Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bài 62. Kinh Lăng Già giải nghĩa

05/01/202020:32(Xem: 3902)
Bài 62. Kinh Lăng Già giải nghĩa

KINH LĂNG GIÀ

GIẢI NGHĨA

Toàn Không

(Tiếp theo)

 

4). TRÍ HUỆ

     Khi ấy, Đại Huệ lại bạch Phật rằng:

- Thế Tôn! Như Thế Tôn sở thuyết, trí huệ (1) quán sát Tiền Cảnh phan duyên các pháp, chẳng thấy có một pháp để đắc, ấy chỉ là giả lập phương tiện, sở nhiếp thọ và năng nhiếp thọ phi tánh thì cả hai đều không, thế thì trí cũng chẳng thể nhiếp thọ cái thuyết "Phân biệt bất sanh", ấy gọi là Trí. Vậy cái tên TRÍ này cũng là phương tiện giả lập mà thôi. Thế nào? Thế Tôn! Vì chẳng giác được tánh của tự tướng cộng tướng khác hay chẳng khác nên chẳng đắc tướng trí ư? Hoặc vì mỗi mỗi tánh tướng của tự tướng cộng tướng tự che khuất nên chẳng đắc tướng trí ư? Hoặc vì hòn núi vách đá địa, thủy, hỏa, phong làm chướng ngại nên chẳng đắc tướng trí ư? Hoặc vì quá xa quá gần nên chẳng đắc tướng trí ư? Hoặc vì quá già quá nhỏ, mù điếc, các căn chẳng đủ nên chẳng đắc tướng trí ư?

- Thế Tôn! Nếu do chẳng giác được sự khác hay chẳng khác của tự tướng cộng tướng nên chẳng đắc tướng trí thì chẳng nên nói TRÍ, nên nói VÔ TRÍ, vì có sự "chẳng đắc" vậy. Nếu do mỗi mỗi tánh tướng của tự tướng cộng tướng tự che khuất nên chẳng đắc tướng trí thì cũng là Vô Trí, chẳng phải trí. Thế Tôn! Do có nhĩ diệm (2) nên trí sanh, chẳng phải vô tánh có thể hợp thành sở tri của nhĩ diệm mà gọi là trí. Nếu do hòn núi vách đá địa, thủy, hỏa, phong, quá xa, quá gần, quá già, quá nhỏ, mù điếc, các căn chẳng đủ nên chẳng đắc tướng trí, vậy là vô trí, cũng chẳng phải trí, vì sự "Có Trí" bất khả đắc vậy.

     Phật bảo Đại Huệ:

- Chẳng phải nghĩa VÔ TRÍ như ông nói mà cho là TRÍ. Ta chẳng nói sự phan duyên (3) ẩn lấp như thế, trí huệ chẳng đắc tướng, là theo phương tiện kiến lập, giác được tự tâm hiện lượng, hữu và vô hữu, ngoài tánh phi tánh, biết mà "SỰ" chẳng thể đắc. Vì chẳng đắc nên trí ở nơi "nhĩ diệm" chẳng sanh; nếu tùy thuận ba cửa giải thoát, trí cũng chẳng thể đắc. Nếu người chẳng vọng tưởng thì có cái trí liễu tri các tập khí hư ngụy tánh phi tánh từ vô thỉ, cái tri này phàm phu ngoại đạo chẳng thể tri. Do đó, phàm phu đối với sở ngoại cảnh, tánh tướng vô tánh, vọng tưởng chẳng dứt, vì chấp trước nhiếp thọ, kiến lập tự tâm hiện lượng nói có tướng ngã và ngã sở, mà chẳng biết tự tâm hiện lượng, nơi trí nhĩ diệm mà khởi vọng tưởng, vì vọng tưởng chẳng thể quán sát ngoài tánh phi tánh, lại dựa theo đoạn kiến của ngoại đạo.

     Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng:

1. Chẳng trụ sự phan duyên,

Và trí huệ quán sát,

Vô trí tức Chánh Trí,

Vọng cho là phi trí.

2. Nơi tánh tướng chẳng khác,

Nếu chấp theo quán sát,

Những chướng ngại xa gần,

Ấy gọi là tà trí.

3. Do lục căn chẳng đủ,

Nói trí huệ chẳng sanh.

Thật thì có nhĩ diệm,

Ấy cũng gọi tà trí.

 

GIẢI NGHĨA:

 

(1) Trí huệ: S: prajñā; P: paññā: Trí huệ thuộc về dụng của tâm giác ngộ nhận thức rõ chân tính của các pháp, từ đó có sự vận hành cắt đứt mọi hành vi tai hại dẫn tới phiền não. Trí huệ là một trong Lục ba-la-mật, là Trí Bát-nhã, là Trí.

(2) Nhĩ diệm: Là mẹ của trí, cũng gọi là cảnh của trí, pháp Ngũ minh (Y học, Khoa học, Luận lý học, Ngôn ngữ học, Kinh điển học) là các cảnh giới có năng lực sinh ra trí tuệ.

(3) Phan duyên: Là tâm bám vào cảnh khởi vọng tưởng rồi tâm vọng lại vin theo các cảnh.

 

     Đoạn 4, Mục 9, Quyển 3, Bồ Tát Đại Huệ lại thưa hỏi Phật đại ý rằng: Như Thế Tôn thuyết, Trí Huệ quán sát các cảnh trước mắt tâm bám vào đối tượng (cảnh), khởi các vọng tưởng, rồi tâm vọng vin theo các pháp (Tiền Cảnh phan duyên các pháp), chẳng thấy có một pháp để đắc; đây chỉ là giả lập phương tiện, ch năng sthọ nhận chng (phi) tánh thì cả hai đều không. Thế thì Trí cũng chẳng thể thu nhận (nhiếp thọ) cái thuyết "Phân biệt bất sinh", mà gọi là Trí, vậy cái tên Trí này cũng là phương tiện giả lập mà thôi; vì chẳng biết được tính của tướng không giới hạn ở tự tướng, mà còn cộng thông với các pháp khác (tự tướng cộng tướng) nên chẳng đắc tướng Trí. Hoặc vì mỗi tính tướng của tự tướng cộng tướng tự che khuất nên chẳng đắc tướng Trí, hoặc vì chướng ngại đất, nước, gió, lửa (hòn núi vách đá địa, thủy, hỏa, phong) nên chẳng đắc tướng Trí, hoặc vì quá xa quá gần nên chẳng đắc tướng trí, hoặc vì quá già quá nhỏ, mù điếc, các căn chẳng đủ nên chẳng đắc tướng trí. Có phải là vậy không?

 

     Bồ Tát Đại Huệ lý luận tiếp rằng: Nếu do chẳng biết được sự khác hay chẳng khác của tướng không giới hạn ở tự tướng, mà còn cộng thông với các pháp khác (tự tướng cộng tướng) nên chẳng đắc tướng trí thì chẳng nên nói TRÍ, mà chỉ nên nói VÔ TRÍ. Nếu do mỗi tính tướng của tự tướng cộng tướng tự che khuất nên chẳng đắc tướng trí thì cũng là Vô Trí, chẳng phải Trí. Mặt khác, do có mẹ của Trí (nhĩ diệm) nên Trí sinh, chẳng phải vô tính có thể hợp thành chỗ biết (sở tri) của mẹ của Trí mà gọi là Trí. Nếu do hòn núi vách đá, đất nước gió lửa, quá xa quá gần, quá già quá nhỏ, mù điếc các căn chẳng đủ nên chẳng đắc tướng Trí, vậy là Vô Trí, cũng chẳng phải Trí, vì sự "Có Trí" không thể đạt (bất khả đắc) vậy.

 

     Đức Phật giảng rằng: “- Chẳng phải nghĩa VÔ TRÍ như ông nói mà cho là TRÍ. Ta chẳng nói sự phan duyên (3) ẩn lấp như thế, trí huệ chẳng đắc tướng, là theo phương tiện kiến lập, giác được tự tâm hiện lượng, hữu và vô hữu, ngoài tánh phi tánh, biết mà "SỰ" chẳng thể đắc”. Nghĩa là chẳng phải nghĩa VÔ TRÍ như Bồ Tát Đại Hunói mà cho là TRÍ, Ngài chẳng nói sự dính mắc bám víu vào cảnh sinh ra vọng tưởng rồi tâm vọng lại vin theo cảnh (phan duyên) ẩn lấp như thế. Trí Huệ chẳng đắc tướng theo phương tiện thấy làm thành (kiến lập), biết được sự đo lường phân biệt của tâm (giác được tự tâm hiện lượng) có và không có, ngoài ý niệm một bản tính cố hữu là một nhận thức sai lầm (tánh phi tánh), biết như thế nên chẳng thể đạt (đắc).

 

     Đức Phật giảng tiếp: “Vì chẳng đắc nên trí ở nơi "nhĩ diệm" chẳng sanh; nếu tùy thuận ba cửa giải thoát, trí cũng chẳng thể đắc. Nếu người chẳng vọng tưởng thì có cái trí liễu tri các tập khí hư ngụy tánh phi tánh từ vô thỉ, cái tri này phàm phu ngoại đạo chẳng thể tri”. Nghĩa là chẳng đạt nên ở nơi mẹ của Trí (Nhĩ diệm) chẳng sinh Trí, nếu tùy thuận Không, Vô tướng và Vô tác (ba cửa giải thoát), Trí cũng chẳng thể đạt. Nếu người chẳng ý niệm nhận thức tưởng tượng ra những hình ảnh cảm giác không phù hợp với sự thật (vọng tưởng) thì có cái Trí hiểu biết (trí liễu tri) các tập khí hư ngụy ý niệm một bản tính cố hữu là một nhận thức sai lầm (tánh phi tánh) từ vô thủy, cái biết (tri) này phàm phu ngoại đạo chẳng thể biết.

 

     Ngài dạy: “Do đó, phàm phu đối với sở ngoại cảnh, tánh tướng vô tánh, vọng tưởng chẳng dứt, vì chấp trước nhiếp thọ, kiến lập tự tâm hiện lượng nói có tướng ngã và ngã sở, mà chẳng biết tự tâm hiện lượng, nơi trí nhĩ diệm mà khởi vọng tưởng, vì vọng tưởng chẳng thể quán sát ngoài tánh phi tánh, lại dựa theo đoạn kiến của ngoại đạo”.  Nghĩa là phàm phu đối với lục trần (ngoại cảnh), chỉ là đối đãi giả danh (tánh) là hình dạng hình thức (tướng) đều là không thật là không (vô tính), mà từ đó họ khởi sinh những ý niệm nhận thức những hình ảnh cảm giác không ngừng nghỉ (vọng tưởng chẳng dứt). Họ chấp thật sự thấy nghe cảm thọ, thụ nhận (nhiếp thọ), lập tâm nhận biết chưa suy xét đã nhận thức đối tượng (tự tâm hiện lượng) nên họ chấp thật có cái thân ta và cái của ta (tướng ngã và ngã sở). Họ chẳng biết tâm họ chưa suy xét đã nhận thức đối tượng, nên nơi mẹ của Trí (trí Nhĩ diệm) khởi vọng tưởng; do vọng tưởng chẳng thể quán sát ý niệm một bản tính là một nhận thức sai lầm (ngoài tánh phi tánh), vì thế cho nên họ dựa theo cái thấy đoạn diệt (đoạn kiến) của ngoại đạo.

 

     Khi ấy, Thế Tôn lập lại nghĩa này bằng kệ rằng:

1. Chẳng trụ sự phan duyên,

Và trí huệ quán sát,

Vô trí tức Chánh Trí,

Vọng cho là phi trí.

     Nghĩa là chẳng bám vào cảnh sinh vọng tưởng rồi tâm vọng lại vin vào các cảnh (trụ sự phan duyên) và sự thấy phân biệt (trí huệ quán sát), do nếu không so đo phân biệt (vô trí) tức là trí huệ chân chính (Chính Trí), nên vọng là chẳng phải trí.

2. Nơi tánh tướng chẳng khác,

Nếu chấp theo quán sát,

Những chướng ngại xa gần,

Ấy gọi là tà trí.

     Nơi tánh chỉ là đối đãi giả danh, nơi tướng chỉ là hình dạng hình thức không thật nên chẳng khác nhau, nếu chấp theo sự thấy (quán sát), do những chướng ngại xa gần nên thấy sai, gọi là tà trí.

3. Do lục căn chẳng đủ,

Nói trí huệ chẳng sanh.

Thật thì có nhĩ diệm,

Ấy cũng gọi tà trí.

     Do sáu căn chẳng đủ, nên nói trí huệ chẳng sinh; thật ra dù có mẹ của trí (nhĩ diệm) cũng gọi là tà trí vì vọng tưởng sinh vậy.

 

MỤC 10:

THUYÊT THÔNG

VÀ TÔNG THÔNG:

 (Còn tiếp)

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com