Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

139. Kinh Vô Tránh Phân Biệt

19/05/202011:36(Xem: 10938)
139. Kinh Vô Tránh Phân Biệt

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majhima  Nikàya )


Tập IV
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : [email protected]


139. Kinh VÔ TRÁNH PHÂN BIỆT

( Aranavibhanga sutta )

 

                     Như vậy, tôi nghe :                     

 

                  Một thời, Đức Thế Tôn Thiện Thệ

          Sa-Vát-Thí – Xá-Vệ – trú qua        

              Tinh Xá Chê-Tá-Va-Na             

       A-Na-Thá-Pin-Đi-Ka cúng dường.    

          Tại đây, đấng Pháp Vương cho gọi

          Chúng Tỷ Kheo rồi nói như vầy :

 

        – “ Các Tỷ Kheo ! Hãy nghe đây ! ”.

 

       Chúng Tăng vâng đáp lời Ngài truyền ra.  

 

          Đức Phật Đà trang nghiêm thuyết giảng :  

 

    – “ Các Tỷ Kheo ! Ta giảng giải đây

             ‘Vô Tránh Phân Biệt’ pháp này

       Các ông hãy lắng nghe vầy, nghiệm suy ”.

 

    – “ Bạch đấng Chánh Biến Tri ! Vâng ạ ! ”.

          Chúng Tăng đã vâng đáp lời Ngài.  

              Thế Tôn liền thuyết giảng ngay :

 

 – “ Chớ hành trì dục lạc đầy dẫy ra

          Hạ liệt, phàm phu và đê tiện

          Không xứng bậc hiền thiện Thánh nhân,

              Không liên hệ mục đích cần.

       Và cũng chớ có tự thân hành trì

          Sự cực kỳ khổ hạnh, đau khổ  

          Không xứng chỗ bậc Thánh chánh chân 

              Không liên hệ mục đích cần,

 

       Hai cực đoan ấy phải cần bỏ đi.

          Có con đường Tám Chi Trung Đạo

          Đã được Ta hoàn hảo chứng tri

              Tác thành mắt & trí tức thì 

       Đưa đến an tịnh, liễu tri Niết bàn,

          Thắng tri và hoàn toàn giác ngộ,

          Nên biết chỗ chỉ trích, tán dương.

 

              Sau khi đã biết tán dương,

       Đã biết chỉ trích, nên thường hiểu thông

          Không tán thán và không chỉ trích

          Chỉ nên thích thuyết pháp thẳng ngay,

              Nên biết phán xét lạc này,

       Khi biết phán xét lạc này, chú tâm

          Vào nội lạc thâm trầm mọi mặt

          Không nói lời bí mật, dông dài

              Khi mặt đối mặt với ai,

       Không nên nói khiến cho ai mất lòng,

          Khi nói, không vội vàng, từng bước

          Chớ chấp trước ngôn ngữ địa phương,

              Chớ xa ngôn ngữ dùng thường,

       Đó là tổng thuyết Ta đương nói về

          Trong vấn đề ‘Vô tránh phân biệt’.

 

          Khi nói đến hạ liệt, phàm phu,

              Dục lạc, đê tiện, si ngu,

       Chớ hành trì đến cho dù ở đâu,

          Không xứng bậc thanh cao Thánh tuệ

          Không liên hệ mục đích, cũng như

              Không nên hành trì khư khư

       Tự kỷ khổ hạnh, phạm trù khổ đau,

          Không xứng vào bậc Thánh, mục đích…

          Do duyên gì chắc nịch nói vầy ?

              Phàm lạc gì liên hệ ngay

       Với dục, nhưng đam mê đầy trải qua

          Loại hỷ là hạ liệt, đê tiện

          Không xứng bậc Thánh hiển thanh cao,

              Pháp như vậy là khổ đau,

       Ưu não, nhiệt não, phiền lao, đạo tà

          Phàm lạc gì kết qua với dục

          Nhưng không chút đam mê trầm phù,

              Loại hỷ hạ liệt, phàm phu,

       Đê tiện, không xứng thuần từ Thánh nhân,

          Không liên hệ đến phần mục đích,

          Pháp như vậy không thích khổ đau,

              Không có ưu não, phiền lao,

       Vô não – chánh đạo thuộc vào lạc đây.

 

          Tự kỷ khổ hạnh đầy đau khổ 

          Không xứng chỗ bậc Thánh thanh cao,

              Không liên hệ mục đích nào,

       Hành trì pháp ấy khổ đau mọi bề,

          Ưu & nhiệt não, thuộc về tà đạo.

          Khổ hạnh nào khổ não hành trì

              Không xứng bậc Thánh nghiêm uy.

 

       Không liên hệ mục đích gì ở đây  

          Pháp như vầy không có đau khổ

          Không ưu não, nhiệt não, phiền lao

              Pháp ấy chánh đạo thuộc vào.

 

       Khi nói đến : ‘Chớ dấn sâu hành trì

          Dục lạc gì hạ liệt, đê tiện,

          Không xứng bậc Thánh hiển thanh cao,

              Không liên hệ mục đích nào.

       Cũng không nên tự dấn sâu hành trì

           Tự kỷ khổ hạnh chi, đau khổ

           Không xứng chỗ bậc Thánh thanh cao,

               Không liên hệ mục đích nào’.

       Do duyên ấy, được nói vào như trên.  

 

          Khi nói lên : ‘Hai cực đoan đó

          Phải từ bỏ, vì có con đường

              Trung Đạo – đã được Pháp Vương &

       Thế Tôn giác ngộ, đảm đương tác thành

          Về mắt và tác thành về trí,

          Đưa đến sự đình chỉ, tịnh an,

              Thượng trí, giác ngộ, Niết bàn,

       Duyên gì được nói liên quan như vầy ?

          Đường Thánh này tám ngành diễn tiến :

          Chánh tri kiến rồi chánh tư duy,

              Chánh ngữ, chánh nghiệp đồng thì

       Chánh mạng, chánh tinh tấn tri hành thường,

          Chánh niệm, chánh định – đường chánh đó.

 

          Khi nói đến : ‘Từ bỏ cả hai

              Cực đoan ấy’, vì có ngay

       Con đường Trung Đạo Như Lai đã hành,

          Đã giác ngộ, tác thành mắt, trí

          Đưa đến sự đình chỉ, tịnh an,

              Thượng trí, giác ngộ, Niết bàn.

       Do duyên ấy, được rõ ràng nói ra.  

 

          Khi nói là : ‘Nên biết tán thán,

          Biết chỉ trích’. Biết tán thán rồi

              Và khi biết chỉ trích rồi

       Thì không chỉ trích, không lời tán dương,

          Chỉ nên thường thuyết pháp có lợi,

          Do duyên gì nói tới như vầy ?

              Ở đây, các Tỷ Kheo này !

       Thế nào là tán thán đầy hân hoan ?

 

          Sao nói sang chỉ trích điều đó

          Nhưng không có thuyết pháp mọi thời ?

             Vị ấy chỉ trích số người

       Bảo : ‘Những ai tìm thấy nơi lạc này,

          Liên hệ ngay với dục, mê mẩn

          Loại hỷ dẫn hạ liệt, phàm phu,

              Đê tiện, không xứng Thánh từ,

      Không liên hệ mục đích’, như vậy thời

         Tất cả người như vậy đau khổ,

         Có ưu não, nhiệt não, phiền lao

             Như vậy tà đạo thuộc vào.

 

       Trái lại, không đam mê sâu đường tà

          Hạ liệt, đê tiện và phàm tục,

          Không xứng bực Thánh hiền vân… vân…

              Không liên hệ mục đích cần

       Thì không đau khổ, không phần phiền lao

          Không ưu não, thuộc vào chánh đạo’.

 

          Hoặc nhiên hậu vị ấy ở đây  

              Chỉ trích một số người vầy :

      ‘Những ai mê đắm, thường hay hành trì

          Tự kỷ khổ hạnh, thì không xứng

          Bậc Thánh, không tương ứng liên quan

              Mục đích. Tất cả họ toàn

       Có sự đau khổ, mọi đàng phiền lao,

          Có ưu não, thuộc vào tà đạo.

          Bằng trái lại, chánh đạo thuộc về.

              Trài ngược với các vấn đề     

       Ở trên nói đến mọi bề khác đi.

          Hoặc vị ấy một thì chỉ trích

          Một số người, nói khích bác là :

             ‘Những ai chưa đoạn tận qua

       Hữu kiết sử, họ đều là khổ đau,

          Có phiền lao, ưu não, nhiệt não,

          Thuộc tà đạo. Hoặc là vị đây

              Tán thán một số người vầy :

      ‘Những ai đã đoạn tận rày cho xong

          Hữu kiết sử, họ không đau khổ,

          Không phiền lao, hết chỗ não ưu,

              Thuộc chánh đạo. Các Tỳ-Khưu !

       Là có chỉ trích, có điều tán dương,

          Nhưng không có tận tường thuyết pháp.

 

          Thế nào có thuyết pháp, nhưng mà  

              Không có tán thán cùng là

       Không có chỉ trích ? Nói ra như vầy :

         ‘Bất cứ ai tìm thấy lạc đó,

          Liên hệ với dục, có mê say,

              Hỷ hạ liệt, đê tiện này

       Phàm phu, không xứng bậc Thầy Thánh nhân,

          Không liên hệ về phần mục đích,

          Những vị ấy trầm nịch, khổ đau

              Có ưu não, có phiền lao

       Thuộc tà đạo’. Vị ấy mau thuyết về :

         ‘Sự đam mê là pháp đau khổ

          Có phiền lao, ưu não, đạo tà’.

 

              Vị ấy cũng thuyết pháp ra : 

      ‘Không đam mê cũng chính là pháp duyên

          Không đau khổ, không phiền, nhiệt não, 

          Không ưu não, chánh đạo thuộc nơi’.

              Vị ấy không nói mọi thời :

      ‘Tự kỷ khổ hạnh những người đam mê

          Là không hề xứng bậc Thánh thế !

          Không liên hệ mục đích, khổ đau,

              Ưu não, nhiệt não, phiền lao,

       Thuộc tà đạo. Chỉ trước sau thuyết là

         ‘Sự đam mê chính là tà loại’.

 

          Và ngược lại, không nói vấn đề 

             ‘Những ai không có đam mê…

       Không khổ, chánh đạo thuộc về ở đây’.

          Và vị này chỉ thuyết pháp, bảo :

         ‘Sự an hảo không đam mê này

              Là không đau khổ dằng dai

       Không ưu & nhiệt não, không rày phiền lao,

          Thuộc chánh đạo’. Rồi sau vị ấy  

          Không có nói đại loại như vầy :

 

             ‘Những ai chưa đoạn tận ngay

       Hữu kiết sử, những vị này đều qua

          Sự khổ đau, có ra ưu não,

          Có nhiệt não và có phiền lao’.

 

              Chỉ thuyết pháp, nói như sau : 

      ‘Khi hữu kiết sử chưa mau diệt trừ

          Thì hữu chưa đoạn trừ, diệt tận’.

          Vị ấy vẫn không nói : ‘Những ai

              Đã diệt hữu kiết sử này,

       Họ không đau khổ, không rày phiền lao’…

          Vị ấy thuyết pháp vào điều ấy :

         ‘Hữu kiết sử cả thảy diệt rồi,

               Hữu được đoạn tận tức thời’.

       Các Tỷ Kheo ! Như vậy nơi điều này

          Là không khen, không hay chỉ trích,

          Chỉ thuyết pháp nêu ích lợi ra.

 

              Khi nói : ‘Biết tán thán, và  

       Nên biết chỉ trích’, chỉ là thuyết thôi.

          Chính do duyên này thời nói vậy.

          Khi nói : ‘Phải biết phán xét thầm

              Về lạc, thì nên chú tâm

       Vào nội lạc. Duyên gì nhằm nói đây ?

 

          Chúng Tăng này ! Năm dục trưởng dưỡng.

          Vậy năm dục trưởng dưỡng là gì ?

              Các sắc pháp do mắt ni

       Nhận thức khả ái, mọi thì đáng yêu

          Liên hệ điều dục và hấp dẫn.

          Các tiếng dẫn nhận thức do tai

              Hương do mũi nhận thức ngay,

       Vị do lưỡi nhận thức đầy thích tăng,

          Xúc do thân cảm giác, khả hỷ,

          Khả ái và khả ý, liên quan

              Đến dục, hấp dẫn vô vàn,

       Năm dục trưởng dưỡng mọi đàng là đây.

 

          Tỷ Kheo này ! Do duyên năm dục

          Trưởng dưỡng ấy tiếp tục khởi lên

              Lạc và hỷ được gọi tên

       Là dục & uế lạc tạo nên mọi thì

          Phàm-phu-lạc hay phi-thánh-lạc.

          Như Lai nói loại lạc như vầy

              Không nên thực hành hằng ngày

       Không nên tu tập, chớ rày mãn sung,

          Nên sợ hãi vô cùng lạc đó.

          Chúng Tăng ! Có tinh tấn hành trì 

              Ly dục, bất thiện pháp ly,

       Chứng đạt, an trú vào chi Nhất Thiền

          Một trạng thái an nhiên hỷ lạc

          Ly dục sanh, có các tứ, tầm.

              Rồi đình chỉ tứ và tầm

       Chứng, trú Đệ nhị Thiền tâm an lành,

          Một trạng thái định sanh vui thực,

          Tầm & tứ dứt, nội tĩnh nhất tâm

              Chứng, trú Đệ tam Thiền tâm,

       Rồi Thiền đệ tứ chứng tầm, trú an.

          Gọi rõ ràng là xuất-ly-lạc,

          Viễn-ly-lạc, an-tịnh-lạc, và 

              Giác-ngộ-lạc. Thì Như Lai

       Bảo thực hành loại lạc này cần chuyên,

          Nên tu tập, khiến nên sung mãn,

          Không sợ hãi. Hoặc khoản nói về :

             ‘Phải nên biết phán xét về

       Lạc ấy’. Khi phán xét về lạc xong

          Chú tâm trong nội lạc ở đấy

          Chính do duyên như vậy nói điều

              Phán xét về lạc sớm chiều

       Không khiếp vía, không sợ nhiều trải qua.

 

          Khi nói là : ‘Không nên có tật 

          Nói lên lời bí mật với ai,

              Khi mặt đối mặt với ai

       Không nói lời lẽ khiến ai mất lòng.

 

          Do duyên gì nói trong ý đó ?

          Các Tỷ Kheo ! Khi có biết qua

              Một lời bí mật nói ra

       Không thực, hư vọng. Cùng là điều đây

          Không liên hệ đến ngay mục đích

          Để lợi ích, chớ có nói lời

              Bí mật ấy ở mọi thời.

       Nếu lời bí mật là lời thực chân

          Không hư vọng, nhưng phần đáng kể

          Không liên hệ mục đích, thì nên

              Đừng nói lời bí mật trên.

       Còn nếu là thực, có liên hệ rồi

          Đến mục đích, tùy thời mà nói.

 

          Cũng như vậy, khi nói với ai 

              Một lời mất lòng, xét soi

       Để không nói hoặc tùy thời nói lên.

 

          Khi nói đến : ‘Hãy nên chậm rãi 

          Nói từ từ, đừng mãi vội vàng’.

              Do duyên gì được nói sang ?

       Ở đây, nếu nói vội vàng, thì thân

          Bị mệt mỏi, tâm thần tổn hại,

          Tiếng tổn hại, cổ họng đau khan,

              Lời nói một người vội vàng

       Không được hiểu, không rõ ràng nêu lên.

 

          Khi nói đến : ‘Chớ nên chấp trước

          Địa-phương-ngữ khi được nghe qua,

              Nhưng cũng chớ đi quá xa

       Ngôn ngữ thường nhật chúng ta hay dùng.

          Do duyên gì nói chung như thế ?

          Thế nào kể chấp trước ở đây

              Về địa phương ngữ như vầy

       Quá xa ngôn ngữ ta hay dùng nhiều ?

          Các Tỷ Kheo ! Trong nhiều quốc độ

          Người ta có tiếng nói khác nhau,

              Chữ viết cũng lại khác nhau.

       Có người chấp thủ chấp vào điều đây, 

          Nói như vầy : ‘Ngôn ngữ, chữ viết

          Chỉ như vậy mới thiệt đúng rồi,

              Ngoài ra hư vọng mà thôi !

       Như thế, họ chấp trước nơi điều là

          Địa phương ngữ, quá xa ngôn ngữ

          Mà căn bản họ tự dùng thường.

 

              Thế nào không chấp trước thường

     Tiếng thường dùng, tiếng địa phương hằng ngày ?

          Các người này  biết các quốc độ

          Những tiếng có, chữ viết khác xa.

              Người không chấp thủ nói là :

      ‘Các vị ấy y cứ qua thế này,

          Đã giải thích như vầy’. Như thế

          Là không để chấp trước trói mình,

              Không xa ngôn ngữ thường tình,

       Chính điều đó là duyên sinh chấp trì.

 

          Ở đây, phàm lạc gì liên hệ

          Với dục để có hỷ đam mê 

              Hạ liệt, đê tiện đáng chê

       Không xứng bậc Thánh, không hề liên quan

          Đến mục đích. Pháp toàn đau khổ

          Có ưu não, nhiệt não, phiền lao,

              Pháp này tà đạo thuộc vào

       Là pháp hữu tránh, tránh mau tức thì.

 

          Còn trái lại, các Tỳ-Kheo Chúng !

          Phàm lạc gì mà chúng cận kề

              Với dục, nhưng không đam mê

       Loại hỷ hạ liệt và đê tiện này

          Phàm phu đầy, không xứng Thánh tịch,

          Có liên hệ mục đích trước sau,

              Pháp ấy không có khổ đau,

       Không có ưu não, phiền lao – thuộc về   

          Chánh đạo. Pháp thuộc về vô tránh.

 

          Phàm tự kỷ khổ hạnh hành trì, 

              Đau khổ, không xứng Thánh uy,

       Không liên hệ mục đích gì thanh cao

          Như vậy có phiền lao, ưu não,

          Thuộc tà đạo. Hữu tránh pháp này.

 

              Trái lại với những điều đây

       Thuộc pháp vô tránh, hành ngay pháp này.

 

          Các Tỷ Kheo ! Ở đây Trung đạo

          Được Phật Bảo giác ngộ, tác thành,

              Về mắt, về trí tác thành

       Đưa đến thắng trí, tịnh thanh, Niết bàn.

          Pháp hoàn toàn không có đau khổ

          Không ưu não, phiển não lầm sai

              Chánh đạo, vô tránh pháp này.

 

       Các Tỷ Kheo ! Còn ở đây nói về

          Pháp tán thán hoặc về chỉ trích

          Nhưng không thích thuyết pháp thanh cao,

              Pháp có ưu não, khổ đau

       Nhiệt não, tà đạo thuộc vào dạng đây,

          Nên pháp này là ‘pháp hữu tránh’.

 

          Trái lại, ‘pháp vô tránh’ hiểu tường :

              Pháp không chỉ trích, tán dương

       Chỉ có thuyết pháp, pháp thường vui an,

          Thuộc chánh đạo, mọi đàng không khổ.

 

          Còn pháp có dục lạc, chính là 

              Uế lạc, phàm phu lạc, và

       Phi thánh lạc, pháp toàn là khổ đau,

          Có ưu não, thuộc vào ‘hữu tránh’.

 

          Ngược lại, pháp ‘vô tránh’ này là  

              Xuất ly lạc, lạc rời xa,

       An tịnh lạc, chánh đạo là pháp đây.

 

          Chúng Tăng này ! Lời nói bí mật  

          Không chân thật, hư vọng, tào lao

              Không liên hệ mục đích nào

       Pháp có nhiệt não, khổ đau, đạo tà,

          Pháp này là ‘hữu tránh’ được gọi.

 

          Còn ngược lại, ‘vô tránh’ pháp này 

              Lời nói bí mật ở đây

       Chân thật, không vọng, không dây dưa gì

           Đến mục đích, pháp ni đau khổ,

           Thuộc tà đạo, ưu não, phiền lao.

               Còn lời nói mất lòng nào

       Khi mặt đối mặt, thuộc vào vọng ngôn,

          Không chân thật, ẩn tồn hư vọng

          Không liên hệ nhanh chóng mục tiêu,

              Có ưu não, đau khổ nhiều

       Là pháp ‘hữu tránh’, pháp nêu đạo tà.

 

          Ngược lại là pháp ‘vô tránh’ đó  

          Lời chân thật, không có khổ đau

              Thuộc chánh đạo, không phiền lao.

 

       Chúng Tăng ! Còn những lời nào nói ra   

          Một cách vội vàng và pháp đó                

          Có ưu não và có phiền lao

              Thuộc tà đạo, có khổ đau

       Là pháp ‘hữu tránh’ thuộc vào diện đây.

 

          Ngược điều này là pháp ‘vô tránh’

          Lời nói lên một cách từ từ

              Không đau khổ, không ưu tư,

       Thuộc chánh đạo, pháp an như thuận hòa.

 

          Các Tỷ Kheo ! Người mà chấp cự

          Địa phương ngữ và đi quá xa

              Ngôn ngữ nơi mà người ta

       Vẫn thường sử dụng trải qua hằng ngày.

          Và pháp này đau khổ, ưu não,

          Thuộc tà đạo, nhiệt não, phiền lao

              Là pháp ‘hữu tránh’ thuộc vào.

 

       Ngược lại, ‘vô tránh’ pháp nao thuộc về   

          Không chấp nê vào địa phương ngữ,

          Khi đi quá ngôn ngữ thường dùng,

              Không đau khổ, và nói chung

       Không có ưu não, vô cùng chánh chân

          Là pháp phần ‘vô tránh’ an lạc.

 

          Do vậy, các Phích-Khú ! Các ông

              Phải tự tu học, hiểu thông :

       Chúng ta phải biết nằm lòng tế thô

          Hữu tránh pháp cùng Vô tránh pháp,

          Sau  khi biết hai pháp này thì

              Chúng ta sẽ cố hành trì

       Về ‘Vô tránh đạo’ mọi thì trải qua.

 

          Các Tỷ Kheo ! Thiện gia nam tử

          Tu-Bồ-Đề tức Sú-Phú-Ti    (*) 

              Vô tránh pháp đã hành trì

       Một cách tinh tấn, mọi thì vui an ”.

 

          Đức Thế Tôn nghiêm trang thuyết giảng

          Pháp viên mãn, vi diệu lạc an

              Chư Tỷ Kheo trong đạo tràng

       Hoan hỷ tín thọ lởi vàng Thế Tôn ./- 

 

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  ( 3 L )

 

*

*  *

 

(  Chấm dứt Kinh số 139 :   VÔ TRÁNH PHÂN BIỆT   

–  ARANAVIBHANGA  Sutta  )  

 

 

 

 ____________________________

 

 (*) : Tôn-giả Tu-Bồ-Đề  –  Subhuti  – là vị trong Thập Đại Đệ Tử

         của Đức Phật, là bậc Giải Không đệ nhất. 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/07/2021(Xem: 11177)
Thật không ngờ trong bối cảnh xã hội mà toàn cầu thế giới đang khẩn trương đối phó với đại dịch kinh hoàng của thế kỷ 21 thế nhưng những người con đầy tâm huyết của Đức Thế Tôn chỉ trong nửa năm đầu 2021 đã thành lập được hai trang Website Phật học tại hải ngoại : Thư viện Phật Việt tháng 2/2021. do nhóm cư sĩ sáng tạo trang mạng của HĐHP, ( hoangpháp.org ) do ban Báo chí và xuất bản của Hội đồng Hoằng pháp tháng 6/2021 thành lập với sự cố vấn chỉ đạo của HT Thích Tuệ Sỹ Từ ngày có cơ hội tham học lại những hoa trái của Phật Pháp ( không phân biệt Nguyên Thủy, Đại Thừa ) , Tôi thật sự đã cắt bỏ rất nhiều sinh hoạt ngày xưa mình yêu thích và để theo kịp với sự phát triển vượt bực theo đà tiến văn minh cho nên đã dùng toàn bộ thời gian còn lại trong ngày của một người thuộc thế hệ 5 X khi về hưu để tìm đọc lại những tác phẩm , biên soạn, dịch thuật của Chư Tôn Đức,qua Danh Tăng, Học giả nghiên cứu khắp nơi .
26/07/2021(Xem: 8136)
Hòa thượng thế danh là Nguyễn Minh Có, pháp danh Huệ Đạt, pháp hiệu Hoàn Thông, sinh năm Đinh Tỵ (1917) triều Khải Định năm đầu, tại ấp Hội An, xã An Phú Tân, huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh, trong một gia đình nông dân nghèo. Thân phụ là cụ ông Nguyễn Văn Phuông, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Sửu, Ngài mồ côi cha lúc 13 tuổi. Thiện duyên đưa đến cho hạt mầm Bồ đề trong tâm Ngài phát triển. Năm 1930, trong thân tộc có ông Hồ Trinh Tương, gia tư khá giả, phát tâm phụng sự Tam Bảo, xuất tiền của xây một ngôi chùa, lấy hiệu là Hội Thắng Tự. Ông xuất gia đầu Phật, húy là Tường Ninh, pháp danh Đắc Ngộ, pháp hiệu Niệm Hưng và làm trú trì chùa này để hoằng dương đạo pháp. Ngài được thân mẫu cho phép xuất gia với Sư cụ trú trì chùa Hội Thắng khi vừa mồ côi cha, được ban pháp danh Huệ Đạt. Năm 16 tuổi (1933) Ngài được Bổn sư cho thọ giới Sa Di.
25/07/2021(Xem: 5077)
Mấy ngày nay trên Facebook có chia sẻ lại câu chuyện (nghe nói là xảy ra năm 2014) về cô bé đã “ăn cắp” 2 cuốn sách tại một nhà sách ở Gia Lai. Thay vì cảm thông cho cô bé ham đọc sách, người ta đã bắt cô bé lại, trói 2 tay vào thành lan can, đeo tấm bảng ghi chữ “Tôi là người ăn trộm” trước ngực, rồi chụp hình và bêu rếu lên mạng xã hội. Hành động bất nhân, không chút tình người của những người quản lý ở đây khiến ta nhớ lại câu chuyện đã xảy ra cách đây rất lâu: một cậu bé khoảng 14-15 tuổi cũng ăn cắp sách trong tiệm sách Khai Trí của bác Nguyễn Hùng Trương, mà người đời hay gọi là ông Khai Trí. Khi thấy lùm xùm, do nhân viên nhà sách định làm dữ với cậu bé, một vị khách ôn tồn hỏi rõ đầu đuôi câu chuyện, tỏ vẻ khâm phục cậu bé vì học giỏi mà không tiền mua sách nên phải ăn cắp, ông đã ngỏ lời xin tha và trả tiền sách cho cậu.
23/07/2021(Xem: 16807)
Giữa tương quan sinh diệt và biển đổi của muôn trùng đối lưu sự sống, những giá trị tinh anh của chân lý bất diệt từ sự tỉnh thức tuyệt đối vẫn cứ thế, trơ gan cùng tuế nguyệt và vững chãi trước bao nổi trôi của thế sự. Bản thể tồn tại của chân lý tuyệt đối vẫn thế, sừng sững bất động dẫu cho người đời có tiếp nhận một cách nồng nhiệt, trung thành hay bị rũ bỏ, vùi dập một cách ngu muội và thô thiển bởi các luận điểm sai lệch chối bỏ sự tồn tại của tâm thức con người. Sự vĩnh cửu ấy phát xuất từ trí tuệ vô lậu và tồn tại chính bởi mục đích tối hậu là mang lại hạnh phúc chân thật cho nhân loại, giúp con người vượt thoát xiềng xích trói buộc của khổ đau. Tuỳ từng giai đoạn của nhân loại, có những giai đoạn, những tinh hoa ấy được tiếp cận một cách mộc mạc, dung dị và thuần khiết nhất; có thời kỳ những nét đẹp ấy được nâng lên ở những khía cạnh khác nhau; nhưng tựu trung cũng chỉ nhằm giải quyết những khó khăn hiện hữu trong đời sống con người và xã hội.
22/07/2021(Xem: 3484)
Tạp chí Nghiên cứu Phật học, một trong những tạp chí nghiên cứu học thuật về Phật giáo tại Hoa Kỳ, đã có buổi lễ ra mắt các thành viên trong Ban Biên tập và nhận Quyết định Bản quyền Nghiên cứu Học thuật từ Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ vào ngày 1 tháng 7 năm 2020, Thầy Thích Giác Chinh, người đảm nhận vai trò Sáng lập kiêm Tổng biên tập, đã nhận được Thư chấp thuận cấp mã số ISSN từ Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ: Tạp chí Nghiên cứu Phật học in: ISSN 2692-7357 Tạp chí Nghiên cứu Phật học Online: eISSN 2692-739X Ngôn ngữ: Tiếng Anh.
11/07/2021(Xem: 6631)
Tháng vừa rồi, tôi dành thời gian để đọc và suy ngẫm về cuốn sách “Tìm bình yên trong gia đình”. Đơn giản bởi tôi và nhiều chúng ta đã dành quá nhiều thời gian hướng ngoại và đôi khi quên mất gia đình. Đôi khi giật mình, đã không đầu tư đủ thời gian cho ngôi nhà của mình, đã không biết cách để bình yên luôn có trong ngôi nhà thân thương của mình. Cảm quan về tựa đề sách và trang bìa của cuốn sách khiến tôi có cảm giác như được bước vào một thế giới với những trang sách tràn ngập nội dung bình yên, giúp tôi được bồng bềnh nhẹ tựa mây. Đọc sách, tôi giật mình: Những bước chân trên cuộc hành trình TÌM BÌNH YÊN TRONG GIA ĐÌNH trong cuốn sách thực sự không hẳn êm đềm như những gì tôi tưởng tượng. Sau khi đọc hết một nửa chương sách. Mình đã phải dừng lại hồi lâu. Bởi vì quá xúc động!
16/06/2021(Xem: 18230)
Thời gian như đến rồi đi, như trồi rồi hụp, thiên thu bất tận, không đợi chờ ai và cũng chẳng nghĩ đến ai. Cứ thế, nó đẩy lùi mọi sự vật về quá khứ và luôn vươn bắt mọi sự vật ở tương lai, mà hiện tại nó không bao giờ đứng yên một chỗ. Chuyển động. Dị thường. Thiên lưu. Thiên biến. Từ đó, con người cho nó như vô tình, như lãng quên, để rồi mất mát tất cả... Đến hôm nay, bỗng nghe tiếng nói của các bạn hữu, các nhà tri thức hữu tâm, có cái nhìn đích thực rằng: “Đạo Phật và Tuổi Trẻ.” “Phật Việt Trong Lòng Tộc Việt.” “Dòng Chảy của Phật Giáo Việt Nam” hay “Khởi Đi Từ Hôm Nay.” Tiếng vang từ những lời nói ấy, đánh động nhóm người chủ trương, đặt bút viết tâm tình này. Đạo Phật có mặt trên quê hương Việt Nam hai ngàn năm qua, đã chung lưng đấu cật theo vận nước lênh đênh, khi lên thác, lúc xuống ghềnh, luôn đồng hành với dân tộc. Khi vua Lê Đại Hành hỏi Thiền sư Pháp Thuận về vận nước như thế nào, dài ngắn, thịnh suy? Thì Thiền sư Pháp Thuận đã thấy được vận nước của quê hương mà
10/06/2021(Xem: 13037)
Biên cương thế giới ngày nay bị thu hẹp với nền viễn thông liên mạng tân tiến, trong khi nhận thức của các thế hệ trẻ lại được mở rộng và sớm sủa hơn, khiến niềm tin và lẽ sống chân thiện dễ bị lung lay, lạc hướng. Thông tin đa chiều với sự cố ý lạc dẫn từ những thế lực hoặc cá nhân vị kỷ, hám lợi, thúc đẩy giới trẻ vào lối sống hời hợt, hiểu nhanh sống vội, ham vui nhất thời, tạo nên hỗn loạn, bất an trên toàn cầu. Trước viễn ảnh đen tối như thế, con đường hoằng pháp của đạo Phật rất cần phải bắt nhịp với đà tiến của nền văn minh hiện đại, nhằm tiếp cận với từng cá nhân, quân bình đời sống xã hội, giới thiệu và hướng dẫn con đường mang lại an vui hạnh phúc cho mình, cho người. Đó là lý do dẫn đến cuộc họp mở rộng giữa chư tôn đức Tăng Ni, Cư sĩ và Huynh trưởng Gia Đình Phật Tử VN tại hải ngoại và Việt Nam, được tổ chức vào lúc 08:50 PM ngày 08/5/2021 qua chương trình Zoom Online, để rồi đồng thuận tiến đến việc thành lập Hội Đồng Hoằng Pháp. Hội Đồng Hoằng Pháp bao gồm nhiều
10/06/2021(Xem: 4419)
Mỗi lần đến chùa Vạn Phước, dù không chú ý, Phật tử ai ai cũng thấy Thầy Từ An, phó Trụ Trì chùa, mỗi ngày, ngoài những thời kinh, khóa tu, rảnh rỗi Thầy ra sân chùa cặm cụi nhổ cỏ gấu hết cây này đến cây kia, hết chỗ này đến chỗ nọ. Cứ xoay vần như thế ngày này qua tháng khác, năm này sang năm kia rồi khi cỏ gấu mọc lại, Thầy lại tiếp tục nhổ như một hạnh nguyện. Đặc biệt nữa, cứ mỗi lần nhổ xong một cây cỏ gấu, Thầy thường lẩm nhẩm: “Nhổ này một cây phiền não..., nhổ này một cây phiền não...“. Nhưng Thầy nhổ không bao giờ hết, vì cỏ gấu vốn là một loại cỏ dại, đã là cỏ thì rất khó tiêu diệt. Nếu xịt thuốc chỉ cháy lá hoa ở phần trên, rễ vẫn còn ở phần dưới, thậm chí có nhổ tận gốc nhưng chỉ cần sót lại một chút thân, rễ, một thời gian sau cỏ vẫn mọc lại như thường; chỉ trừ duy nhất tráng xi măng lót gạch, cỏ không còn đất sống may ra mới dứt sạch.
20/05/2021(Xem: 12537)
Kinh Đại Bát Nhã có tất cả 600 quyển, gồm 5 triệu chữ trong 25 ngàn câu, là bộ kinh khổng lồ trong tàng kinh cát của Phật Giáo Đại Thừa, do Đức Thế Tôn thuyết giảng trong 22 năm. Pháp Sư Huyền Trang dịch từ tiếng Phạn sang Hán và Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm (1911-2003) dịch từ Hán sang Việt. Lão Cư Sĩ Thiện Bửu đã dành 10 năm lao nhọc, vừa học Kinh vừa viết luận bản này để xiển dương tư tưởng Bát Nhã theo tinh thần truyền bá và lưu thông. Ông đã khiêm tốn tự nhủ rằng, không biết những gì mình viết có phù hợp với tinh thần của bộ Đại Bát Nhã Ba La Mật hay không, nhưng chúng tôi cho rằng việc làm của Lão Cư Sĩ là việc cần làm và thiết thực hữu ích, ông đã giúp tóm tắt ý nghĩa và chiết giải những chỗ chính yếu của Kinh. Có thể nói đây là bản sớ giải đồ sộ thứ hai (trọn bộ 8 tập) về Kinh Đại Bát Nhã, theo sau Đại Trí Độ Luận (5 tập) ở Việt Nam. Xin tán thán công đức của Lão Cư Sĩ đã đặt viên đá đầu tiên, để khuyến khích cho những hành giả khác, cùng phát tâm xây dựng nền mó
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]