Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

137. Kinh Phân Biệt Sáu Xứ

19/05/202011:35(Xem: 11164)
137. Kinh Phân Biệt Sáu Xứ

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majhima  Nikàya )


Tập IV
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : [email protected]


137. Kinh PHÂN BIỆT SÁU XỨ

( Salàyatanavibhanga sutta )

 

Như vậy, tôi nghe :

 

          Một thời, Đức Thế Tôn Thiện Thệ 

          An trú tại Xá-Vệ thành này

              Sa-Vát-Thí (1) cũng là đây

       Kỳ Viên Tinh Xá  hôm mai tịnh, hòa

          Còn có tên Chê-Ta-Va-Ná  (2)

          Khu vườn do Trưởng giả tên là

              A-Na-Thá-Pin-Đi-Ka  (3)

       Tức Cấp-Cô-Độc , thuần hòa tín gia

          Mua lại từ Kỳ Đà thái tử  (4)

          Để cúng dường Điều Ngự Thế Tôn

              Cùng với Tăng đoàn Sa-môn

     __________________________

 

(1) : Thành Xá-Vệ – Savatthi  – là thủ phủ của nước Kosala, do vua 

       Ba-Tư-Nặc ( Pasenadi ) trị vì.

(2) & (3) : Kỳ Viên Tinh Xá – Jetavana Vihàra,  do Trưởng giả Tu-

     Đạt (Sudatta ) thường được gọi là Cấp Cô Độc (Anathapindika)

    dâng cúng. 

(3) : Thái tử Kỳ-Đà – Jeta , là con vua Ba-Tư-Nặc, là chủ nhân của

    khu vườn mà ông Cấp Cô Độc muốn mua để dâng cúng làm Tinh

   Xá. Thái tử thì không muốn bán, ông Sudatta thì quyết tâm muốn

   mua vì thấy khu vườn rất thích hợp. Bị nài nỉ mãi nên Thái tử mới

   nói để ông Trưởng giả bỏ ý định mua : trải vàng tới đâu thì bán

  tới đó. Không ngờ ông Trưởng giả hoan hỷ cho chở vàng đến lót

  khắp vườn. Cảm phục trước tâm đạo nhiệt thành đó nên Thái tử

  xin dâng cúng luôn toàn bộ cây cối trong vườn.   Do đó Tinh Xá

  có tên là Jetavanànàthapindikàràma  – Kỳ thọ Cấp-cô-độc viên

 ( vườn Cấp-cô-độc, cây Kỳ-đà ).   Nhưng sau Thái tử bị giết bởi người anh em khác mẹ là Adudubbha (Tỳ-Lưu-Ly) để cướp ngôi. 

 

 

       Có nơi hoằng hóa pháp môn nhiệm huyền.

          Lúc bấy giờ Phật liền cho gọi

          Chư Tỷ Kheo và nói như vầy :

 

        – “ Các Tỷ Kheo ! Hãy nghe đây ! ”.

 

       Chúng Tăng vâng đáp lời Ngài truyền ra.

          Đức Phật Đà trang nghiêm thuyết giảng :

 

    – “ Các Tỷ Kheo ! Ta giảng giải ra

             ‘Phân biệt sáu xứ’ sâu xa

       Các ông hãy lắng nghe và nghiệm suy ”.

 

    – “ Bạch đấng Chánh Biến Tri ! Vâng ạ ! ”.

 

          Chúng Tăng đã vâng đáp lời Ngài.

          Thế Tôn liền thuyết giảng ngay :

 – “ Có ‘sáu nội xứ’ ở đây phải tường.

         ‘Sáu ngoại xứ’ phải đương cần biết.

          Sáu ‘thức thân’ cần thiết biết đây

              Sáu ‘xúc thân’ cần biết ngay,

      ‘Ý hành mười tám’ phải rày biết tinh,

         ‘Ba mươi sáu hữu tình’ các loại

          Cũng cần phải hiểu biết đủ đầy.

              Tại đây, y cứ cái này

       Và cũng đoạn tận cái này sâu xa.

          Còn có ba niệm xứ bậc Thánh

          Phải thực hành chân chánh trải qua

              Bậc Thánh mới xứng đáng là

       Bậc Đạo Sư diễn giả mà chúng nhân

          Hằng kính phục. Trong phần các bậc

          Huấn luyện sư, chính thật vị này

              Đáng được gọi là bậc Thầy

       Vô thượng Điều-ngự-sư đây tuyệt vời,  

          Điều phục người đáng được điều phục.

          Đây là mục tổng thuyết về phần

             ‘Phân biệt sáu xứ’ chánh chân

       Khi được nói đến về phần nêu trên.

 

         ‘Sáu nội xứ’ phải nên cần biết

          Do duyên gì cần thiết nói ra ?

              Nhãn & nhĩ & tỷ & thiệt xứ, và 

       Thân xứ, ý xứ. Đó là duyên đây.

          Được nói ngay ‘sáu nội xứ’ đó.

 

          Còn khi có nói đến điều này :  

             ‘Sáu ngoại xứ’ phải biết ngay,

       Duyên gì nói đến điều đây như vầy ?

          Sắc xứ này cùng thanh & hương xứ,

          Vị & xúc xứ, pháp xứ sáu phần.

              Khi ta được nghe đến rằng :

       Có ‘sáu ngoại xứ’ phải cần biết đây

          Do duyên này được nói như vậy.

 

          Khi được nói : ‘Sáu loại thức thân’

              Cần nên biết, phải hiểu rằng

       Do duyên gì nói đến phần ‘thức thân’ ?  

          Nhãn & nhĩ & tỷ & thiệt & thân thức ấy

          Cùng ý thức ; chính đấy là duyên,

              Sáu thức thân phải biết liền.

 

       Còn khi nói đến từ duyên nào mà

         ‘Sáu xúc thân’ của ta cần biết ?

          Nhãn & nhĩ & tỷ cùng thiệt xúc, và

              Thân xúc, ý xúc. Khi mà 

       Nói đến : Sáu xúc thân ta phải tường

          Do duyên này nên thường nói vậy.

          Khi nói : ‘Mười tám loại ý hành

 

              Cần phải biết cho thật rành’,

       Duyên gì nói đến ý hành ở đây ?

 

          Khi ‘mắt’ này thấy ‘sắc’ đủ thứ

          Ý theo sắc trú xứ hỷ này,

              Theo sắc trú xứ ưu ngay,

       Theo sắc trú xứ xả đây tức thì.

 

          Và sau khi ‘tai’ nghe được ‘tiếng’…

         ‘Mũi’ ngửi ‘hương’, ‘lưỡi’ nếm ‘vị’ vầy,

              Sau khi ‘thân’ cảm ‘xúc’ đầy,

       Khi ‘ý’ nhận thức ‘pháp’ này được nêu…

          Ý chạy theo pháp khởi lên hỷ

          Ý chạy theo pháp khởi ưu liền,

              Và xả theo pháp khởi lên.

       Như vậy tất cả có nên, tựu thành

          Sáu hỷ hành, ưu hành cũng sáu

          Và có sáu xả hành, như vầy

              Đó chính là do duyên này,

       Ý hành mười tám biết ngay đủ đầy,

          Do duyên này nói đến như vậy.

 

          Còn ‘Ba mươi sáu loại hữu tình’

              Cần phải biết. Duyên gì sinh

       Để nói như vậy ? Quá trình xảy ra 

          Hỷ liên hệ tại gia có sáu,

          Hỷ có sáu liên hệ xuất ly.

              Sáu ưu liên hệ xuất ly,

       Sáu ưu liên hệ tại gia, cùng là

          Xả liên hệ xuất ly có sáu,

          Xả có sáu liên hệ tại gia,

              Ý nghĩa là chi đề ra ?

       Sáu hỷ liên hệ tại gia này, và

 

          Hỷ khởi lên, hoặc là do nó

          Nhận được hay thấy có nhận vào.

 

              Sắc do mắt nhận thức mau

       Khả ái, khả hỷ, dạt dào lạc an

          Liên hệ sang đến thế vật đó

          Hoặc do nhớ những gì nhận rồi,

              Đã qua, đã diệt, mất rồi.

       Loại hỷ như vậy ta thời gọi ra :

         ‘Hỷ liên hệ tại gia’ là nó.

 

          Còn khi có hỷ khởi lên, và  

              Hoặc do nhận được, hay là

       Thấy sự nhận được tiếng là do tai…

          Hương do mũi ở đây nhận thức,

          Vị do lưỡi nhận thức đủ đầy,

              Xúc do thân nhận thức ngay,

       Do ý nhận thức pháp này gần xa,

          Khả ái, khả hỷ và khả lạc,

          Khả ý, liên hệ các vật chi

              Hoặc do nhớ được những gì

       Nhận được về trước, đã đi qua rồi,

          Đã diệt rồi và đã biến hoại.

          Như vậy gọi Ưu Hỷ trải qua

              Thường liên hệ đến tại gia.

 

       Còn sáu hỷ thế nào mà liên quan  

          Đến xuất ly ? Khi đang biết chắc

          Là vô thường các sắc pháp này ,

              Ly tham, biến diệt, hoại ngay.

       Nghĩ rằng : ‘Các sắc pháp này ngày xưa

          Và sắc pháp sớm trưa hiện tại

          Tất cả sắc pháp ấy vô thường,

 

              Khổ và biến hoại, tai ương,                    

       Sau khi như thật tỏ tường thấy ra

          Như vậy, và với chánh trí tuệ

          Có hỷ khởi lên thế, là chi ?

              Khi hỷ liên hệ xuất ly ?

       Thế nào liên hệ mọi thì sáu ưu

          Với tại gia ? Có ưu đã khởi

          Hoặc do bởi không nhận được này

              Thấy sự không nhận được này,

       Sắc do mắt nhận thức ngay, đó là

          Khả ái, khả hỷ và khả lạc

          Khả ý, liên hệ các vật chi

              Hoặc do nhớ được những gì

       Không nhận được trước, đã đi qua rồi,

          Đã diệt rồi và đã biến hoại

          Như vậy gọi là Ưu trải qua

             ‘Ưu liên hệ đến tại gia’.

       Thế nào sáu ưu ấy mà liên quan 

          Đến xuất ly ? Khi đang biết chắc

          Là vô thường các sắc pháp này

              Ly tham, biến diệt, hoại ngay.

       Sau khi như thật thấy vầy, vị trên

          Có chánh trí, khởi lên ước muốn

          Với vô thượng giải thoát, nghĩ là :

             ‘Khi nào ta chứng đạt, và

       An trú trong xứ (A-Da-Ta-Nà)

          Mà bậc Thánh trải qua chứng đạt,

          Trú an lạc. Do ước muốn đây

              Với vô thượng giải thoát vầy,

       Do duyên ước muốn, Ưu này khởi lên

          Loại ưu trên dược gọi, được kể

 

         ‘Ưu liên hệ xuất ly’ vân… vân…

 

              Sau khi biết được ‘lục trần’

      (Sắc, thinh, xúc, pháp và phần vị, hương)

          Sáu trần là vô thường, biến hoại,

          Ly dục lại biến diệt. Nghĩ ngay :

             ‘Sáu trần xưa kia, hiện nay

       Đều khổ, biến hoại, diệt ngay, vô thường

          Khi như thật tinh tường thấy thế’,

          Quán với chánh trí tuệ, vị này

              Liền khởi lên ước muốn ngay

       Với vô thượng giải thoát đây. Nghĩ là :

         ‘Khi nào ta có thể chứng đạt

          Trú an lạc trong ‘xứ’, khi mà

              Bậc Thánh đang chứng đạt, và

       An trú trong ấy. Đó là vì sao ?

         ‘Ước muốn vào vô thượng giải thoát’.

          Ưu khởi phát do ước muốn ni

              Gọi : ‘Ưu liên hệ xuất ly’.

       Sáu ưu liên hệ đồng thì xuất ly.

 

          Thế nào khi ‘sáu xả’ liên hệ  

          Đến tại gia ? Sự thể là vì

              Khi người ám độn, ngu si

       Phàm phu, con mắt thấy gì ở đây ?

          Thấy sắc này với con mắt ấy,

          Xả khởi dậy của một kẻ ngu

              Là người vô văn phàm phu

       Không chinh phục được âm u não phiền,

          Không chinh phục quả duyên dị thục,

          Không thấy mục nguy hiểm sâu xa,

              Loại xả này không vượt qua         

 

       Khỏi sắc pháp. Nên gọi ra xả là

          Liên hệ đến tại gia. Cũng thế

          Khi một kẻ ám độn, ngu si,

              Phàm phu, nghe tiếng mọi thì

       Với tai. Hay mũi họ thì ngửi hương,

          Nếm vị thường với lưỡi của họ,

          Cảm xúc với thân đó, hay là

              Với ý nhận thức pháp ra…

       Vô văn phàm tục  xả mà khởi lên

          Không chinh phục được quả dị thục

          Không chinh phục được phiền não này,

              Không thấy nguy hiểm dẫy đầy

       Xả ấy không vượt qua ngay các trần,

          Do vậy, cần được gọi, được kể

          Xả ‘liên hệ tại gia’ sáu phần.

 

              Ở đây, thế nào nói rằng :  

      ‘Sáu xả liên hệ đến phần xuất ly’ ?

          Ngay sau khi biết sắc, vị, xúc,

          Và tiếp tục biết pháp, thinh, hương

              Là khổ, biến hoại, vô thường,

       Ly tham, biến diệt. Hiểu tường, nghĩ ngay :

         ‘Các sắc pháp, thinh & hương & vị & xúc

          Và các pháp chung cục vô thường,

              Khổ não, biến hoại, tai ương,

       Khi như thật thấy tinh tường điều đây

          Với chánh trí tuệ này, xả khởi,

          Xả ấy gọi ‘liên hệ xuất ly’,

              Sáu xả liên hệ xuất ly.

 

       Còn ‘ba mươi sáu loại chi hữu tình’ 

          Cần phải biết cho tinh, từng loại

 

          Do duyên này, được nói đến vầy.

              Khi được nói đến ở đây :

      ‘Do y cứ vào cái này, diệt ngay

          Vào cái này’. Duyên gì nói vậy ?

          Các Tỷ Kheo ! Ở đấy sẵn sàng

              Do duyên sáu hỷ, liên quan

       Đến xuất ly, diệt hoàn toàn, vượt qua

          Liên hệ đến tại gia sáu hỷ.

          Các Tỷ Kheo ! Nghe kỹ suy nguyên

              Do y cứ và do duyên

       Sáu ưu, sáu hỷ cũng liền liên quan

          Đến xuất ly, hoàn toàn dứt cả,

          Vượt sáu ưu, sáu xả liên quan

              Đến tại gia. Vậy rõ ràng

       Sự đoạn tận chúng, vượt ngang chúng rồi. 

 

          Các Tỷ Kheo ! Do nơi y cứ 

          Do duyên tự sáu hỷ, đồng thì

              Sáu xả liên hệ xuất ly,

       Dứt, vượt khỏi sáu ưu vì liên quan

          Đến xuất ly. Nói sang như vậy

          Là sự ấy đoạn tận chúng thôi,

              Là sự vượt qua chúng rồi.

       Do y cứ, do duyên nơi mọi thì

          Xả liên hệ xuất ly, đình chỉ

          Vượt qua cả sáu hỷ liên quan

              Đến xuất ly. Nên hoàn toàn

       Là sự đoạn tận, vượt ngang chúng rồi.

 

          Các Tỷ Kheo ! Có xả đa diện 

          Và y cứ đa diện một phương,

              Có xả nhất diện dựa nương        

 

 

       Nhất diện đó. Hiểu tận tường ra sao

          Xả đa diện dựa vào đa diện ?

          Như có xả đối diện lục trần

              Sắc pháp, thinh pháp cùng phần

       Hương & vị & xúc & pháp. Ta cần hiểu qua

          Như vậy là thuộc xả đa diện

          Y cứ vào đa diện, hiểu mau.

 

              Còn xả nhất diện là sao ?

       Y cứ nhất diện thế nào ở đây ?

          Có loại xả chỉ ngay y cứ

         ‘Hư không vô biên xứ’ chủ trương,

              Nương ‘Thức vô biên xứ’ thường,

      ‘Vô sở hữu xứ’ xả nương tức thì,

          Nương ‘Phi tưởng phi phi tưởng xứ’.

 

          Các Phích-Khú ! Là xả thuộc vào

              Nhất diên - nhất diện nương mau.

       Các ông ! Do y cứ vào, do duyên

          Xả nhất diện, xả nguyên y cứ

          Vào nhất diện và tự diệt ngay,

              Vượt qua xả đa diện này,

       Xả y cứ đa diện đây đồng thì.

          Như vậy thì sự diệt xả ấy

          Là như vậy, vượt qua xả mau.

 

              Các ông ! Do y cứ vào

       Sự không tham dục, từ đầu do duyên

          Không tham dục và liền diệt cả,

          Vượt qua xả nhất diện đó ngay.

              Xả y cứ nhất diện này

       Như vậy là sự diệt ngay xả này

          Là vượt qua xả đây. Nói tới :

 

         ‘Tại đây bởi y cứ cái này

              Và cũng đoạn tận cái này’

       Chính do duyên đó, như vầy nói ra.

 

          Khi được nói : ‘Có ba niệm xứ

          Một bậc Thánh phải tự thực hành,

              Niệm xứ ấy có thực hành

       Mới xứng được gọi trọn lành Đạo Sư,

          Vị thuần từ giảng cho đồ chúng’.

          Do duyên gì nói cứng như vầy ?

 

              Ở đây, các Tỷ Kheo này !

       Bậc Đạo Sư thuyết pháp đây rõ ràng

          Cho các hàng đệ tử tinh tấn,

          Vì tử mẫn, đem hạnh phúc cho,

              Vì lòng thương tưởng học trò,

       Bảo : ‘Đây là hạnh phúc to lớn vầy,

          An lạc này các ông được hưởng’.

          Một số đệ tử vướng tâm mê

              Không lóng tai để lắng nghe,

       Tâm họ không an trú về trí chân

          Hành động ngược với phần lời dạy

          Của bậc Đạo Sư ấy. Ở đây

              Như Lai không vui điều này

       Không có cảm giác điều này hỷ hoan,

          Nhưng hoàn toàn Ta không dao động,

          Chánh niệm, sống tỉnh giác, an hòa.

 

              Này các Tỷ Kheo ! Đây là 

       Niệm xứ thứ nhất để mà hành qua.

          Của một bậc Thánh, và nếu có

          Thực hành niệm xứ đó. Vị này

              Mới xứng Đạo Sư trí tài

 

       Diễn giảng cho đồ chúng đây đủ đầy.

          Lại nữa, này Chúng Tăng ! Mặt khác

          Bậc Đạo Sư thuyết pháp suốt thông

              Cho các đệ tử, do lòng

       Từ mẫn, mong hạnh phúc trong hành trình

          Của đệ tử để sinh lợi lạc

 

          Một số đệ tử khác lóng tai

              Khéo nghe, an trú tâm hoài

       Vào chánh trí, nhưng đi ngoài lời răn

          Của Đạo Sư, không hằng thực hiện.

          Các Tỷ Kheo ! Thuộc diện như vầy

              Ta không hoan hỷ điều này,

       Không có cảm giác điều này hỷ hoan.

 

          Sau khi bỏ hai đàng ý nghĩ

          Hoan hỷ, không hoan hỷ cả hai,

              Như Lai trú xả đủ đầy,

       Chánh niệm, tỉnh giác. Điều này ở đây

          Là niệm xứ thứ hai, mãi mãi

          Một bậc Thánh cần phải thực hành,

              Niệm xứ ấy có thực hành

       Mới xứng là Đạo Sư lành đáng phô

          Để diễn giảng cho đồ chúng vậy.

 

          Các Tỷ Kheo ! Được thấy có vì

              Vì lòng bi mẫn, từ bi

       Vì sự hạnh phúc và vì lòng thương

          Thuyết pháp thường cho các đệ tử

          Số đệ tử khéo nghe, lóng tai

              Trú tâm và chánh trí hoài

       Và không đi ngược lời ngài Đạo Sư.

          Các Tỷ Kheo ! Như Lai bản ý

 

          Hoan hỷ, cảm giác hỷ hoan ngay.

              Sống không dao động như vầy

       Chánh niệm, tỉnh giác. Điều đây chính là

          Niệm xứ thứ ba mà bậc Thánh

          Phải thực hành chân chánh đủ đầy,

              Có thực hành niệm xứ này

       Mới xứng là Đạo Sư tài trí thay !

          Diễn giải ngay cho đồ chúng vậy.

 

          Khi nói : ‘Niệm xứ ấy có ba

              Bậc Thánh phải thực hành qua

       Có thực hành đúng mới là xứng danh

          Đạo Sư lành dạy cho đồ chúng’

          Do duyên này, nói đúng như vầy.

 

              Khi được nói đến điều này : 

      ‘Trong các Huấn-luyện-sư đây, vị từ

          Được gọi ‘Điều-ngự-sư vô thượng’

          Điều phục người đáng hưởng điều là

             ‘Đáng được điều phục’ trải qua,

       Do duyên gì được nói ra như vầy ?

          Một con voi bị nài chế ngự

          Là một vị ‘Điều ngự tượng sư’,

              Dẫn dắt để nó chạy từ

       Phương đông, nam, bắc hoặc từ phương tây.

 

          Hoặc ngựa hay do sự điều phục

          Của ‘Điều phục mã sư’ có tài

              Hoặc một con bò ở đây

       Được ‘Điều ngự ngưu sư’ hay, giỏi nghề

          Dẫn dắt chỉ chạy về một hướng

          Hướng bắc, nam hoặc hướng đông, tây.

              Cũng vậy, các Tỷ Kheo này !

 

       Một người do được Như Lai, Phật Đà

          Chánh Đẳng Giác, Đại A-La-Hán

          Dẫn dắt, chạy khắp mãn bốn phương

              Có sắc, thấy sắc pháp tường

       Là phương thứ nhất. Không thường có ra

          Tưởng nội sắc, thấy qua ngoại sắc,

          Đó đích thật là phương thứ hai.

              Nghĩ đến thanh tịnh tràn đầy

       Chú tâm trên ấy, phương này thứ ba.

 

          Rồi vượt qua hoàn toàn sắc tưởng

          Diệt trừ đối-ngại-tưởng trải qua

              Không nghĩ sai-biệt-tưởng, và

       Nghĩ rằng : Chính ‘Hư không là vô biên’

          Chứng đạt, trú Không Vô Biên Xứ

          Đó chính là phương thứ tư đây.

 

              Vượt Không vô biên xứ này,

       Nghĩ : ‘Thức là vô biên’ vầy, chứng ngay,

          An trú đây : Thức Vô Biên Xứ

          Phương này là phương thứ năm an.

              Vượt qua một cách hoàn toàn

       Thức Vô Biên Xứ, nghĩ sang điều là

         ‘Không có gì cả’ và chứng, trú

          Vào Vô Sở Hữu Xứ nơi này,

              Đó là phương thứ sáu đây.

 

       Vượt Vô sở hữu xứ ngay tức thì

          Chứng Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ

          Và an trú. Phương thứ bảy ni.

              Tưởng xứ Phi tưởng phi phi

       Hoàn toàn vượt khỏi, rồi thì chứng sang

          Và trú an Diệt Thọ Tưởng Định                      

 

          Phương thứ tám là chính điều đây.

 

              Tóm lại, các Tỷ Kheo này !

       Một người đáng được Như Lai, Phật Đà

          Chánh Đẳng Giác, Đại A-La-Hán,

          Dẫn dắt chạy khắp mãn tám phương.

              Khi được nói đến tỏ tường :

      ‘Trong các Huấn-luyện-sư thường an như

          Được gọi ‘Điều ngự sư vô thượng’,

          Là vị điều phục, hướng mục tiêu,

              Người đáng điều phục lợi nhiều,

       Do duyên ấy, được mọi điều như trên ”.

 

          Đức Thế Tôn an nhiên thuyết giảng 

          Pháp vi diệu, viên mãn, minh quang,

              Chư Tỷ Kheo trong đạo tràng

       Hoan hỷ tín thọ lời vàng Thế Tôn ./-

 

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  ( 3 L )

 

*

*  *

 

(  Chấm dứt Kinh số 137 :  PHÂN BIỆT SÁU XỨ  –  SALÀYATANAVIBHANGA  Sutta  )  

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/08/2021(Xem: 19488)
Tiếng chuông chùa vang lên để xoa dịu, vỗ về những tâm hồn lạc lõng, bơ vơ. Hồi chuông Thiên Mụ, mái chùa Vĩnh Nghiêm một thời chứa chan kỷ niệm. Đó là lời mở đầu trong băng nhạc Tiếng Chuông Chùa do Ca sĩ Thanh Thúy trình bày và ấn hành tại hải ngoại vào đầu thập niên 80. Thanh Thúy là ca sĩ hát nhạc vàng, đứng hàng đầu tại VN trước năm 1975. Cô là đệ tử của HT Nguyên Trí ở chùa Bát Nhã, California. Khi Thầy còn ở VN cuối thập niên 80 có đệ tử ở bên Mỹ đã gởi tặng Thầy băng nhạc Tiếng Chuông Chùa này. Hôm nay Thầy nói về chủ đề Tiếng Chuông Chùa, hay tiếng Chuông Đại Hồng Chung. Đại Hồng Chung là một cái chuông lớn được treo lên một cái giá gỗ đặt trong khuôn viên chùa hay trong Chánh điện. Hồng Chung là một pháp khí linh thiêng, là một biểu tượng đầy ý nghĩa của Phật giáo, nên chùa nào cũng phải có, lớn hay nhỏ tùy theo tầm cỡ của mỗi chùa. Hàng ngày Đại Hồng Chung được thỉnh lên vào buổi chiều tối, báo hiệu ngày
27/07/2021(Xem: 11870)
Thật không ngờ trong bối cảnh xã hội mà toàn cầu thế giới đang khẩn trương đối phó với đại dịch kinh hoàng của thế kỷ 21 thế nhưng những người con đầy tâm huyết của Đức Thế Tôn chỉ trong nửa năm đầu 2021 đã thành lập được hai trang Website Phật học tại hải ngoại : Thư viện Phật Việt tháng 2/2021. do nhóm cư sĩ sáng tạo trang mạng của HĐHP, ( hoangpháp.org ) do ban Báo chí và xuất bản của Hội đồng Hoằng pháp tháng 6/2021 thành lập với sự cố vấn chỉ đạo của HT Thích Tuệ Sỹ Từ ngày có cơ hội tham học lại những hoa trái của Phật Pháp ( không phân biệt Nguyên Thủy, Đại Thừa ) , Tôi thật sự đã cắt bỏ rất nhiều sinh hoạt ngày xưa mình yêu thích và để theo kịp với sự phát triển vượt bực theo đà tiến văn minh cho nên đã dùng toàn bộ thời gian còn lại trong ngày của một người thuộc thế hệ 5 X khi về hưu để tìm đọc lại những tác phẩm , biên soạn, dịch thuật của Chư Tôn Đức,qua Danh Tăng, Học giả nghiên cứu khắp nơi .
26/07/2021(Xem: 8338)
Hòa thượng thế danh là Nguyễn Minh Có, pháp danh Huệ Đạt, pháp hiệu Hoàn Thông, sinh năm Đinh Tỵ (1917) triều Khải Định năm đầu, tại ấp Hội An, xã An Phú Tân, huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh, trong một gia đình nông dân nghèo. Thân phụ là cụ ông Nguyễn Văn Phuông, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Sửu, Ngài mồ côi cha lúc 13 tuổi. Thiện duyên đưa đến cho hạt mầm Bồ đề trong tâm Ngài phát triển. Năm 1930, trong thân tộc có ông Hồ Trinh Tương, gia tư khá giả, phát tâm phụng sự Tam Bảo, xuất tiền của xây một ngôi chùa, lấy hiệu là Hội Thắng Tự. Ông xuất gia đầu Phật, húy là Tường Ninh, pháp danh Đắc Ngộ, pháp hiệu Niệm Hưng và làm trú trì chùa này để hoằng dương đạo pháp. Ngài được thân mẫu cho phép xuất gia với Sư cụ trú trì chùa Hội Thắng khi vừa mồ côi cha, được ban pháp danh Huệ Đạt. Năm 16 tuổi (1933) Ngài được Bổn sư cho thọ giới Sa Di.
25/07/2021(Xem: 5421)
Mấy ngày nay trên Facebook có chia sẻ lại câu chuyện (nghe nói là xảy ra năm 2014) về cô bé đã “ăn cắp” 2 cuốn sách tại một nhà sách ở Gia Lai. Thay vì cảm thông cho cô bé ham đọc sách, người ta đã bắt cô bé lại, trói 2 tay vào thành lan can, đeo tấm bảng ghi chữ “Tôi là người ăn trộm” trước ngực, rồi chụp hình và bêu rếu lên mạng xã hội. Hành động bất nhân, không chút tình người của những người quản lý ở đây khiến ta nhớ lại câu chuyện đã xảy ra cách đây rất lâu: một cậu bé khoảng 14-15 tuổi cũng ăn cắp sách trong tiệm sách Khai Trí của bác Nguyễn Hùng Trương, mà người đời hay gọi là ông Khai Trí. Khi thấy lùm xùm, do nhân viên nhà sách định làm dữ với cậu bé, một vị khách ôn tồn hỏi rõ đầu đuôi câu chuyện, tỏ vẻ khâm phục cậu bé vì học giỏi mà không tiền mua sách nên phải ăn cắp, ông đã ngỏ lời xin tha và trả tiền sách cho cậu.
23/07/2021(Xem: 17983)
Giữa tương quan sinh diệt và biển đổi của muôn trùng đối lưu sự sống, những giá trị tinh anh của chân lý bất diệt từ sự tỉnh thức tuyệt đối vẫn cứ thế, trơ gan cùng tuế nguyệt và vững chãi trước bao nổi trôi của thế sự. Bản thể tồn tại của chân lý tuyệt đối vẫn thế, sừng sững bất động dẫu cho người đời có tiếp nhận một cách nồng nhiệt, trung thành hay bị rũ bỏ, vùi dập một cách ngu muội và thô thiển bởi các luận điểm sai lệch chối bỏ sự tồn tại của tâm thức con người. Sự vĩnh cửu ấy phát xuất từ trí tuệ vô lậu và tồn tại chính bởi mục đích tối hậu là mang lại hạnh phúc chân thật cho nhân loại, giúp con người vượt thoát xiềng xích trói buộc của khổ đau. Tuỳ từng giai đoạn của nhân loại, có những giai đoạn, những tinh hoa ấy được tiếp cận một cách mộc mạc, dung dị và thuần khiết nhất; có thời kỳ những nét đẹp ấy được nâng lên ở những khía cạnh khác nhau; nhưng tựu trung cũng chỉ nhằm giải quyết những khó khăn hiện hữu trong đời sống con người và xã hội.
22/07/2021(Xem: 3546)
Tạp chí Nghiên cứu Phật học, một trong những tạp chí nghiên cứu học thuật về Phật giáo tại Hoa Kỳ, đã có buổi lễ ra mắt các thành viên trong Ban Biên tập và nhận Quyết định Bản quyền Nghiên cứu Học thuật từ Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ vào ngày 1 tháng 7 năm 2020, Thầy Thích Giác Chinh, người đảm nhận vai trò Sáng lập kiêm Tổng biên tập, đã nhận được Thư chấp thuận cấp mã số ISSN từ Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ: Tạp chí Nghiên cứu Phật học in: ISSN 2692-7357 Tạp chí Nghiên cứu Phật học Online: eISSN 2692-739X Ngôn ngữ: Tiếng Anh.
11/07/2021(Xem: 7019)
Tháng vừa rồi, tôi dành thời gian để đọc và suy ngẫm về cuốn sách “Tìm bình yên trong gia đình”. Đơn giản bởi tôi và nhiều chúng ta đã dành quá nhiều thời gian hướng ngoại và đôi khi quên mất gia đình. Đôi khi giật mình, đã không đầu tư đủ thời gian cho ngôi nhà của mình, đã không biết cách để bình yên luôn có trong ngôi nhà thân thương của mình. Cảm quan về tựa đề sách và trang bìa của cuốn sách khiến tôi có cảm giác như được bước vào một thế giới với những trang sách tràn ngập nội dung bình yên, giúp tôi được bồng bềnh nhẹ tựa mây. Đọc sách, tôi giật mình: Những bước chân trên cuộc hành trình TÌM BÌNH YÊN TRONG GIA ĐÌNH trong cuốn sách thực sự không hẳn êm đềm như những gì tôi tưởng tượng. Sau khi đọc hết một nửa chương sách. Mình đã phải dừng lại hồi lâu. Bởi vì quá xúc động!
16/06/2021(Xem: 18882)
Thời gian như đến rồi đi, như trồi rồi hụp, thiên thu bất tận, không đợi chờ ai và cũng chẳng nghĩ đến ai. Cứ thế, nó đẩy lùi mọi sự vật về quá khứ và luôn vươn bắt mọi sự vật ở tương lai, mà hiện tại nó không bao giờ đứng yên một chỗ. Chuyển động. Dị thường. Thiên lưu. Thiên biến. Từ đó, con người cho nó như vô tình, như lãng quên, để rồi mất mát tất cả... Đến hôm nay, bỗng nghe tiếng nói của các bạn hữu, các nhà tri thức hữu tâm, có cái nhìn đích thực rằng: “Đạo Phật và Tuổi Trẻ.” “Phật Việt Trong Lòng Tộc Việt.” “Dòng Chảy của Phật Giáo Việt Nam” hay “Khởi Đi Từ Hôm Nay.” Tiếng vang từ những lời nói ấy, đánh động nhóm người chủ trương, đặt bút viết tâm tình này. Đạo Phật có mặt trên quê hương Việt Nam hai ngàn năm qua, đã chung lưng đấu cật theo vận nước lênh đênh, khi lên thác, lúc xuống ghềnh, luôn đồng hành với dân tộc. Khi vua Lê Đại Hành hỏi Thiền sư Pháp Thuận về vận nước như thế nào, dài ngắn, thịnh suy? Thì Thiền sư Pháp Thuận đã thấy được vận nước của quê hương mà
10/06/2021(Xem: 13375)
Biên cương thế giới ngày nay bị thu hẹp với nền viễn thông liên mạng tân tiến, trong khi nhận thức của các thế hệ trẻ lại được mở rộng và sớm sủa hơn, khiến niềm tin và lẽ sống chân thiện dễ bị lung lay, lạc hướng. Thông tin đa chiều với sự cố ý lạc dẫn từ những thế lực hoặc cá nhân vị kỷ, hám lợi, thúc đẩy giới trẻ vào lối sống hời hợt, hiểu nhanh sống vội, ham vui nhất thời, tạo nên hỗn loạn, bất an trên toàn cầu. Trước viễn ảnh đen tối như thế, con đường hoằng pháp của đạo Phật rất cần phải bắt nhịp với đà tiến của nền văn minh hiện đại, nhằm tiếp cận với từng cá nhân, quân bình đời sống xã hội, giới thiệu và hướng dẫn con đường mang lại an vui hạnh phúc cho mình, cho người. Đó là lý do dẫn đến cuộc họp mở rộng giữa chư tôn đức Tăng Ni, Cư sĩ và Huynh trưởng Gia Đình Phật Tử VN tại hải ngoại và Việt Nam, được tổ chức vào lúc 08:50 PM ngày 08/5/2021 qua chương trình Zoom Online, để rồi đồng thuận tiến đến việc thành lập Hội Đồng Hoằng Pháp. Hội Đồng Hoằng Pháp bao gồm nhiều
10/06/2021(Xem: 4543)
Mỗi lần đến chùa Vạn Phước, dù không chú ý, Phật tử ai ai cũng thấy Thầy Từ An, phó Trụ Trì chùa, mỗi ngày, ngoài những thời kinh, khóa tu, rảnh rỗi Thầy ra sân chùa cặm cụi nhổ cỏ gấu hết cây này đến cây kia, hết chỗ này đến chỗ nọ. Cứ xoay vần như thế ngày này qua tháng khác, năm này sang năm kia rồi khi cỏ gấu mọc lại, Thầy lại tiếp tục nhổ như một hạnh nguyện. Đặc biệt nữa, cứ mỗi lần nhổ xong một cây cỏ gấu, Thầy thường lẩm nhẩm: “Nhổ này một cây phiền não..., nhổ này một cây phiền não...“. Nhưng Thầy nhổ không bao giờ hết, vì cỏ gấu vốn là một loại cỏ dại, đã là cỏ thì rất khó tiêu diệt. Nếu xịt thuốc chỉ cháy lá hoa ở phần trên, rễ vẫn còn ở phần dưới, thậm chí có nhổ tận gốc nhưng chỉ cần sót lại một chút thân, rễ, một thời gian sau cỏ vẫn mọc lại như thường; chỉ trừ duy nhất tráng xi măng lót gạch, cỏ không còn đất sống may ra mới dứt sạch.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]