Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bài 65. Kinh Lăng Già giải nghĩa

16/01/202020:50(Xem: 4080)
Bài 65. Kinh Lăng Già giải nghĩa

KINH LĂNG GIÀ

GIẢI NGHĨA

Toàn Không

(Tiếp theo)

 

4). NHIẾP THỌ THAM

     DỤC VÀ PHÁP:

 

     Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng:

- Thế Tôn! Nhiếp thọ tham dục và pháp có nghĩa cú gì?

     Phật bảo Đại Huệ:

- Lành thay, lành thay! Ngươi khéo vì chúng sanh đời vị lai tư duy xin hỏi nghĩa cú như thế. Ta sẽ vì người mà thuyết, hãy chú ý nghe và khéo ghi nhớ.

     Đại Huệ Bồ Tát bach Phật rằng:

- Cúi xin thọ giáo.

     Phật bảo Đại Huệ:

- Đối với nghĩa THAM, có thủ có xả, hoặc ham tiếp xúc hoặc ham mùi vị, dính mắc ngoại trần, đọa tà kiến nhị biên, do đó luân hồi tương tục, lại sanh ngũ ấm, sanh, lão, bệnh, tử, lo, buồn, khổ não, các thứ nghiệp khổ đều từ tham ái sanh khởi, đều do gần gũi nhiễm tập Thế Luận, thành kẻ Thế Luận. Ta và chư Phật nói là THAM, ấy gọi nhiếp thọ tham dục mà chẳng nhiếp thọ pháp.

- Đại Huệ! Thế nào là Nhiếp Thọ Pháp? Là khéo thấu rõ tự tâm hiện lượng, thấy tướng nhân vô ngã và pháp Vô Ngã thì vọng tưởng chẳng sanh, khéo biết từng bậc tiến lên chư Địa của Bồ Tát, lìa tâm, ý, ý thức, được tất cả chư Phật trí huệ quán đảnh, trọn vẹn nhiếp thọ Thập Vô Tận Cú, nơi tất cả pháp cũng chẳng có mở mang tự tại, ấy gọi là PHÁP, nghĩa là chẳng đọa tất cả kiến chấp, tất cả hư ngụy, tất cả vọng tưởng, tất cả tánh tướng, tất cả nhị biên, v.v... Đại Huệ! Có nhiều hạng si mê ngoại đạo nơi nhị biên, hoặc thường hoặc đoạn, chẳng phải người có trí huệ. Chấp thọ Vô Nhân Luận thì sanh khởi thường kiến, chấp ngoại nhân hoại, nhân duyên phi tánh thì sanh khởi đoạn kiến. Đại Huệ! Ta chẳng thấy sanh, trụ, diệt, nên nói là PHÁP. Đại Huệ! Ấy gọi là tham dục và pháp, ông và các Đại Bồ Tát cần nên tu học.     

     Khi ấy, Thế Tôn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng:

1. Tất cả thế gian luận

Là ngoại đạo vọng thuyết.

Vọng thấy tác sở tác,

Thuyết họ chẳng tự thông.

2. Duy nhất Tự Tông Ta,

Lìa nơi tác sở tác.

Vì các đệ tử thuyết,

Xa lìa những Thế Luận.

3. Tâm Lượng chẳng thể thấy,

Nhiếp sở nhiếp phi tánh.

Chẳng quán sát hai tâm,

Đoạn thường thảy đều lìa.

4. Ngoại đạo tâm lưu chuyển.

Ta gọi là Thế Luận.

Người vọng tưởng chẳng chuyển,

Người ấy thấy tự tâm,

5. LAI thì có sự sanh,

KHỨ thì sự chẳng hiện.

Thấu rõ việc khứ lai,

Thì vọng tưởng chẳng khởi.

6. Hữu thường và vô thường,

Năng tác và sở tác,

Đời này hay đời sau,

Đều là Thế Luận Thông.

 

 GIẢI NGHĨA:

 

     Đoạn 4, Mục 1, Quyển 3 này, Bồ Tát Đại Huệ thỉnh Phật giảng ý nghĩa nhiếp thọ tham dục và pháp, Đức Phật khen Bồ Tát Đại Huệ vì chúng sinh đời sau, tư duy mà hỏi, Ngài giảng đại ý:

 

1- NHIẾP THỌ THAM:   

 

   Đối với nghĩa THAM, có chấp giữ (thủ) có từ bỏ (xả), hoặc ưa tiếp xúc hoặc ham mùi vị, dính mắc ngoại trần, chấp tà kiến hai bên (nhị kiến), do đó luân hồi không dứt. Lại sinh chấp thật dung mạo (Sắc), cảm giác (Thụ), nghĩ nhớ (Tưởng), tạo tác (Hành), so đo phân biệt (Thức) (Ngũ ấm), nên phải sinh già bệnh chết, lo buồn, khổ não. Các thứ nghiệp khổ đều từ tham ái sinh khởi, do gần gũi nhiễm tập Thế gian Luận, thành kẻ Thế Luận. Có nhiều hạng si mê chấp hai bên (nhị biên) như chấp có chấp không, chẳng phải người có trí huệ; chấp Vô Nhân Luận thì sinh khởi thường hằng (thường kiến), chấp người chết là hết chẳng còn gì, hoặc chấp nhân duyên không có (chẳng tính) thì sinh khởi đoạn diệt (đoạn kiến). Vì vậy cho nên Ngài và Chư Phật nói: “THAM là nhiếp thọ tham dục mà chẳng nhiếp thọ pháp”.

 

2- NHIẾP THỌ PHÁP:

 

     Đối với người thu nhận gìữ gìn pháp (Nhiếp Thọ Pháp) là khéo thấu rõ biết được sự nhận biết phân biệt sai của khái niệm chưa suy xét (tự tâm hiện lượng), thấy tướng hiện hữu của con người chỉ là hợp thể của Ngũ uẩn, không có một chủ thể nào là thường hằng (Nhân Vô ngã) và hết thảy pháp hữu vi, vô vi, không có thực thể của cái ta, đều nương nhân duyên mà sinh, dựa nhau mà tồn tại, không có thể tính thực (Pháp Vô ngã) thì những hình ảnh nhận thức sai sự thật (vọng tưởng) chẳng sinh, khéo biết từng bậc tiến lên các bậc (Địa) của Bồ Tát. Lìa tướng các hiện tượng vạn vật thế giới (lià tâm), dứt khởi niệm liên tục (dứt ý), bỏ phân biệt tương tục (bỏ ý thức) hư vọng, sẽ được tất cả trí huệ của Chư Phật, ấy gọi là PHÁP, nghĩa là chẳng rơi vào (đọa) kiến chấp hư ngụy, vọng tưởng sai lầm, tính tướng hai bên, v.v.... Đây gọi là tham dục và pháp, người tu cần nên tu học.

 

     Đức Phật lập lại nghĩa này bằng kệ với nghĩa:

1. Tất cả thế gian luận

Là ngoại đạo vọng thuyết.

Vọng thấy tác sở tác,

Thuyết họ chẳng tự thông.

2. Duy nhất Tự Tông Ta,

Lìa nơi tác sở tác.

Vì các đệ tử thuyết,

Xa lìa những Thế Luận.

     Tất cả thế gian luận là của ngoại đạo vọng thuyết, do vọng thấy chức năng việc làm và điều được tạo ra cho sự thành tựu mục đích (tác sở tác), thuyết này chẳng tự thông; chỉ có Tự Tông Phật lìa tạo tác và chỗ tạo tác, các đệ tử của Ngài nên xa lìa Thế luận.

 

3. Tâm Lượng chẳng thể thấy,

Nhiếp sở nhiếp phi tánh.

Chẳng quán sát hai tâm,

Đoạn thường thảy đều lìa.

4. Ngoại đạo tâm lưu chuyển.

Ta gọi là Thế Luận.

Người vọng tưởng chẳng chuyển,

Người ấy thấy tự tâm,

     Tâm chẳng thể thấy biết phân biệt sai giữa khái niệm và sự thu nhận nơi không tính (Nhiếp sở nhiếp phi tánh), chẳng chấp hai bên (quán sát hai tâm), chấp đoạn thường thảy đều lìa. Tâm ngoại đạo chuyển đổi, Phật gọi là Thế Luận; những hình bóng nhận thức sai lầm chẳng sinh khởi (vọng tưởng chẳng chuyển) gọi là người thấy bản tâm.

 

5. LAI thì có sự sanh,

KHỨ thì sự chẳng hiện.

Thấu rõ việc khứ lai,

Thì vọng tưởng chẳng khởi.

6. Hữu thường và vô thường,

Năng tác và sở tác,

Đời này hay đời sau,

Đều là Thế Luận Thông.

     Vị LAI thì có sự việc sinh nhưng chưa tới, qúa KHỨ thì sự việc chẳng hiện diện, thấu rõ việc khứ lai thì những hình bóng nhận thức sai lầm không phù hợp (vọng tưởng) chẳng sinh khởi; thường và vô thường, tạo tác và việc tạo tác (năng tác và sở tác) hoặc đời này và đời sau, tất cả đều là Thế Luận Thông.

MỤC 11:

LUẬN VỀ NIẾT BÀN:

 (Còn tiếp)

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com