Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

105. Kinh Thiện Tinh

19/05/202010:58(Xem: 9442)
105. Kinh Thiện Tinh

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majhima  Nikàya )


Tập III
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : [email protected]


105. Kinh THIỆN TINH

( Sunakkhatta sutta )

 

Như vậy, tôi nghe :

 

          Một thời, Đức Thế Tôn Giác Giả

          Vê-Sa-Li, Ngài đã trú qua

              Ku-Ta-Gá-Rá-Sa-La  (1)

     (Giảng đường Trùng Các), rừng là Đại Lâm (2)

          Lúc ấy nhằm có nhiều Phích-Khú  (3)

          Trước Điều Ngự, tuyên bố chính mình

              Đã chứng trí giác viên minh :

    “ Chúng con biết được đinh ninh ngọn ngành :

          Sanh đã tận, tựu thành Phạm hạnh

          Điều chân chánh mình đã thực hành

              Không còn trở lại (Vô Sanh) ”.

 

       Lúc ấy một vị vốn ngành thế gia

          Lích-Cha-Vi Pút-Ta (4) dòng dõi

          Có tên gọi : Su-Nách-Khách-Ta.

              Được nghe về chuyện kể là

       Nhiều Phích-Khú trước Phật-Đà trí minh

          Tuyên bố mình đã chứng trí giác

          Đã thành đạt Ứng Cúng, Vô Sanh.

              Su-Nách-Khách-Ta thân hành     

       Đến hương thất đấng Cha Lành Thế Tôn

          Đảnh lễ đức Thế Tôn Thiện Thệ

          Rồi ngồi kế bên Phật, thưa ngay :

    ___________________________

 

   (1) : Kutagarasala – Trùng Các giảng đường tại thành Vesali

         (Tỳ-Xá-Ly).           (2) :  Đại Lâm – Mahàvana.

   (3) : Bhikkhu  được phiên âm là Tỳ-Khưu hay Tỷ-Kheo.

   (4) : Licxhaviputtta : người con của dòng họ Licchavi.

Trung Bộ (Tập 3) Kinh  105 :  SUNAKKHATTA   *  MLH –  544

 

        – “ Bạch Thế Tôn ! Con nghe vầy :

       Nhiều Tỷ Kheo ở trước Ngài, nói ra

          Là mình đã chứng qua trí giác

          Đã thành đạt A-La-Hán rồi.

              Không biết các vị này thời

       Tuyên bố chân chánh, hay lời nói đây

          Các vị này vì tăng-thượng-mạn

          Tuyên bố sảng, không đúng chăng là ? ”.

 

        – “ Này ông Su-Nách-Khách-Ta !

       Những Phích-Khú trước mặt Ta nói là

          Đã chứng qua trí giác bậc Thánh

          Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành

              Điều nên làm, đã thực hành

       Không còn trở lại, Vô sanh hiển bày.

          Có ở đây một số Phích-Khú

          Đã chân chánh khi thú nhận là

              Mình đã trí giác chứng qua.

       Nhưng cũng có kẻ gian ngoa, chỉ vì

          Tăng-thượng-mạn, dối khi tuyên bố

          Chứng trí giác. Thật hổ ngươi thay !

 

              Những Tỷ-Kheo chân chánh đây

       Với các vị ấy, đúng ngay như vầy.

          Nhưng ở đây,một số Phích-Khú

          Tăng-thượng-mạn, nên tự nói là

              Trí giác mình đã chứng qua.

       Như Lai suy nghĩ : ‘Nay Ta hãy vì

          Những vị ấy, thuận tùy thuyết pháp’. 

          Nhưng phức tạp khi có số người

              Ngu si, hỏi Ta lôi thôi,

       Su-Nách-Khách-Tá ! Ta thời nghĩ qua :

Trung Bộ (Tập 3) Kinh  105 :  SUNAKKHATTA   *  MLH –  545

 

         ‘Ta hãy vì họ mà thuyết pháp,

          Và không thể làm khác điều này ”.

 

        – “ Bạch đức Thế Tôn ! Như vầy 

       Đã đúng thời giảng pháp hay, thuần từ

          Ngài thuyết như thế nào, chắc hẳn

          Chúng Tỷ Kheo sẽ gắng thọ trì ”.

 

        – “ Su-Nách-Khách-Ta ! Vậy thì

       Hãy khéo tác ý đồng thì khéo nghe ”.

 

    – “ Con xin nghe lời Ngài phân tách ”. 

 

    – “ Này Su-Nách-Khách-Tá ! Ở đây

              Có năm dục-trưởng-dưỡng này

       Sao là năm ? Các sắc đây do là

          Mắt nhận thức vui và vừa ý

          Hấp dẫn, liên hệ chí dục này.

              Các tiếng nhận thức do tai

       Các hương do mũi, xúc này do thân

          Các vị, nhân do lưỡi nhận thức…

          Đáng yêu, thực vừa ý, vui, và

              Hấp dẫn, liên hệ dục tà.

       Này ông Su-Nách-Khách-Ta ! Đó là

          Năm dục-trưởng-dưỡng mà phải rõ.

          Nhưng sự tình này có trải qua 

              Khi một số người tỏ ra

       Thiên nặng vật chất phù hoa cõi đời

          Với những người bản tính thế đó

          Thích hợp họ phải tùy thuộc vào

              Sự phù hợp với điều nào

       Mà họ suy gẫm, mong cầu, nghĩ suy.

          Người đó chỉ thuận tùy giao thiệp

          Với người mà họ thích ưa thôi !

Trung Bộ (Tập 3) Kinh  105 :  SUNAKKHATTA   *  MLH –  546

 

              Nhưng nếu câu chuyện được khơi

       Bất động với họ thì người này đây

          Không lóng tai nghe và cảm thụ,

          Tâm không trú trí giác mọi thời.

              Y không giao thiệp với người

       Mà y không thích thú lời người đây.

 

          Ví như, này Su-Nách-Khách-Tá !

          Có người đã lâu lắm xa quê

              Làng hay thị trấn thuộc về

       Bỗng gặp một kẻ từ quê của mình

          Về văn minh hỏi qua tường tận

          Nơi làng hay thị trấn hiện nay ?

              Tình hình kinh tế nơi này ? 

       Về ăn uống, bệnh tật rày ra sao ?

          Người quen mau tường trình mọi sự

          Theo tuần tự câu hỏi nêu ra.

              Và này Su-Nách-Khách-Ta !

       Thế nào ông nghĩ xuyên qua chuyện vầy ?

          Có phải là người này chăm chú

          Lóng tai nghe, an trú tâm ngay

              Vào trí giác ; và người này

       Sẽ giao thiệp kẻ người này thích không ? ”.

 

    – “ Bạch Thế Tôn ! Đúng như vậy ạ !

 

    – “ Này Su-Nách-Khách-Tá ! Trải qua

              Người ấy cần được hiểu là

       Thiên nặng vật chất phù hoa cõi đời.

 

      *  Mặt khác, việc này thời xảy tới  

          Một số thiên nặng với điều là

              Bất Động, thích hợp trải qua

       Tùy thuộc để hợp điều mà họ đây

Trung Bộ (Tập 3) Kinh  105 :  SUNAKKHATTA   *  MLH –  547

 

          Suy tầm hay suy tư, và họ

          Chỉ giao thiệp người họ thích thôi !

              Nếu nói liên hệ việc đời

       Thuộc thế gian vật chất, thời người đây

          Bất động, không lóng tai nghe kỹ

          Không trú vào thượng trí mọi thời.

              Y không giao thiệp với người

       Mà y không thích thú lời nghe qua.

 

          Này Su-Nách-Khách-Ta ! Giả thử

          Một lá vàng khô tự lìa cành

              Không thể trở lại tươi xanh.

       Cũng vậy, với kẻ bình sinh thuộcvề

          Thiên nặng bề bất động thế đó

          Đã rời bỏ kiết sử, liên quan

              Kiết sử vật chất thế gian,

       Người ấy cần được rõ ràng hiểu thông :    

         ‘Đây là hạng người không liên hệ

          Kiết sử thể vật chất trần duyên

              Thiên nặng về bất động liền.

 

   *  Lại nữa, một số người thiên nặng về

          Vô Sở Hữu. Vấn đề được thấy

          Với người ấy, câu chuyện thích nghi

              Với người ấy, thì phải tùy

       Thế nào để hợp điều chi phải là

          Điều y sưu tầm và suy nghĩ,

          Người ấy chỉ giao thiệp với người

              Mà y thích thú. Nếu lời

       Liên hệ đến Bất động, thời người đây

          Không nghe, không lóng tai chăm chú  

          Không an trú vào trí giác ngay.    

Trung Bộ (Tập 3) Kinh  105 :  SUNAKKHATTA   *  MLH –  548

 

              Y không giao thiệp với ai

       Mà y không thích kẻ này, tránh xa.

          Này Su-Nách-Khách-Ta ! Được ví

          Một hòn đá đã bị vỡ đôi

              Không thể nối liền được rồi !

       Người thiên Vô-sở-hữu thời ví như

          Bị chặt đứt, đoạn trừ mau chóng

          Khỏi kiết sử Bất-động tức thời.

              Người ấy được hiểu là người

       Không liên hệ Bất-động, thôi không hề !

          Thiên nặng về Vô-sở-hữu cả.

 

          Này Su-Nách-Khách-Tá ! Trải qua

          *  Lại có sự tình xảy ra

       Một số người đã tỏ ra níu trì

          Về Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ.

          Với người tự thiên nặng điều đây

              Câu chuyện thích hợp người này

       Tùy sự phù hợp người này suy tư

          Chuyện nếu từ Vô-sở-hữu xứ

          Người ấy tự không lóng tai nghe

              Trí giác, tâm không trú về

       Người ấy lại cũng không hề xã giao

          Những người nào y không thích cả.

 

          Này Su-Nách-Khách-Tá ! Như so 

              Một người mỹ vị ăn no

       Đã ngán món ấy, dù cho chẳng cần.

          Y có ăn lại món ăn ấy ? ”.

 

    – “ Thưa không. Vì sao vậy ? Vì rằng

              Y đã không thiết món ăn

       Mà y đã ngán, muốn quăng bỏ vầy ”.

Trung Bộ (Tập 3) Kinh  105 :  SUNAKKHATTA   *  MLH –  549

 

    – “ Cũng vậy, này Su-Nách-Khách-Tá !

          Với người đã thiên nặng Xứ là

              Phi-tưởng-phi-phi-tưởng, và

       Vô-sở-hữu-xứ dẹp qua, chẳng cần

          Người ấy cần được hiểu cho rõ :

          Hạng người đó không liên hệ gì

              Kiết sử Vô-sở-hữu ni,

       Chỉ Xứ Phi-tưởng-phi-phi-tưởng này.

          Thiên nặng về Xứ đây hướng tới.

 

      *  Lại nữa, hỡi Su-Nách-Khách-Ta !   

              Sự tình này cũng xảy ra :

       Nhiều người thiên nặng, huớng qua Niết Bàn.

          Chánh Niết-bàn người này thiên nặng

          Câu chuyện hẳn thích hợp người này

              Phải tùy thuộc, phù hợp ngay

       Với điều người ấy vẫn hay suy tầm

          Và suy tư. Thâm tâm người đó

          Chỉ giao thiệp người họ thích thôi !

              Nếu câu chuyện hướng về nơi

       Phi-tưởng-phi-phi-tưởng, thời không nghe

          Không lóng tai, không hề trú lạc

          Vào trí giác, với lời chẳng ưa 

              Như ngọn cây Sa-La vừa

       Bị chặt đứt hẳn chẳng chừa ngọn ra.

 

          Này Su-Nách-Khách-Ta ! Sao thế ?    

          Vì Sa-La không thể sống khi

              Ngọn nó bị chặt đứt đi.

       Hạng người như thế là gì ở đây ?

          Phải hiểu ngay : Người không can dự

          Kiết sử Xứ Phi-tưởng-phi-phi,         

Trung Bộ (Tập 3) Kinh  105 :  SUNAKKHATTA   *  MLH –  550

 

              Thiên nặng Niết Bàn mọi thì. 

       Sự tình khác cũng thuận tùy xảy ra :

          Một số người nghĩ là : “ Tham ái

          Bậc tự tại Sa-môn gọi là

              Mũi tên, thuốc độc xấu xa

       Vô minh não hại người ta vô vàn.

          Với dục, tham, sân… toàn thứ hại

          Nay mũi tên tham ái, cùng là

              Thuốc độc vô minh… được ta

       Đoạn diệt, trừ khử, và ta thiên về

          Chánh Niết Bàn, không hề sinh lại ”.   

 

          Và vị ấy có thể tự hào 

              Vì thiên Niết-bàn trước sau,

       Với mục đích ấy truy cầu ngoài trong

          Những gì không thích hợp hoàn cảnh

          Khuynh hướng Chánh Niết-bàn thanh cao.

              Mắt vị ấy thường truy cầu

       Về sắc không thích hợp nào đó đây.

          Tai vị này có thể diễn biến

          Truy cầu tiếng không thích hợp nào,

              Mũi, lưỡi, thân, ý… truy cầu

       Hương, vị, xúc, pháp… không sao hợp vào.

 

          Khi lục căn truy cầu như vậy

          Khiến tham ái, dục vọng tức thì

              Nhiễu loạn tâm của vị ni,

       Do vậy đưa đến chết đi hay là

          Khổ trải qua gần như chết vậy.

 

          Này Su-Nách-Khách-Tá ! Như là 

              Có một mũi tên bắn ra

       Trúng vào một kẻ, thật là nguy thay !

Trung Bộ (Tập 3) Kinh  105 :  SUNAKKHATTA   *  MLH –  551

 

          Vì tên này tẩm thuốc độc luyện,

          Bạn bè và thân quyến người này

              Mời một Y-sĩ đến ngay

       Vị ấy giải phẩu giỏi, hay vô cùng

          Y-sĩ liền cắt xung quanh miệng

          Vết thương với phương tiện con dao,

              Rồi Y-sĩ dò tìm mau

       Với vật dụng dò tìm vào vết thương.

          Ông tìm phương rút mũi tên độc,

          Trừ khử hết chất độc do tên

              Rồi vị Y-sĩ nói lên :

 

 – “ Hiền-giả ! Đã rút mũi tên ra rồi,

          Thuốc độc cũng đồng thời trừ khử,

          Nay mọi thứ không còn hiểm nguy,

              Nhưng bạn phải ăn những gì

       Thức ăn thích hợp, luôn khi giữ gìn.

          Nếu cố ý, vô tình ăn phải

          Thức ăn ấy không thích hợp vào,

              Vết thương làm mủ đớn đau.

       Lại phải cẩn thận rửa lau thường thường,

          Xức thuốc cho vết thương liền miệng,

          Cẩn thận chuyện săn sóc vết thương,

              Khi ra gió nắng phải nương

       Đừng để dơ nhớp, bụi đường nhiễu nhương

          Khiến cho miệng vết thương nguy hại ”.

 

          Nhưng người ấy lại suy nghĩ là :  

           “ Tên đã rút khỏi thân ta,

       Nọc độc đã khử, nên ta hiện thời

          Thoát khỏi nơi nguy hiểm, biến chứng ”.

 

          Rồi người ấy ăn những thức ăn

Trung Bộ (Tập 3) Kinh  105 :  SUNAKKHATTA   *  MLH –  552

 

              Không thích hợp. Y như rằng !

       Vết thương làm mủ, y hằng đớn đau.

          Do không thường rửa lau, gìn giữ

          Không kiêng cử gió nắng, bụi dơ

              Lại không xức thuốc, phòng hờ

       Nên vết thương có bao giờ lành đâu !

          Nếu nhiễm trùng, lở sâu vết mổ

          Có thể dẫn đến chỗ tử vong.

 

              Su-Nách-Khách-Ta ! Tương đồng

       Cũng như sự kiện ở trong Tăng-đoàn

          Một số vị miên man nghĩ mãi :

        “ Tham ái ấy Đạo Sư nêu lên

               Như là thuốc độc, mũi tên

       Vô minh não hại lên trên con người

          Với dục, tham, đồng thời sân hại.

          Mũi tên ấy ta đã diệt trừ

              Thuốc độc vô minh cũng trừ,

       Ta thiên nặng đến Vô-dư Niết-bàn ”.

 

          Và vị ấy hoàn toàn tùy thích  

          Tự hào với mục đích hiện thì,

              Có thể truy cầu những gì

       Không thích hợp với phạm vi Niết-bàn.

          Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý

          Truy cầu sắc, hương, vị, âm thanh,

              Truy cầu xúc, pháp chẳng lành

       Không thích hợp với tịnh thanh hướng về

          Thời tham dục nhất tề nhiễu loạn

          Tâm vị ấy vô hạn bất kỳ

              Khiến chết hay gần chết đi.

       Su-Nách-Khách-Tá ! Vậy thì vị đây

Trung Bộ (Tập 3) Kinh  105 :  SUNAKKHATTA   *  MLH –  553

 

          Đã chết ngay ở trong Giới luật

          Của bậc Thánh ngay phút giây này.

              Vị ấy bỏ tu tập ngay

       Trở về hoàn tục, sống đầy đau thương.

          Điều này thường khổ như chềt tốt,

          Khi phạm một ô uế tội nào.

 

              Su-Nách-Khách-Ta ! Nói vào

       Một số Phích-Khú thanh cao hành trì

          Không truy cầu những gì không hợp

          Lục trần không thích hợp, không tầm,

              Tham dục không nhiễu loạn tâm,

       Vị ấy không bị dẫn dần đến nơi

          Chết tức thời hay gần như chết.

 

          Với ví dụ giống hệt như trên

              Một người bị bắn bởi tên

       Mũi tên thuốc độc tẩm lên mọi bề

          Được thân quyến, bạn bè tức khắc

          Mời một Y-sĩ thật tài ba

              Giải phẩu lấy mũi tên ra

       Dặn dò cẩn thận như là chuyện trên.

          Người ấy bèn y theo lời dặn

          Giữ vết thương cẩn thận mọi thời,

              Ăn thức ăn thích hợp thôi,

       Xức thuốc, với nắng gió thời tránh ngay,

          Giữ vệ sinh hằng ngày vết mổ,

          Cho nên chỗ vết thương mau lành.

              Người ấy được sống an lành

       Không đi đến chết hay gần chết đây.

 

          Cũng vậy, này Su-Nách-Khách-Tá !

          Sự kiện này được tả xảy ra :

Trung Bộ (Tập 3) Kinh  105 :  SUNAKKHATTA   *  MLH –  554

 

              Một số Tỷ Kheo nghĩ là :

    “ Tham ái được bậc Đại Sa-Môn ngài

          Đã gọi ngay : mũi tên, thuốc độc

          Vô minh nên tàn khốc hại người

              Với dục, tham, sân chẳng rời.

       Mũi tên tham ái đây thời hiện nay

          Được ta đoạn diệt ngay lập tức.

          Lục trần thực không thích hợp nào

              Được lục căn không truy cầu,

       Do tham dục không thể nào hại qua

          Nên người ấy tránh xa cái chết,

          Không khổ gần như chết trải qua.

 

              Và này Su-Nách-Khách-Ta !  

       Như hai ví dụ nói ra như vầy

          Khiến làm sáng tỏ ngay ý nghĩa

          Và ý nghĩa diễn tả như vầy :

 

              Vết thương đồng nghĩa ở đây

       Với sáu xúc xứ trình bày đinh ninh.

          Thuốc độc là vô minh cực hại

          Mũi tên ấy đồng nghĩa Ái này,

              Vật dụng dò tìm ở đây

       Đồng nghĩa với Niệm. Dao này ví như

          Thánh trí tuệ. Còn người Y-sĩ

          Đồng nghĩa bậc Toàn Trí Như Lai   

              A-La-Hán, Chánh Giác ngài.

       Su-Nách-Khách-Tá ! Đúng đây sự tình

          Vị Tỷ Kheo tự mình phòng giữ

          Đối với sáu xúc xứ. Nghĩ mau :

            “ Sanh y là gốc khổ đau”.

       Sau khi vị ấy hiểu sâu, tức thì

Trung Bộ (Tập 3) Kinh  105 :  SUNAKKHATTA   *  MLH –  555

 

          Trở thành vô-sanh-y chơn thiệt,

          Giải thoát nhờ đoạn diệt sanh y.

              Nếu còn nghĩ đến sanh y

       Không thể như vậy mọi thì xảy ra.

 

          Này Su-Nách-Khách-Ta ! Giả thử

          Có một thứ chén ngọc quý sao !

              Tuyệt đẹp, hương thơm ngạt ngào,

       Thuốc độc đã được tẩm vào chén đây,

          Một người hay tham sống sợ chết,

          Muốn khổ hết, an lạc vui vầy.

              Ông nghĩ ra sao điều này ?

       Người ấy có uống chén đây không nào ?

          Khi biết rằng uống vào sẽ chết

          Hoặc gần chết khi đã uống xong ? ”.

 

        – “ Bạch đức Thiện Thệ ! Thưa không ”. 

 

 – “ Cũng vậy. vị Tỷ Kheo trong chuyện này

          Chắc chắn phòng hộ ngay đối với

          Sáu xúc xứ, luôn khởi ý mau :

           “ Sanh y là gốc khổ đau ”

       Sau khi vị ấy hiểu sâu, tức thì

          Trở thành vô-sanh-y chơn thiệt,

          Giải thoát nhờ đoạn diệt sanh y.

              Nếu còn nghĩ đến sanh y

       Không thể như vậy mọi thì xảy ra.

 

          Này Su-Nách-Khách-Ta ! Ví dụ

          Con rắn độc tích tụ nọc xà,

              Với người ham sống thiết tha

       Luôn sợ chết, ông nghĩ ra thế nào ?

          Người ấy có đưa vào gần rắn

          Bàn tay hắn hay gót chân sau 

Trung Bộ (Tập 3) Kinh  105 :  SUNAKKHATTA   *  MLH –  556

 

              Cho rắn độc cắn không nào ? ”.

 

 – “ Bạch Phật ! Y chẳng thể nào thực thi 

          Điều ấy, vì biết rằng bị cắn

          Sẽ đi đến chết hẳn, hay là

              Khổ gần như chết xảy ra ? ”.

 

 – “ Cũng vậy,Su-Nách-Khách-Ta ! Vị này 

          Chắc chắn phòng hộ ngay thật kỹ

          Sáu xúc xứ, và nghĩ như sau :

           “ Sanh y là gốc khổ đau ”.

       Sau khi vị ấy hiểu sâu, tức thì

          Trở thành vô-sanh-y chơn thiệt

          Giải thoát nhờ đoạn diệt sanh y.

              Nếu còn nghĩ đến sanh y

       Không thể như vậy mọi thì xảy ra ”. 

 

          Lích-Cha-Vi Pút-Ta tín giả

          Là Su-Nách-Khách-Tá, hân hoan

              Nghe Phật thuyết giảng rõ ràng

       Vui mừng tín thọ lời vàng Thế Tôn ./- 

 

        Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  ( 3 L )

 

*

*  *

 

(  Chấm dứt  Kinh  số 105 :  SUNAKKHTTA  – 

SUNAKKHATTA  Sutta  )

 

 

---------------------

 

HẾT TẬP III

 




***
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/07/2021(Xem: 11175)
Thật không ngờ trong bối cảnh xã hội mà toàn cầu thế giới đang khẩn trương đối phó với đại dịch kinh hoàng của thế kỷ 21 thế nhưng những người con đầy tâm huyết của Đức Thế Tôn chỉ trong nửa năm đầu 2021 đã thành lập được hai trang Website Phật học tại hải ngoại : Thư viện Phật Việt tháng 2/2021. do nhóm cư sĩ sáng tạo trang mạng của HĐHP, ( hoangpháp.org ) do ban Báo chí và xuất bản của Hội đồng Hoằng pháp tháng 6/2021 thành lập với sự cố vấn chỉ đạo của HT Thích Tuệ Sỹ Từ ngày có cơ hội tham học lại những hoa trái của Phật Pháp ( không phân biệt Nguyên Thủy, Đại Thừa ) , Tôi thật sự đã cắt bỏ rất nhiều sinh hoạt ngày xưa mình yêu thích và để theo kịp với sự phát triển vượt bực theo đà tiến văn minh cho nên đã dùng toàn bộ thời gian còn lại trong ngày của một người thuộc thế hệ 5 X khi về hưu để tìm đọc lại những tác phẩm , biên soạn, dịch thuật của Chư Tôn Đức,qua Danh Tăng, Học giả nghiên cứu khắp nơi .
26/07/2021(Xem: 8136)
Hòa thượng thế danh là Nguyễn Minh Có, pháp danh Huệ Đạt, pháp hiệu Hoàn Thông, sinh năm Đinh Tỵ (1917) triều Khải Định năm đầu, tại ấp Hội An, xã An Phú Tân, huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh, trong một gia đình nông dân nghèo. Thân phụ là cụ ông Nguyễn Văn Phuông, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Sửu, Ngài mồ côi cha lúc 13 tuổi. Thiện duyên đưa đến cho hạt mầm Bồ đề trong tâm Ngài phát triển. Năm 1930, trong thân tộc có ông Hồ Trinh Tương, gia tư khá giả, phát tâm phụng sự Tam Bảo, xuất tiền của xây một ngôi chùa, lấy hiệu là Hội Thắng Tự. Ông xuất gia đầu Phật, húy là Tường Ninh, pháp danh Đắc Ngộ, pháp hiệu Niệm Hưng và làm trú trì chùa này để hoằng dương đạo pháp. Ngài được thân mẫu cho phép xuất gia với Sư cụ trú trì chùa Hội Thắng khi vừa mồ côi cha, được ban pháp danh Huệ Đạt. Năm 16 tuổi (1933) Ngài được Bổn sư cho thọ giới Sa Di.
25/07/2021(Xem: 5076)
Mấy ngày nay trên Facebook có chia sẻ lại câu chuyện (nghe nói là xảy ra năm 2014) về cô bé đã “ăn cắp” 2 cuốn sách tại một nhà sách ở Gia Lai. Thay vì cảm thông cho cô bé ham đọc sách, người ta đã bắt cô bé lại, trói 2 tay vào thành lan can, đeo tấm bảng ghi chữ “Tôi là người ăn trộm” trước ngực, rồi chụp hình và bêu rếu lên mạng xã hội. Hành động bất nhân, không chút tình người của những người quản lý ở đây khiến ta nhớ lại câu chuyện đã xảy ra cách đây rất lâu: một cậu bé khoảng 14-15 tuổi cũng ăn cắp sách trong tiệm sách Khai Trí của bác Nguyễn Hùng Trương, mà người đời hay gọi là ông Khai Trí. Khi thấy lùm xùm, do nhân viên nhà sách định làm dữ với cậu bé, một vị khách ôn tồn hỏi rõ đầu đuôi câu chuyện, tỏ vẻ khâm phục cậu bé vì học giỏi mà không tiền mua sách nên phải ăn cắp, ông đã ngỏ lời xin tha và trả tiền sách cho cậu.
23/07/2021(Xem: 16807)
Giữa tương quan sinh diệt và biển đổi của muôn trùng đối lưu sự sống, những giá trị tinh anh của chân lý bất diệt từ sự tỉnh thức tuyệt đối vẫn cứ thế, trơ gan cùng tuế nguyệt và vững chãi trước bao nổi trôi của thế sự. Bản thể tồn tại của chân lý tuyệt đối vẫn thế, sừng sững bất động dẫu cho người đời có tiếp nhận một cách nồng nhiệt, trung thành hay bị rũ bỏ, vùi dập một cách ngu muội và thô thiển bởi các luận điểm sai lệch chối bỏ sự tồn tại của tâm thức con người. Sự vĩnh cửu ấy phát xuất từ trí tuệ vô lậu và tồn tại chính bởi mục đích tối hậu là mang lại hạnh phúc chân thật cho nhân loại, giúp con người vượt thoát xiềng xích trói buộc của khổ đau. Tuỳ từng giai đoạn của nhân loại, có những giai đoạn, những tinh hoa ấy được tiếp cận một cách mộc mạc, dung dị và thuần khiết nhất; có thời kỳ những nét đẹp ấy được nâng lên ở những khía cạnh khác nhau; nhưng tựu trung cũng chỉ nhằm giải quyết những khó khăn hiện hữu trong đời sống con người và xã hội.
22/07/2021(Xem: 3484)
Tạp chí Nghiên cứu Phật học, một trong những tạp chí nghiên cứu học thuật về Phật giáo tại Hoa Kỳ, đã có buổi lễ ra mắt các thành viên trong Ban Biên tập và nhận Quyết định Bản quyền Nghiên cứu Học thuật từ Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ vào ngày 1 tháng 7 năm 2020, Thầy Thích Giác Chinh, người đảm nhận vai trò Sáng lập kiêm Tổng biên tập, đã nhận được Thư chấp thuận cấp mã số ISSN từ Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ: Tạp chí Nghiên cứu Phật học in: ISSN 2692-7357 Tạp chí Nghiên cứu Phật học Online: eISSN 2692-739X Ngôn ngữ: Tiếng Anh.
11/07/2021(Xem: 6631)
Tháng vừa rồi, tôi dành thời gian để đọc và suy ngẫm về cuốn sách “Tìm bình yên trong gia đình”. Đơn giản bởi tôi và nhiều chúng ta đã dành quá nhiều thời gian hướng ngoại và đôi khi quên mất gia đình. Đôi khi giật mình, đã không đầu tư đủ thời gian cho ngôi nhà của mình, đã không biết cách để bình yên luôn có trong ngôi nhà thân thương của mình. Cảm quan về tựa đề sách và trang bìa của cuốn sách khiến tôi có cảm giác như được bước vào một thế giới với những trang sách tràn ngập nội dung bình yên, giúp tôi được bồng bềnh nhẹ tựa mây. Đọc sách, tôi giật mình: Những bước chân trên cuộc hành trình TÌM BÌNH YÊN TRONG GIA ĐÌNH trong cuốn sách thực sự không hẳn êm đềm như những gì tôi tưởng tượng. Sau khi đọc hết một nửa chương sách. Mình đã phải dừng lại hồi lâu. Bởi vì quá xúc động!
16/06/2021(Xem: 18226)
Thời gian như đến rồi đi, như trồi rồi hụp, thiên thu bất tận, không đợi chờ ai và cũng chẳng nghĩ đến ai. Cứ thế, nó đẩy lùi mọi sự vật về quá khứ và luôn vươn bắt mọi sự vật ở tương lai, mà hiện tại nó không bao giờ đứng yên một chỗ. Chuyển động. Dị thường. Thiên lưu. Thiên biến. Từ đó, con người cho nó như vô tình, như lãng quên, để rồi mất mát tất cả... Đến hôm nay, bỗng nghe tiếng nói của các bạn hữu, các nhà tri thức hữu tâm, có cái nhìn đích thực rằng: “Đạo Phật và Tuổi Trẻ.” “Phật Việt Trong Lòng Tộc Việt.” “Dòng Chảy của Phật Giáo Việt Nam” hay “Khởi Đi Từ Hôm Nay.” Tiếng vang từ những lời nói ấy, đánh động nhóm người chủ trương, đặt bút viết tâm tình này. Đạo Phật có mặt trên quê hương Việt Nam hai ngàn năm qua, đã chung lưng đấu cật theo vận nước lênh đênh, khi lên thác, lúc xuống ghềnh, luôn đồng hành với dân tộc. Khi vua Lê Đại Hành hỏi Thiền sư Pháp Thuận về vận nước như thế nào, dài ngắn, thịnh suy? Thì Thiền sư Pháp Thuận đã thấy được vận nước của quê hương mà
10/06/2021(Xem: 13035)
Biên cương thế giới ngày nay bị thu hẹp với nền viễn thông liên mạng tân tiến, trong khi nhận thức của các thế hệ trẻ lại được mở rộng và sớm sủa hơn, khiến niềm tin và lẽ sống chân thiện dễ bị lung lay, lạc hướng. Thông tin đa chiều với sự cố ý lạc dẫn từ những thế lực hoặc cá nhân vị kỷ, hám lợi, thúc đẩy giới trẻ vào lối sống hời hợt, hiểu nhanh sống vội, ham vui nhất thời, tạo nên hỗn loạn, bất an trên toàn cầu. Trước viễn ảnh đen tối như thế, con đường hoằng pháp của đạo Phật rất cần phải bắt nhịp với đà tiến của nền văn minh hiện đại, nhằm tiếp cận với từng cá nhân, quân bình đời sống xã hội, giới thiệu và hướng dẫn con đường mang lại an vui hạnh phúc cho mình, cho người. Đó là lý do dẫn đến cuộc họp mở rộng giữa chư tôn đức Tăng Ni, Cư sĩ và Huynh trưởng Gia Đình Phật Tử VN tại hải ngoại và Việt Nam, được tổ chức vào lúc 08:50 PM ngày 08/5/2021 qua chương trình Zoom Online, để rồi đồng thuận tiến đến việc thành lập Hội Đồng Hoằng Pháp. Hội Đồng Hoằng Pháp bao gồm nhiều
10/06/2021(Xem: 4418)
Mỗi lần đến chùa Vạn Phước, dù không chú ý, Phật tử ai ai cũng thấy Thầy Từ An, phó Trụ Trì chùa, mỗi ngày, ngoài những thời kinh, khóa tu, rảnh rỗi Thầy ra sân chùa cặm cụi nhổ cỏ gấu hết cây này đến cây kia, hết chỗ này đến chỗ nọ. Cứ xoay vần như thế ngày này qua tháng khác, năm này sang năm kia rồi khi cỏ gấu mọc lại, Thầy lại tiếp tục nhổ như một hạnh nguyện. Đặc biệt nữa, cứ mỗi lần nhổ xong một cây cỏ gấu, Thầy thường lẩm nhẩm: “Nhổ này một cây phiền não..., nhổ này một cây phiền não...“. Nhưng Thầy nhổ không bao giờ hết, vì cỏ gấu vốn là một loại cỏ dại, đã là cỏ thì rất khó tiêu diệt. Nếu xịt thuốc chỉ cháy lá hoa ở phần trên, rễ vẫn còn ở phần dưới, thậm chí có nhổ tận gốc nhưng chỉ cần sót lại một chút thân, rễ, một thời gian sau cỏ vẫn mọc lại như thường; chỉ trừ duy nhất tráng xi măng lót gạch, cỏ không còn đất sống may ra mới dứt sạch.
20/05/2021(Xem: 12536)
Kinh Đại Bát Nhã có tất cả 600 quyển, gồm 5 triệu chữ trong 25 ngàn câu, là bộ kinh khổng lồ trong tàng kinh cát của Phật Giáo Đại Thừa, do Đức Thế Tôn thuyết giảng trong 22 năm. Pháp Sư Huyền Trang dịch từ tiếng Phạn sang Hán và Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm (1911-2003) dịch từ Hán sang Việt. Lão Cư Sĩ Thiện Bửu đã dành 10 năm lao nhọc, vừa học Kinh vừa viết luận bản này để xiển dương tư tưởng Bát Nhã theo tinh thần truyền bá và lưu thông. Ông đã khiêm tốn tự nhủ rằng, không biết những gì mình viết có phù hợp với tinh thần của bộ Đại Bát Nhã Ba La Mật hay không, nhưng chúng tôi cho rằng việc làm của Lão Cư Sĩ là việc cần làm và thiết thực hữu ích, ông đã giúp tóm tắt ý nghĩa và chiết giải những chỗ chính yếu của Kinh. Có thể nói đây là bản sớ giải đồ sộ thứ hai (trọn bộ 8 tập) về Kinh Đại Bát Nhã, theo sau Đại Trí Độ Luận (5 tập) ở Việt Nam. Xin tán thán công đức của Lão Cư Sĩ đã đặt viên đá đầu tiên, để khuyến khích cho những hành giả khác, cùng phát tâm xây dựng nền mó
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]