Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

107. Kinh Ganaka Moggallàna

19/05/202011:25(Xem: 8851)
107. Kinh Ganaka Moggallàna

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majhima  Nikàya )


Tập IV
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : [email protected]


107. Kinh  GANAKA MOGGALLÀNA

( Ganakamoggallàna sutta )

 

Như vậy, tôi nghe :

 

          Một thời, Đức Thế Tôn Thiện Thệ       

          Sa-Vát-Thí – Xá-Vệ – trú qua

              Đông Viên – Púp-Bá-Ra-Ma  (1)

       Mi-Ga-Ra-Má-T ú-Pa-Sá-Đà  (2)

        ( Cũng chính là Giảng đường Lộc Mẫu )

          Tại đây Phật thuyết giáo trải qua.

 

              Có một Bàn-môn tên là

       Ông Ga-Na-Ká Mốc-Ga-La-Nà

          Đi đến chỗ Phật Đà trú ngụ,

          Sau khi đến, ông tự nói lên

              Lời thăm hỏi xã giao liền

       Sau đó ngồi xuống một bên Phật Đà.

 

          Rồi Bàn-môn thưa qua Giác Giả :

 

    – “ Thưa Tôn Giả Kiều Đàm ! Ví vầy

              Tại lâu đài Lộc Mẫu này

       Có thể sẽ thấy được ngay tình hình

          Một học tập, công trình tuần tự,

          Một đạo lộ tuần tự thanh cao,

              Là những tầng cấp trước sau

       Dẫn đến tầng thượng, nơi cao nhất nhà

    ______________________________

 

(1) : Pubbaràma : Đông Phương Tự tại thành Xá-Vệ (Savatthi ) do

      Nữ đại thí chủ Visakhà dâng cúng cho Phật và Chúng Tăng.

(2) : Migaramatupasada : Lộc Mẫu giảng đường.  

 

          Tôn Giả Gô-Ta-Ma ! Cũng vậy

          Với các Bàn-môn ấy hàng ngày

              Chúng ta cũng được thấy ngay

       Một học tập tuần tự đầy lòng tin,

          Một công trình, đạo lộ tuần tự

          Tức là sự học hỏi Vệ-Đà.

              Thưa Tôn Giả Gô-Ta-Ma !

       Người bắn cung giỏi trải qua tự mình

          Được thấy một công trình tập luyện

          Một đạo lộ về thiện xạ này,

              Tức nghệ thuật bắn cung đây.

 

       Chúng con cũng vậy, thưa Ngài Thích Ca !

          Những người sống nghề là toán số

          Được thấy chỗ học tập, công trình,

              Đạo lộ tuần tự của mình

       Tức là toán số. Sự tình diễn ra

          Thưa Ngài Gô-Ta-Ma ! Hoặc giả

          Dạy người đệ tử cả mọi phần

              Con bắt người ấy đếm dần   

       Một, một lần, hai, hai lần, rồi ba,

          Ba lần và bốn, bốn lần vậy  

          Năm, năm lần rồi sáu, sáu lần,

              Bảy, bảy lần, tám, tám lần,

       Chín, chín lần, mười, mười lần… thật chăm.

          Bắt đếm tới một trăm như thế.

 

          Còn thứ đệ, thưa Ngài Thích Ca !

              Ngài có thể trình bày qua

       Trong Pháp và Luật sâu xa của Ngài

          Có phải đây cũng có tuần tự

          Về học tập, tuần tự công trình,

              Tuần tự đạo lộ cao minh ? ”.

 

 – “ Này Bàn-môn ! Có thể trình bày ngay

          Trong Pháp và Luật này có sự

          Một tuần tự học tập, công trình,

              Tuần tự đạo lộ quang minh.

       Như người huấn luyện ngựa tinh xảo này

          Khi có con ngựa hay, hiền thiện

          Trước tiên luyện cho nó quen dần

              Việc mang yên, cương trên thân

       Và các hạnh khác dần dần quen ra.

 

          Này ông Bà-La-Môn ! Cũng vậy

          Khi Như Lai nhận thấy người nào

              Đáng được điều phục, dồi trau,

       Trước tiên huấn luyện trước sau như vầy :

 

    – “ Hãy đến đây, Tỷ Kheo ! Cố gắng 

          Giữ giới hạnh nghiêm cẩn đêm ngày,

              Chế ngự trong Giới bổn này,

       Oai nghi chánh hạnh đủ đầy, uy nghi.

          Thấy hiểm nguy những lỗi nhỏ nhặt,

          Các học giới học tập, thọ trì ”. 

              Khi vị Tỷ Kheo mọi thì

       Chế ngự, giữ giới uy nghi một niềm

          Với chế ngự tinh nghiêm giới bổn

          Đầy đủ vốn chánh hạnh, oai nghi,

              Đồng thời thấy sự hiểm nguy

       Trong những lỗi nhỏ, thọ trì vâng theo

          Các học-giới Tỷ Kheo phải có,

          Ta mới dạy tiếp họ như vầy :

        – “ Này Tỷ Kheo ! Hãy đến đây,

       Các căn hãy hộ trì ngay mọi bề : 

          Mắt thấy sắc không hề nắm giữ

          Tướng chung, riêng. Những thứ nguyên nhân

              Do không chế ngự nhãn căn

       Khiến tham ái, ưu bi… hằng khởi lên,

          Ác bất thiện pháp liền khởi quấy 

          Nguyên nhân ấy tự chế ngự đi.

              Hộ trì con mắt mọi thì

       Sự hộ trì mắt thực thi đêm ngày.

 

          Tiếng do tai, hương từ mũi ngửi,

          Vị do lưỡi, cảm xúc do thân,

              Ý nhận thức các pháp trần,

       Phải không nắm giữ tướng phần chung, riêng  

          Do những nguyên nhân gì, từ đó

          Khiến không có chế ngfự lục căn,

              Tham ái, ưu bi… mọi phần   

       Ác bất thiện pháp rần rần khởi lên.

          Nguyên nhân trên, vị ấy chế ngự 

          Thưc hành sự hộ trì lục căn. 

 

              Này Bà-La-Môn ! Sau phần

       Tỷ Kheo hộ trợ các căn trong ngoài

          Thì Như Lai mới dạy thêm nữa :

 

     – “ Này Tỷ Kheo ! Mỗi bữa khi ăn

              Hãy tiết độ trong uống ăn,

       Chân chánh giác sát món ăn khi dùng

          Không để cùng vui đùa, mê đắm,

          Không phải lắm trang điểm cầu kỳ,

              Chỉ để thân này duy trì

       Khỏi bị gia hại, chấp trì trang nghiêm

          Về Phạm hạnh cho kiêm toàn cả.

          Nghĩ : ‘Như vậy ta đã diệt đi

              Các cảm thọ cũ, đồng thì

       Không cho khởi cảm thọ chi mới nào

          Sẽ không phạm lỗi nào như trước,

          Sống sẽ được an ổn mọi thì ”.

 

              Này Bà-La-Môn ! Sau khi

       Tỷ Kheo tiết độ trong khi ăn vầy

          Thì Như Lai dạy thêm vị ấy :

 

    – “ Tỷ Kheo ! Hãy cảnh giác chú tâm

              Ban ngày, trong khi kinh hành,

       Trong khi tĩnh tọa, âm thầm gột đi

          Khỏi tâm trí pháp gì chướng ngại.

          Ban đêm, lại tinh tấn hành trì

              Trong khoảng canh đầu trở đi,

       Đến canh giữa hãy tùy nghi đi nằm

          Nằm xuống nhằm phía hông bên phải

          Dáng nằm ấy như sư tử vương

              Chân gác trên chân, tinh tường

       Chánh niệm tỉnh giác, niệm thường hướng ngay

          Đến lúc sẽ ngồi ngay lên lại.

          Canh cuối, khi thức dậy xong rồi

              Tiếp tục kinh hành và ngồi

       Gột sạch chướng ngại pháp nơi tâm mình ”.

 

          Này Bàn-Môn ! Hành trình sau đấy

          Như Lai dạy vị ấy thêm rằng :

              Tỷ Kheo đi, đứng, ngồi, nằm

       Đều giữ tỉnh giác, trong tâm biết liền

          Khi tới, lui ; biết mình lui, tới

          Khi nhìn quanh, biết bởi mình làm

              Hay khi co duỗi tay chân

       Mặc y, đi bát  hay cần uống ăn          

          Khi nhai, nuốt, nói năng : Tỉnh giác         

          Đại, tiểu tiện, nhổ khạc : Biết mình

              Như vậy Tỷ Kheo tâm minh

       Chánh niệm tỉnh giác, an bình, thẳng ngay.

 

          Này Bàn-Môn ! Như Lai sau đấy

          Dạy vị ấy tìm chỗ lặng yên

              Như rừng tĩnh mịch, lâm viên

       Gốc cây, khe núi hoặc liền tha ma.

          Thời ngọ thực đã qua, rửa bát

          Ngồi kiết già, an lạc, thẳng lưng

              An trú chánh niệm, lâng lâng

       Tham ái từ bỏ, thoát dần ái tham

          Bỏ sân hận, từ tâm thương xót

          Chúng hữu tình mỗi một cảnh riêng.

 

              Từ bỏ hôn trầm, thụy miên

       Thoát ly khỏi chướng thụy miên, hôn trầm

          Giữ tịnh tâm, hướng về ánh sáng

          Cùng chánh niệm, tỉnh giác, tâm yên

              Gột rửa chúng, được an nhiên

       Từ bỏ trạo cử thì liền tịnh thân

          Hết nghi ngờ, phân vân lưỡng lự

          Gột rửa hết  trạo cử, hôn trầm

              Gột rửa tham ái, hận sân

       Đối với thiện pháp, tinh cần hành theo.

 

          Ta lại dạy Tỷ Kheo mãi miết

          Thực hành thiệt chân chánh, tinh cần

              Chừng nào khi quán tự thân      

       Với năm Triền Cái phải cần xả ly

          Đã xả ly, nên chi hoan hỷ

          Do hoan hỷ, tâm được khinh an  

              Lạc thọ sinh do khinh an

       Đạt được như thế, tâm an định liền

          Ly ác pháp, Tỷ Kheo ly dục

          Chứng và trú vào mục Nhất Thiền

              Trạng thái hỷ lạc tự tâm

       Sinh do ly dục, với Tầm, Tứ chuyên

 

            Này Bàn-Môn ! Căn nguyên tiếp nữa

          Vị Tỷ Kheo vào cửa định thiền

              Diệt Tầm, diệt Tứ được yên

       Thì chứng và trú vào Thiền thứ Hai

          Một trạng thái ra ngoài Tầm, Tứ

          Do Định sinh, nội tỉnh nhất tâm.

 

              Lại ly hỷ trú xả thầm,

       Chánh niệm tỉnh giác thì thân cảm liền

          Sự lạc thọ, thánh hiền gọi đủ

          Là ‘xả niệm lạc trú’ tâm chuyên

              Chứng và an trú Tam Thiền

       Rồi xả lạc, xả khổ liền, Tỷ Khưu

          Diệt hỷ ưu cảm thọ trước cũ

          Chứng, an trú vào Đệ Tứ Thiền

              Không khổ không lạc, an nhiên

       Xả niệm thanh tịnh, tâm yên chẳng chầy.

 

          Bàn-Môn này ! Với những Phích-Khú 

          Thuộc hàng ngũ bậc Hữu-học nào

              Tâm chưa thành tựu, cần cầu

       Vô thượng an tịnh, xua bao ách triền.

          Đó là sự hiện tiền giảng dạy

          Đối với những vị ấy mọi điều.

              Còn với những vị Tỷ Kheo

       Hàng La-Hán, các lậu đều dứt nhanh

          Các việc cần, thực hành hoàn tất

          Gánh nặng đặt xuống, nhẹ thênh thang,

              Lý tưởng thành đạt rõ ràng,

       Hữu kiết sử đã hoàn toàn diệt tan,

          Chánh trí sang chánh niệm tỉnh giác ”.

 

          Nghe lời giảng Đại Giác Phật Đà

              Bàn-Môn Mốc-Gá-La-Na

       Tức Ga-Na-Ká hỏi sang vấn đề :

    – “ Khi nghe về những điều Tôn Giả  

          Gô-Ta-Ma khuyến hóa như vầy,

              Tận tình giảng dạy như vầy,

       Tất cả đệ tử của Ngài phải chăng

          Đều tự thân chứng được cứu cánh

          Đích Niết Bàn bậc Thánh cả rồi ?

              Hay chỉ một số chứng thôi ? ”. 

 

 – “ Bàn-Môn ! Đệ tử Ta nơi điều này 

          Được Như Lai khuyến hóa, dẫn dắt

          Một số đắc Niết Bàn viên thông

              Còn một số khác thì không ”.

 

 – “ Thưa Ngài ! Nhân, duyên gì trong việc này

          Khi ở đây Niết-bàn có mặt

          Và có mặt con đường minh quang

              Đưa đến cứu cánh Niết-bàn,

       Có mặt Tôn Giả là hàng Đạo Sư,

          Mà đệ tử Ngài như vừa kể

          Được thứ đệ khuyến hóa, giảng bày

              Một số chứng Niết-bàn ngay,

       Còn sao số khác không rày chứng xong ? ”.    

 

    – “ Bàn-Môn ! Trong việc này ta hỏi                                 

          Nếu kham nhẫn, hãy nói ra mau.

              Bàn-Môn ! Ông nghĩ thế nào ?

       Ông có biết rõ đường nào đi qua

          Thành Vương Xá – Ra-Cha-Ga-Há ? ”.

 

    – “ Thưa Tôn Giả ! Con biết rành mà ! ”. 

 

        – “ Bàn-Môn ! Nghĩ sao chuyện là

       Có người muốn đến Ra-Cha-Ga-Hà,

          Đến hỏi qua ông về đường ấy,

          Ông đáp lại thẳng vào vấn đề  :

             ‘Đường đến Vương Xá nhiêu khê

       Ông hãy đi thẳng đường về hướng Đông 

 

          Ta dặn ông : Trải qua nhiều dặm,

          Sau bao dặm, sẽ thấy một làng

              Có tên thế này rõ ràng.

       Ông hãy đi tiếp thời gian khá dài

          Sẽ thấy ngay thị trấn tên đó

          Hãy đi theo đường nọ khá xa

              Sẽ thấy Ra-Chá-Ga-Ha

       Vùng đất mỹ diệu, cỏ hoa mỹ miều,

          Nơi có nhiều khu rừng, hồ nước,

          Những vườn tược xinh đẹp nơi đây’.

              Dù được khuyến giáo  như vầy

       Người ấy lại nhắm hướng Tây đi vào !

          Đi sai đường làm sao đến được ?

 

          Rồi trái ngược với kẻ nói trên  

              Một người gặp ông nói lên

       Hỏi đến Vương Xá phải nên thế nào ? 

          Ông chỉ dẫn trước sau cặn kẽ

          Cứ đi vậy thì sẽ thấy qua

              Vương Xá – Ra-Chá-Ga-Ha. 

       Người ấy theo đó trải qua hành trình

          Bởi y tin lời ông đã dặn

          Thực hiện đúng chỉ dẫn đường đi

              Nên đến Vương Xá kinh kỳ.

       Này Bàn-Môn ! Do nhân gì, duyên chi

          Khiến trong khi cùng có mặt tại

          Sa-Vát-Thi, cùng lại hỏi ông,

              Ông đã chỉ dẫn hết lòng

       Con đường đúng chính hướng đông kia mà !

          Nhưng một kẻ thật là ngang bướng  

          Đi sai lạc qua hướng phía Tây

              Một kẻ cũng hỏi đường vầy

       Nghe theo chỉ dẫn, đến ngay nơi cần ? ”.

 

    – “ Thưa Tôn Giả ! Thế nhân xuôi, ngược

          Con thì làm gì được ở đây ?   

              Con chỉ hướng dẫn đường này

       Còn phần thực hiện kẻ đây phải làm ”.

 

     – “ Cũng vậy, đích Niết-bàn có mặt

          Trong khi Ta có mặt chỉ đường,

              Nhưng các đệ tử Ta thường

       Được Ta khuyến giáo, tinh tường dạy răn

          Thì một phần chứng được cứu cánh

          Đích Niết-bàn bậc Thánh viên thông,

              Nhưng một số khác thì không !

       Ta làm gì được ? Khó mong chuyển dời !

          Vì Ta chỉ là người chỉ dẫn ! ”.

 

          Nghe từ đấng Đại Giác thuyết ra

              Bà-La-Môn Ga-Na-Ka

       Mốc-Gá-La-Ná thưa qua Phật Đà :

 

    – “ Tôn Giả Gô-Ta-Ma ! Đối với     

          Những người không phải bởi lòng tin,

              Chỉ vì sinh kế của mình

       Xuất gia, từ bỏ gia đình đi tu.

          Người xảo trá hoặc hư ngụy khác,

          Người gian dối lường gạt, mạn kiêu,

              Mất thăng bằng, dao động nhiều

       Nói phô tạp nhạp, nói điều nhố nhăng,

          Không hộ trì các căn mọi chỗ,

          Ăn uống không tiết độ mọi thì,

              Không chú tâm cảnh giác chi,

       Sa-môn-hạnh chẳng hành trì, thờ ơ,

 

          Không tôn thờ, kính trọng học-pháp

          Sống thừa thải, chậm chạp lười trây,

              Đi đầu trong thối thất vầy,

       Từ bỏ gánh nặng đường dài viễn ly,

          Tinh cần thì thấp kém, thất niệm

          Không tỉnh giác, không điểm định tâm

              Liệt tuệ, câm ngọng, tán tâm…

       Tôn Giả ! Không thể sống gần hạng đây.

 

          Trái lại vầy, những Thiện-nam-tử

          Vì lòng tin, tham dự Săng-Ga

              Từ bỏ gia đình, xuất gia

       Độc cư tu tập, tránh xa điều tà

          Không xảo trá, gian ngoa, lường gạt,

          Không cao mạn, không mất thăng bằng,

              Không dao động, không nói năng

       Một cách tạp nhạp, các căn hộ trì

          Ăn uống thì tiết độ, tỉnh giác,

          Sa-môn-hạnh an lạc hành trì

              Tôn kính học pháp, thực thi 

       Sống không thừa thải, không khi nào lười,

          Trong mọi thời từ bỏ thối thất,

          Trong viễn ly chân thật đi đầu,

              Tinh tấn, chánh niệm thanh cao,

       An trú định tĩnh, hướng vào nhất tâm,

          Có trí tuệ, không câm ngọng vậy…

          Những vị ấy nên sống gần thường.

              Ví như trong các căn hương

       Hắc-chiên-đàn chính loại hương này là

          Hương tối thượng, quý và được thích.

          Lõi cây hương thì xích-chiên-đàn

              Gọi là tối thượng vô vàn.

       Hoa hương các loại nếu mang so bì

          Vũ-quý-hương này thì tối thượng.

 

          Cũng như vậy, cao thượng tột vời    

              Chính là khuyến giáo những lời

       Của Ngài Tôn Giả trong thời vừa qua.

          Bạch Gô-Ta-Ma Tôn Giả !

          Với pháp âm Ngài đã giảng bày

              Thật hy hữu ! Vi diệu thay ! 

       Như người dựng vật lăn quay ngã nằm

          Chỉ hướng kẻ sai lầm lạc lối

          Đem đèn sáng vào tối như bưng

              Để ai có mắt mở bừng

       Có thể thấy được sáng trưng sắc màu.

          Cũng như thế, nhiệm mầu Chánh Pháp

          Được Thế Tôn giải đáp, trình bày

       

              Con xin quy ngưỡng từ nay

       Quy y Đại Giác, nương ngay Pháp mầu,

          Quy y Tăng thanh cao đức cả

 

          Nối tiếp nhau hoằng hóa Pháp môn

              Mong Thế Tôn nhận cho con

       Được làm đệ tử, vun tròn thiện duyên

          Xin phát nguyện vẹn tuyền ngưỡng phục

          Kể từ nay đến lúc mạng chung

              Tín thành nương đấng Đại Hùng

       Thực hành Giáo Pháp muôn trùng cao thâm ./- 

 

        Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  ( 3 L )

 

*

 *  *

 

(  Chấm dứt Kinh 107 :  GANAKA MOGGALÀNA

GANAKA MOGGALLÀNA  Sutta  )

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/07/2021(Xem: 11178)
Thật không ngờ trong bối cảnh xã hội mà toàn cầu thế giới đang khẩn trương đối phó với đại dịch kinh hoàng của thế kỷ 21 thế nhưng những người con đầy tâm huyết của Đức Thế Tôn chỉ trong nửa năm đầu 2021 đã thành lập được hai trang Website Phật học tại hải ngoại : Thư viện Phật Việt tháng 2/2021. do nhóm cư sĩ sáng tạo trang mạng của HĐHP, ( hoangpháp.org ) do ban Báo chí và xuất bản của Hội đồng Hoằng pháp tháng 6/2021 thành lập với sự cố vấn chỉ đạo của HT Thích Tuệ Sỹ Từ ngày có cơ hội tham học lại những hoa trái của Phật Pháp ( không phân biệt Nguyên Thủy, Đại Thừa ) , Tôi thật sự đã cắt bỏ rất nhiều sinh hoạt ngày xưa mình yêu thích và để theo kịp với sự phát triển vượt bực theo đà tiến văn minh cho nên đã dùng toàn bộ thời gian còn lại trong ngày của một người thuộc thế hệ 5 X khi về hưu để tìm đọc lại những tác phẩm , biên soạn, dịch thuật của Chư Tôn Đức,qua Danh Tăng, Học giả nghiên cứu khắp nơi .
26/07/2021(Xem: 8136)
Hòa thượng thế danh là Nguyễn Minh Có, pháp danh Huệ Đạt, pháp hiệu Hoàn Thông, sinh năm Đinh Tỵ (1917) triều Khải Định năm đầu, tại ấp Hội An, xã An Phú Tân, huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh, trong một gia đình nông dân nghèo. Thân phụ là cụ ông Nguyễn Văn Phuông, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Sửu, Ngài mồ côi cha lúc 13 tuổi. Thiện duyên đưa đến cho hạt mầm Bồ đề trong tâm Ngài phát triển. Năm 1930, trong thân tộc có ông Hồ Trinh Tương, gia tư khá giả, phát tâm phụng sự Tam Bảo, xuất tiền của xây một ngôi chùa, lấy hiệu là Hội Thắng Tự. Ông xuất gia đầu Phật, húy là Tường Ninh, pháp danh Đắc Ngộ, pháp hiệu Niệm Hưng và làm trú trì chùa này để hoằng dương đạo pháp. Ngài được thân mẫu cho phép xuất gia với Sư cụ trú trì chùa Hội Thắng khi vừa mồ côi cha, được ban pháp danh Huệ Đạt. Năm 16 tuổi (1933) Ngài được Bổn sư cho thọ giới Sa Di.
25/07/2021(Xem: 5077)
Mấy ngày nay trên Facebook có chia sẻ lại câu chuyện (nghe nói là xảy ra năm 2014) về cô bé đã “ăn cắp” 2 cuốn sách tại một nhà sách ở Gia Lai. Thay vì cảm thông cho cô bé ham đọc sách, người ta đã bắt cô bé lại, trói 2 tay vào thành lan can, đeo tấm bảng ghi chữ “Tôi là người ăn trộm” trước ngực, rồi chụp hình và bêu rếu lên mạng xã hội. Hành động bất nhân, không chút tình người của những người quản lý ở đây khiến ta nhớ lại câu chuyện đã xảy ra cách đây rất lâu: một cậu bé khoảng 14-15 tuổi cũng ăn cắp sách trong tiệm sách Khai Trí của bác Nguyễn Hùng Trương, mà người đời hay gọi là ông Khai Trí. Khi thấy lùm xùm, do nhân viên nhà sách định làm dữ với cậu bé, một vị khách ôn tồn hỏi rõ đầu đuôi câu chuyện, tỏ vẻ khâm phục cậu bé vì học giỏi mà không tiền mua sách nên phải ăn cắp, ông đã ngỏ lời xin tha và trả tiền sách cho cậu.
23/07/2021(Xem: 16807)
Giữa tương quan sinh diệt và biển đổi của muôn trùng đối lưu sự sống, những giá trị tinh anh của chân lý bất diệt từ sự tỉnh thức tuyệt đối vẫn cứ thế, trơ gan cùng tuế nguyệt và vững chãi trước bao nổi trôi của thế sự. Bản thể tồn tại của chân lý tuyệt đối vẫn thế, sừng sững bất động dẫu cho người đời có tiếp nhận một cách nồng nhiệt, trung thành hay bị rũ bỏ, vùi dập một cách ngu muội và thô thiển bởi các luận điểm sai lệch chối bỏ sự tồn tại của tâm thức con người. Sự vĩnh cửu ấy phát xuất từ trí tuệ vô lậu và tồn tại chính bởi mục đích tối hậu là mang lại hạnh phúc chân thật cho nhân loại, giúp con người vượt thoát xiềng xích trói buộc của khổ đau. Tuỳ từng giai đoạn của nhân loại, có những giai đoạn, những tinh hoa ấy được tiếp cận một cách mộc mạc, dung dị và thuần khiết nhất; có thời kỳ những nét đẹp ấy được nâng lên ở những khía cạnh khác nhau; nhưng tựu trung cũng chỉ nhằm giải quyết những khó khăn hiện hữu trong đời sống con người và xã hội.
22/07/2021(Xem: 3484)
Tạp chí Nghiên cứu Phật học, một trong những tạp chí nghiên cứu học thuật về Phật giáo tại Hoa Kỳ, đã có buổi lễ ra mắt các thành viên trong Ban Biên tập và nhận Quyết định Bản quyền Nghiên cứu Học thuật từ Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ vào ngày 1 tháng 7 năm 2020, Thầy Thích Giác Chinh, người đảm nhận vai trò Sáng lập kiêm Tổng biên tập, đã nhận được Thư chấp thuận cấp mã số ISSN từ Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ: Tạp chí Nghiên cứu Phật học in: ISSN 2692-7357 Tạp chí Nghiên cứu Phật học Online: eISSN 2692-739X Ngôn ngữ: Tiếng Anh.
11/07/2021(Xem: 6631)
Tháng vừa rồi, tôi dành thời gian để đọc và suy ngẫm về cuốn sách “Tìm bình yên trong gia đình”. Đơn giản bởi tôi và nhiều chúng ta đã dành quá nhiều thời gian hướng ngoại và đôi khi quên mất gia đình. Đôi khi giật mình, đã không đầu tư đủ thời gian cho ngôi nhà của mình, đã không biết cách để bình yên luôn có trong ngôi nhà thân thương của mình. Cảm quan về tựa đề sách và trang bìa của cuốn sách khiến tôi có cảm giác như được bước vào một thế giới với những trang sách tràn ngập nội dung bình yên, giúp tôi được bồng bềnh nhẹ tựa mây. Đọc sách, tôi giật mình: Những bước chân trên cuộc hành trình TÌM BÌNH YÊN TRONG GIA ĐÌNH trong cuốn sách thực sự không hẳn êm đềm như những gì tôi tưởng tượng. Sau khi đọc hết một nửa chương sách. Mình đã phải dừng lại hồi lâu. Bởi vì quá xúc động!
16/06/2021(Xem: 18230)
Thời gian như đến rồi đi, như trồi rồi hụp, thiên thu bất tận, không đợi chờ ai và cũng chẳng nghĩ đến ai. Cứ thế, nó đẩy lùi mọi sự vật về quá khứ và luôn vươn bắt mọi sự vật ở tương lai, mà hiện tại nó không bao giờ đứng yên một chỗ. Chuyển động. Dị thường. Thiên lưu. Thiên biến. Từ đó, con người cho nó như vô tình, như lãng quên, để rồi mất mát tất cả... Đến hôm nay, bỗng nghe tiếng nói của các bạn hữu, các nhà tri thức hữu tâm, có cái nhìn đích thực rằng: “Đạo Phật và Tuổi Trẻ.” “Phật Việt Trong Lòng Tộc Việt.” “Dòng Chảy của Phật Giáo Việt Nam” hay “Khởi Đi Từ Hôm Nay.” Tiếng vang từ những lời nói ấy, đánh động nhóm người chủ trương, đặt bút viết tâm tình này. Đạo Phật có mặt trên quê hương Việt Nam hai ngàn năm qua, đã chung lưng đấu cật theo vận nước lênh đênh, khi lên thác, lúc xuống ghềnh, luôn đồng hành với dân tộc. Khi vua Lê Đại Hành hỏi Thiền sư Pháp Thuận về vận nước như thế nào, dài ngắn, thịnh suy? Thì Thiền sư Pháp Thuận đã thấy được vận nước của quê hương mà
10/06/2021(Xem: 13038)
Biên cương thế giới ngày nay bị thu hẹp với nền viễn thông liên mạng tân tiến, trong khi nhận thức của các thế hệ trẻ lại được mở rộng và sớm sủa hơn, khiến niềm tin và lẽ sống chân thiện dễ bị lung lay, lạc hướng. Thông tin đa chiều với sự cố ý lạc dẫn từ những thế lực hoặc cá nhân vị kỷ, hám lợi, thúc đẩy giới trẻ vào lối sống hời hợt, hiểu nhanh sống vội, ham vui nhất thời, tạo nên hỗn loạn, bất an trên toàn cầu. Trước viễn ảnh đen tối như thế, con đường hoằng pháp của đạo Phật rất cần phải bắt nhịp với đà tiến của nền văn minh hiện đại, nhằm tiếp cận với từng cá nhân, quân bình đời sống xã hội, giới thiệu và hướng dẫn con đường mang lại an vui hạnh phúc cho mình, cho người. Đó là lý do dẫn đến cuộc họp mở rộng giữa chư tôn đức Tăng Ni, Cư sĩ và Huynh trưởng Gia Đình Phật Tử VN tại hải ngoại và Việt Nam, được tổ chức vào lúc 08:50 PM ngày 08/5/2021 qua chương trình Zoom Online, để rồi đồng thuận tiến đến việc thành lập Hội Đồng Hoằng Pháp. Hội Đồng Hoằng Pháp bao gồm nhiều
10/06/2021(Xem: 4420)
Mỗi lần đến chùa Vạn Phước, dù không chú ý, Phật tử ai ai cũng thấy Thầy Từ An, phó Trụ Trì chùa, mỗi ngày, ngoài những thời kinh, khóa tu, rảnh rỗi Thầy ra sân chùa cặm cụi nhổ cỏ gấu hết cây này đến cây kia, hết chỗ này đến chỗ nọ. Cứ xoay vần như thế ngày này qua tháng khác, năm này sang năm kia rồi khi cỏ gấu mọc lại, Thầy lại tiếp tục nhổ như một hạnh nguyện. Đặc biệt nữa, cứ mỗi lần nhổ xong một cây cỏ gấu, Thầy thường lẩm nhẩm: “Nhổ này một cây phiền não..., nhổ này một cây phiền não...“. Nhưng Thầy nhổ không bao giờ hết, vì cỏ gấu vốn là một loại cỏ dại, đã là cỏ thì rất khó tiêu diệt. Nếu xịt thuốc chỉ cháy lá hoa ở phần trên, rễ vẫn còn ở phần dưới, thậm chí có nhổ tận gốc nhưng chỉ cần sót lại một chút thân, rễ, một thời gian sau cỏ vẫn mọc lại như thường; chỉ trừ duy nhất tráng xi măng lót gạch, cỏ không còn đất sống may ra mới dứt sạch.
20/05/2021(Xem: 12537)
Kinh Đại Bát Nhã có tất cả 600 quyển, gồm 5 triệu chữ trong 25 ngàn câu, là bộ kinh khổng lồ trong tàng kinh cát của Phật Giáo Đại Thừa, do Đức Thế Tôn thuyết giảng trong 22 năm. Pháp Sư Huyền Trang dịch từ tiếng Phạn sang Hán và Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm (1911-2003) dịch từ Hán sang Việt. Lão Cư Sĩ Thiện Bửu đã dành 10 năm lao nhọc, vừa học Kinh vừa viết luận bản này để xiển dương tư tưởng Bát Nhã theo tinh thần truyền bá và lưu thông. Ông đã khiêm tốn tự nhủ rằng, không biết những gì mình viết có phù hợp với tinh thần của bộ Đại Bát Nhã Ba La Mật hay không, nhưng chúng tôi cho rằng việc làm của Lão Cư Sĩ là việc cần làm và thiết thực hữu ích, ông đã giúp tóm tắt ý nghĩa và chiết giải những chỗ chính yếu của Kinh. Có thể nói đây là bản sớ giải đồ sộ thứ hai (trọn bộ 8 tập) về Kinh Đại Bát Nhã, theo sau Đại Trí Độ Luận (5 tập) ở Việt Nam. Xin tán thán công đức của Lão Cư Sĩ đã đặt viên đá đầu tiên, để khuyến khích cho những hành giả khác, cùng phát tâm xây dựng nền mó
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]