắc, chẳng đắc tự tánh của thọ, tưởng, hành, thức; chẳng đắc tự tánh của tất cả xứ, giới; chẳng đắc tự tánh của tất cả pháp hữu lậu, vô lậu. Đại Bồ Tát ấy tu hành Bát nhã Ba la mật, đối với tất cả pháp đều lấy vô tánh làm tự tánh, phát sanh tin hiểu sâu sắc. Đại Bồ Tát ấy, đối với sự việc như thế sanh tin hiểu rồi, có thể hành pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không… cho đến pháp không không tánh tự tánh. Đại Bồ Tát ấy khi tu hành như thế, đối với tất cả pháp hoàn toàn không chấp trước, nghĩa là chẳng chấp trước sắc, chẳng chấp trước thọ, tưởng, hành, thức; chẳng chấp trước xứ, giới; chẳng chấp trước thất đại chủng; chẳng chấp trước các duyên; chẳng chấp trước 12 nhân duyên; chẳng chấp trước lục Ba la mật; chẳng chấp trước 18 pháp không; chẳng chấp trước chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế; chẳng chấp trước 37 pháp trợ đạo; chẳng chấp trước bốn Thánh đế, bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; chẳng chấp trước tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, tất cả pháp môn Tam ma địa, tất cả pháp môn Đà la ni; chẳng chấp trước Tam giải thoát môn, năm loại mắt, sáu thần thông; chẳng chấp trước Phật mười lực, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; chẳng chấp trước Nhất thiết trí, chẳng chấp trước Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí; chẳng chấp trước 4 quả Thanh văn, quả vị Độc giác; chẳng chấp trước Bồ Tát hạnh, quả vị Giác ngộ tối cao. Đại Bồ Tát ấy khi hành Bát Nhã thậm thâm, lấy vô tánh làm tự tánh có thể viên mãn Bồ Tát đạo, nghĩa là có thể viên mãn bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã; cũng có thể viên mãn 18 pháp không; cũng có thể viên mãn chơn như, pháp giới, pháp tánh v.v… hay nói gọn là có thể viên mãn tất cả pháp Phật.

Đại Bồ Tát ấy viên mãn đạo Bồ đề như thế rồi, lìa các ám chướng, an trụ trong Phật đạo, do sức thần thông thù thắng, phương tiện làm lợi ích cho các loại hữu tình, người cần dùng bố thí nhiếp thọ thì liền dùng bố thí mà nhiếp thọ họ, người cần dùng tịnh giới nhiếp thọ thì liền dùng tịnh giới mà nhiếp thọ họ, người hợp với an nhẫn, tinh tấn thì dùng an nhẫn, tinh tấn nhiếp thọ, người thích tịnh lự, Bát Nhã thì dùng tịnh lự, Bát Nhã nhiếp thọ, khiến họ an trụ các quả Thanh văn, Độc giác hay khiến họ an trụ quả vị Giác ngộ tối cao.

Đại Bồ Tát ấy có thể thi triển các loại thần thông biến hóa, muốn an trụ hằng hà sa thế giới thì tùy ý có thể an trụ, muốn từ thế giới này đến thế giới khác, làm lợi ích an lạc vô lượng hữu tình, muốn nghiêm tịnh cõi Phật thì có thể làm theo sở thích. Đại Bồ Tát ấy do bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã nên được báo đắc thần thông vi diệu, cùng báo đắc Bồ Tát đạo, nên hành Đạo tướng trí; do Đạo tướng trí được thành thục nên lại có thể chứng đắc Nhất thiết tướng trí; do đắc trí này, đối với tất cả pháp không có sự nhiếp thọ, nghĩa là chẳng nhiếp thọ uẩn, xứ, giới v.v… cho đến chẳng nhiếp thọ tất cả pháp thiện, pháp phi thiện, pháp thế gian, pháp xuất thế gian, pháp hữu lậu, pháp vô lậu, pháp hữu vi, pháp vô vi, pháp hữu tội, pháp vô tội; cũng chẳng nhiếp thọ sở chứng là quả vị Giác ngộ tối cao. Vì sao? Vì Đại Bồ Tát ấy trước chẳng nhiếp thọ tất cả pháp, nên đối tất cả pháp vô sở đắc. Vì các hữu tình tuyên nói tất cả pháp tánh vô nhiếp thọ không trái ngược vậy.

Này Thiện Hiện! Như vậy, đại Bồ Tát khi hành Bát nhã Ba la mật thậm thâm, do tâm lực vô lậu ly tướng, nên có thể ở trong tất cả pháp vô tướng, vô giác, vô đắc, vô ảnh, vô tác, viên mãn Bát nhã Ba la mật, cũng có thể viên mãn các công đức khác.

 

Thích nghĩa:

(1). Đoạn kinh này của phẩm “Vô Tướng” quyển 466, thuộc Hội thứ II, ĐBN tương đương với phẩm “Vô Tướng Vô Đắc”, quyển 373, thuộc Hội thứ I, ĐBN, nhưng ngắn gọn và dễ hiểu, nên được chúng tôi trích dẫn để thay thế.

(2). “Không hai tưởng”: Kinh MHBNBLMĐ dịch cụm từ này là bất nhị tướng. Không tưởng có không tưởng không thì gọi là bất nhị tưởng, không tưởng có không tưởng không cũng có thế gọi là bất nhị tướng. Ngôn từ có khác nhưng ý không sai khác, mặc dù từ ‘tưởng’ và ‘tướng’ khác nhau.

(3). Quả dị thục: Quả trong nghĩa nhân quả. Nhân (nguyên nhân) sanh ra quả (kết quả). Thí dụ quả báo hiện tại cảm ứng do nghiệp thiện ác ở đời trước tạo ra; vì quả khi chín (thục) thì tính chất lại khác (dị) với nhân nên gọi là Dị thục.

(4). Tịnh lự trong nghĩa Thiền định nói chung; Giải thoát trong nghĩa giải thoát môn hay giải thoát tam muội; Đẳng trì: Một loại chỉ (định) gọi là Xa Ma Tha (s: śamatha, p: samatha, 奢摩他); Đẳng chí: một loại quán gọi là Tỳ Bát Xá Na (s: vipaśyanā, p: vipassanā, 毘鉢舍那).

- Chỉ (Xa ma tha) nghĩa là “dừng lại”, có ý nghĩa tu tập sự định tâm, dứt mọi vọng niệm.

- Quán (Tỳ bà xá na) nghĩa là “quán xét”, có nghĩa tu tập nhận thức đúng thật, sáng suốt về thực tại.

Vậy, xét về kết quả tu tập thì hai pháp tu chỉ và quán cũng được gọi là định và tuệ, vì chỉ giúp đạt được định và quán giúp đạt được tuệ.

 

Lược giải:

 

1. Không tưởng Có, tưởng Không, xa lìa hai tưởng.

 

Kẻ trụ có sở đắc, bởi tưởng có sở đắc, nên không đắc, không hiện quán, cũng không được Vô Thượng Bồ đề. Kẻ trụ không sở đắc, cũng không đắc, không hiện quán, cũng không được Vô thượng Bồ đề. Phải biết nếu đối “không sở đắc” đây muốn có sở đắc, muốn đắc, muốn hiện quán, muốn chứng Vô Thượng Bồ đề, Phật bảo “phải biết kẻ đó muốn phá hoại pháp giới”.

Tại sao? Vì đem tâm chấp đắm. Có chấp là có nắm bắt có buông bỏ, vì có phân biệt chọn lựa. Đó là tâm sanh diệt, nghiêng ngả, nọ kia. Đã là tâm sanh diệt, nghiêng ngả nọ kia… thì làm sao tu, làm sao chứng mà cho là tu, là chứng. Như vậy, gọi là điên đảo nên Phật bảo là phá hoại pháp giới. Pháp giới vốn như tướng, không nọ không kia, xa lìa hai tưởng.

Phẩm “Học Đạo Khắp”, quyển 370, Hội thứ I, ĐBN nói rằng: “Tất cả pháp chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng, chẳng phải nhất tướng, chẳng phải dị tướng. Nếu đại Bồ Tát biết tất cả pháp hoặc hữu tướng, hoặc vô tướng, hoặc nhất tướng, hoặc dị tướng, đều đồng một tướng thì đó là vô tướng. Tu vô tướng này là tu Bát nhã Ba la mật”. Vì vô tướng nên không thấy không biết. Không thấy không biết nên không chấp. Do vô chấp thì vô ngại nên không cần lìa mà tự nhậm lìa. Lìa tức không còn suy vi tạo tác nữa. Tu như vậy là tu Bát nhã Ba la mật, xa lìa hai tưởng, lìa chấp lìa đắm, mới có thể nhất tâm nhiếp thọ đầy đủ bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật; cũng có thể nhiếp thọ đầy đủ tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc; cũng có thể nhiếp thọ đầy đủ 37 pháp trợ đạo, tứ đế, 18 pháp bất cộng; cũng có thể nhiếp thọ đầy đủ Nhất thiết tướng trí cho đến quả vị Vô thượng Bồ đề.

“Nếu đại Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật, dùng tâm ly tướng tu hành 37 phép trợ đạo, tứ đế, 18 pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Vô thượng Bồ đề, chẳng thấy mình tu, chẳng thấy mình xả việc này, đối với việc này..., do việc này..., vì việc này... mà tu tất cả pháp nói trên. Như thế là an trụ trong tâm vô lậu lìa tướng, không nhiễm ô, không chấp trước thì không thấy sở tu, không thấy năng tu, cho đến không thấy tất cả Phật pháp, như thế là đại Bồ Tát an trụ tâm vô lậu mà tu tất cả pháp”.

Không thấy thì không biết, không biết thì không tạo tác. Vả lại, vào được pháp không rồi, biết tất cả pháp đều không, không tướng không trạng, không sanh không diệt… thì lấy gì chấp đắm, nắm giữ nữa. Đó là tu vô tướng, tu vô sở đắc, ý nghĩa chính của giáo pháp “Vô Tướng Vô Đắc” của phẩm này. Giáo lý tuy giản dị, nhưng không phải dễ tu dễ hành!

 

2. Đem tâm vô lậu, ly tướng tu hành tất cả thiện pháp.

 

Khi đại Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật ở trong tất cả pháp vô tướng, vô giác, vô đắc, vô tác có thể viên mãn bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật? Hay nói rộng ra làm sao có thể viên mãn tất cả pháp Phật, nếu đem tâm vô lậu ly tướng mà hành lục Ba la mật? Phải quán các pháp đều không, vô sắc, vô kiến, vô đối, nhất tướng, chỗ gọi vô tướng. Dùng vô tướng, vô đắc, vô nhị làm phương tiện, không chấp không thủ bất cứ pháp nào dù là quả vị Giác ngộ tối cao. Đại Bồ Tát ấy khi hành lục Ba la mật lấy vô tánh làm tự tánh có thể viên mãn Bồ Tát đạo, nghĩa là có thể viên mãn lục Ba la mật; cũng có thể viên mãn 18 pháp không; cũng có thể viên mãn chơn như, pháp giới, pháp tánh v.v… hay nói gọn là có thể viên mãn tất cả pháp Phật.

Như vậy, đại Bồ Tát khi hành lục Ba la mật, do tâm vô lậu ly tướng, có thể ở trong tất cả pháp vô tướng, vô giác, vô đắc, vô tác viên mãn tất cả các pháp Phật cũng có thể viên mãn các công đức khác. Rồi đem tất công đức này ban cho tất cả hữu tình đồng hồi hướng Vô Thượng Bồ đề.

“Đại Bồ Tát ấy viên mãn đạo Bồ đề như thế rồi, lìa các ám chướng, an trụ trong Phật đạo, do sức thần thông thù thắng, phương tiện làm lợi ích cho các loại hữu tình, người nên dùng bố thí nhiếp thọ thì liền dùng bố thí mà nhiếp thọ họ, người nên dùng tịnh giới nhiếp thọ thì liền dùng tịnh giới mà nhiếp thọ họ, người hợp với an nhẫn, tinh tấn thì dùng an nhẫn, tinh tấn nhiếp thọ, người thích tịnh lự, Bát Nhã thì dùng tịnh lự, Bát Nhã nhiếp thọ, khiến họ an trụ các quả Thanh văn, Độc giác, hay khiến họ an trụ quả vị Giác ngộ tối cao.

Đại Bồ Tát ấy có thể thi triển các loại thần thông biến hóa, muốn an trụ hằng hà sa thế giới thì tùy ý có thể an trụ, muốn từ thế giới này đến thế giới khác, làm lợi ích an lạc vô lượng hữu tình, muốn nghiêm tịnh cõi Phật thì có thể làm theo sở thích. Đại Bồ Tát ấy do bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật nên được báo đắc thần thông vi diệu, cùng báo đắc Bồ Tát đạo, nên hành Đạo tướng trí; do Đạo tướng trí được thành thục nên lại có thể chứng đắc Nhất thiết tướng trí; do đắc trí này, đối với tất cả pháp không có sự nhiếp thọ, nghĩa là chẳng nhiếp thọ uẩn, xứ, giới v.v… cho đến chẳng nhiếp thọ tất cả pháp thiện-pháp phi thiện, pháp thế gian-pháp xuất thế gian, pháp hữu lậu-pháp vô lậu, pháp hữu vi-pháp vô vi, pháp hữu tội-pháp vô tội; cũng chẳng nhiếp thọ sở chứng là quả vị Giác ngộ tối cao. Vì sao? Vì đại Bồ Tát ấy trước chẳng nhiếp thọ tất cả pháp, nên đối tất cả pháp vô sở đắc. Vì các hữu tình tuyên nói tất cả pháp tánh vô nhiếp thọ không trái ngược vậy.

Này Thiện Hiện! Như vậy, đại Bồ Tát khi hành Bát nhã Ba la mật thậm thâm, do tâm vô lậu ly tướng, nên có thể ở trong tất cả pháp vô tướng, vô giác, vô đắc, vô tác, viên mãn Bát nhã Ba la mật, cũng có thể viên mãn các công đức khác”.

Đem tâm vô lậu ly tướng mà tu các thiện pháp, tức lấy tịnh tâm tu hành thì không có pháp nào mà không thành tựu, không công đức nào mà chẳng viên mãn. Đó là phương châm của giáo lý “vô tướng vô đắc” dành cho những ai hành trì Bát Nhã để phụng sự chúng sanh. Cứ theo phương châm đó mà tu thì đường mê đổi ngược mà được tự tại thì không những độ được mình mà có thể độ người ra khỏi bờ mê đến bến giác.

Phẩm trước thuyết nhiều vô tánh với giáo lý “pháp nào không có tự tánh thì lấy vô tánh làm tự tánh và kết luận tu vô tánh đây là tu Bát nhã Ba la mật thì mau thành Đạo tướng trí. Phẩm này nói về vô tướng, tu mà không thấy tướng lại đem tâm vô lậu lìa tướng mà tu các thiện pháp thì có thể viên mãn Bát nhã Ba la mật và các công đức thắng diệu khác.

 

Kết luận:

 

Học phẩm này chúng ta rút ra các kinh nghiệm như sau:

 

1- Giáo pháp vô sở đắc đối với việc tu hành Bát Nhã:

 

Phẩm “Xảo Tiện”, quyển 462, Hội thứ II và phẩm “Phương Tiện Khéo Léo”, quyển 525, Hội thứ III, ĐBN nói rằng:

“Bát nhã Ba la mật thậm thâm là vô sở đắc, Nhất thiết trí cũng vô sở đắc; người thực hành thực hành Bát nhã Ba la mật, chỗ thực hành và khi thực hành, tất cả đều vô sở đắc. Vô sở đắc này cũng là vô sở đắc nốt!

Chẳng phải có sở đắc nên vô sở đắc, chẳng phải vô sở đắc nên vô sở đắc. Nhưng có sở đắc, không sở đắc bình đẳng trong tự tánh gọi vô sở đắc. Các đại Bồ Tát đối với tánh bình đẳng có sở đắc, không sở đắc nên siêng tu học. Các đại Bồ Tát khi học như thế gọi học Bát nBa la mật vô sở đắc.

Các đại Bồ Tát khi hành Bát nBa la mật chẳng phải trụ có sở đắc được từ một bậc đến một bậc lần hồi viên mãn Nhất thiết trí trí, chẳng phải trụ sở đắc được từ một bậc đến một bậc lần hồi viên mãn được Nhất thiết trí trí. Vì có sở đắc là có chấp, có chấp là có dính mắc quái ngại. Vì vậy, không Giác ngộ, không được Vô Thượng Bồ đề hay đạt Nhất thiết trí trí. Nên Phật bảo: “Vô sở đắc là tướng của Bát nhã Ba la mật, vô sở đắc là tướng của Vô Thượng Bồ Đề, vô sở đắc cũng là tướng của người hành Bát nhã Ba la mật”. Ở đây, vô sở đắc đã được nâng lên cao độ ngang hàng với Bát nBa la mật hay Vô Thượng Bồ đề.

Nhưng kinh nghiệm Bát nBa la mật cho thấy rằng một khi quan niệm vô sở đắc là tôn chỉ tối cao của Bát nBa la mật, thời vô sở đắc cũng trở thành một chướng ngại khác đối với hành giả Bát Nhã. Vô sở đắc rốt ráo phải là vô sở đắc nốt. Tất cả phải là không, là rỗng không. Đó là tôn chỉ Bát nBa la mật!

Bát nBa la mật phải là Bát nBa la mật khi hành không, vô tướng, vô tác. “Bát nhã Ba la mật thậm thâm là Vô sở đắc, Nhất thiết trí trí cũng là Vô sở đắc; người thực hành Bát Nhã, chỗ thực hành và khi thực hành, tất cả cũng đều Vô sở đắc; Vô sở đắc này cũng là Vô sở đắc nốt”. Đó là vô sở đắc không.

Tất cả phóng xả, phủi sạch hết thế là xong! Đó là phương tiện tốt trong việc tu tập Bát nBa la mật để được Giác ngộ. Ngày nào còn mong cầu nắm bắt cất giữ thì ngày đó còn trở ngại cho việc tu học hay chứng đắc giác ngộ.

 

2- Tu “vô tướng” là tu Bát Nhã chăng?

 

Đối với người tu Bát Nhã chỉ có cách là hãy lìa tất cả cái gì gọi là tướng: Phẩm “Pháp Giới”, quyển 567, ĐBN Phật bảo Tối Thắng: “Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật nên xa lìa các tướng, nghĩa là hoàn toàn chẳng thấy các tướng trong ngoài, lìa tướng hý luận, lìa tướng phân biệt, lìa tướng tầm cầu, lìa tướng tham đắm, lìa tướng cảnh giới, lìa tướng phan duyên, lìa tướng năng tri và sở tri”.

Nghĩa là hữu tướng, tri tướng, thức tướng, duyên tướng, tăng thượng tướng, nhân tướng, quá tướng, tổng tướng, biệt tướng, y tướng... đều lìa tất cả. Nên đem tâm ly tướng vô lậu lìa đắm lìa nhiễm, tu các thiện pháp mà chẳng thấy tâm vô lậu cũng chẳng thấy tất cả Phật pháp, các Bồ Tát này khi thực hành Bát Nhã thậm thâm như thế năng đối với pháp vô tướng, vô tác chóng viên mãn các Ba la mật, cũng năng tròn đầy các công đức khác. Đó gọi là tu vô tướng và tu vô tướng đây là tu Bát Nhã hay tịnh đạo Bồ đề.

 

3- Tu “vô tánh” là tu Bát Nhã chăng?

 

Quý vị còn nhớ sở ngộ của Thắng Quân Phạm Chí (Phạm Thiên vương) trong đoạn kinh của phẩm “Thiên Tử”, quyển 556, ĐBN không? Tại sao Phạm Chí ngộ nhập được Nhất thiết trí trí? Vì Phạm chí đối với Nhất thiết trí trí không nắm lấy tướng. Phạm chí dùng các môn ly tướng đối Nhất thiết trí trí rất sanh tin hiểu, gọi tùy tín hành, đối tất cả pháp đều chẳng lấy bỏ, chẳng chấp đắm, cũng chẳng đắc. Do đó, mà Phạm Chí thâm nhập được Nhất thiết trí trí. Đó là điểm để chứng minh về tu ly tướng nói trên.

 

Trường hợp của Phật hoàn toàn khác, ở đây thay vì không nắm lấy tướng như Phạm Chí Thắng quân, Phật lấy vô tánh làm tự tánh nhập Bát nBa la mật, rồi viên mãn tất cả pháp Phật, nhập vào các tĩnh lự, an trụ thanh tịnh, dẫn phát các thần thông, tự tại đối các cảnh giới diệu dụng vô ngại. Rồi trong một sát na tương ưng với diệu huệ, nhập Đẳng giác, rồi vào Diệu giác, trở thành Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Muốn được như thế, phải lấy vô tánh làm Thánh đạo, lấy vô tánh làm hiện quán, đạt được chân như của tất cả pháp.

Phạm chí Thắng quân đạt Nhất thiết trí trí là dùng pháp môn ly tướng. Phật nhập được Bát nBa la mật là Phật lấy vô tánh làm tự tánh. Vậy, mới biết vào điện lễ Phật không phải chỉ có một cửa. Nói như vậy có nghĩa là có nhiều tiến trình dẫn đến giác ngộ. Phẩm “Tam Tiệm Thứ”, quyển 372 nói: “... vô tánh tức là đạo Bồ Tát Ma ha tát, vô tánh tức là hiện quán Bồ Tát Ma ha tát”.

Chúng ta ngừng thảo luận về tu vô tướng, vô tánh ở đây. Các phẩm kế tiếp còn đi xa hơn khi nói phải tu vô tướng không, vô tánh không, vô tánh tự tánh không để nói lên vạn pháp đều không, còn hấp dẫn hơn nhiều, sẽ dẫn đến chứng nhập pháp không ở tầng cao vô tiền khoáng hậu của Đại Bát Nhã Ba La Mật.

Chúng tôi cố gắng ôn lại các pháp vi diệu này để dẫn Quý vị đến cái rốt ráo không, cái “tận không”. Nếu còn ái pháp, còn nể Phật, không dám nói Phật không, Bồ Tát không, chúng sanh không và Niết Bàn cũng không thì cũng không đạt được tận không. Và một khi đạt được tận không rồi mà còn chấp tận không, thì cũng chẳng thể gọi là đệ nhất nghĩa đế không! Bát Nhã phá tướng, phá chấp triệt để đi đến “Vô Tướng Vô Đắc”. Đó là ý nghĩa thậm thâm của phẩm này./.

 

---o0o---

 

 

 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567