Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

137. Kinh Phân Biệt Sáu Xứ

19/05/202011:35(Xem: 10706)
137. Kinh Phân Biệt Sáu Xứ

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majhima  Nikàya )


Tập IV
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : [email protected]


137. Kinh PHÂN BIỆT SÁU XỨ

( Salàyatanavibhanga sutta )

 

Như vậy, tôi nghe :

 

          Một thời, Đức Thế Tôn Thiện Thệ 

          An trú tại Xá-Vệ thành này

              Sa-Vát-Thí (1) cũng là đây

       Kỳ Viên Tinh Xá  hôm mai tịnh, hòa

          Còn có tên Chê-Ta-Va-Ná  (2)

          Khu vườn do Trưởng giả tên là

              A-Na-Thá-Pin-Đi-Ka  (3)

       Tức Cấp-Cô-Độc , thuần hòa tín gia

          Mua lại từ Kỳ Đà thái tử  (4)

          Để cúng dường Điều Ngự Thế Tôn

              Cùng với Tăng đoàn Sa-môn

     __________________________

 

(1) : Thành Xá-Vệ – Savatthi  – là thủ phủ của nước Kosala, do vua 

       Ba-Tư-Nặc ( Pasenadi ) trị vì.

(2) & (3) : Kỳ Viên Tinh Xá – Jetavana Vihàra,  do Trưởng giả Tu-

     Đạt (Sudatta ) thường được gọi là Cấp Cô Độc (Anathapindika)

    dâng cúng. 

(3) : Thái tử Kỳ-Đà – Jeta , là con vua Ba-Tư-Nặc, là chủ nhân của

    khu vườn mà ông Cấp Cô Độc muốn mua để dâng cúng làm Tinh

   Xá. Thái tử thì không muốn bán, ông Sudatta thì quyết tâm muốn

   mua vì thấy khu vườn rất thích hợp. Bị nài nỉ mãi nên Thái tử mới

   nói để ông Trưởng giả bỏ ý định mua : trải vàng tới đâu thì bán

  tới đó. Không ngờ ông Trưởng giả hoan hỷ cho chở vàng đến lót

  khắp vườn. Cảm phục trước tâm đạo nhiệt thành đó nên Thái tử

  xin dâng cúng luôn toàn bộ cây cối trong vườn.   Do đó Tinh Xá

  có tên là Jetavanànàthapindikàràma  – Kỳ thọ Cấp-cô-độc viên

 ( vườn Cấp-cô-độc, cây Kỳ-đà ).   Nhưng sau Thái tử bị giết bởi người anh em khác mẹ là Adudubbha (Tỳ-Lưu-Ly) để cướp ngôi. 

 

 

       Có nơi hoằng hóa pháp môn nhiệm huyền.

          Lúc bấy giờ Phật liền cho gọi

          Chư Tỷ Kheo và nói như vầy :

 

        – “ Các Tỷ Kheo ! Hãy nghe đây ! ”.

 

       Chúng Tăng vâng đáp lời Ngài truyền ra.

          Đức Phật Đà trang nghiêm thuyết giảng :

 

    – “ Các Tỷ Kheo ! Ta giảng giải ra

             ‘Phân biệt sáu xứ’ sâu xa

       Các ông hãy lắng nghe và nghiệm suy ”.

 

    – “ Bạch đấng Chánh Biến Tri ! Vâng ạ ! ”.

 

          Chúng Tăng đã vâng đáp lời Ngài.

          Thế Tôn liền thuyết giảng ngay :

 – “ Có ‘sáu nội xứ’ ở đây phải tường.

         ‘Sáu ngoại xứ’ phải đương cần biết.

          Sáu ‘thức thân’ cần thiết biết đây

              Sáu ‘xúc thân’ cần biết ngay,

      ‘Ý hành mười tám’ phải rày biết tinh,

         ‘Ba mươi sáu hữu tình’ các loại

          Cũng cần phải hiểu biết đủ đầy.

              Tại đây, y cứ cái này

       Và cũng đoạn tận cái này sâu xa.

          Còn có ba niệm xứ bậc Thánh

          Phải thực hành chân chánh trải qua

              Bậc Thánh mới xứng đáng là

       Bậc Đạo Sư diễn giả mà chúng nhân

          Hằng kính phục. Trong phần các bậc

          Huấn luyện sư, chính thật vị này

              Đáng được gọi là bậc Thầy

       Vô thượng Điều-ngự-sư đây tuyệt vời,  

          Điều phục người đáng được điều phục.

          Đây là mục tổng thuyết về phần

             ‘Phân biệt sáu xứ’ chánh chân

       Khi được nói đến về phần nêu trên.

 

         ‘Sáu nội xứ’ phải nên cần biết

          Do duyên gì cần thiết nói ra ?

              Nhãn & nhĩ & tỷ & thiệt xứ, và 

       Thân xứ, ý xứ. Đó là duyên đây.

          Được nói ngay ‘sáu nội xứ’ đó.

 

          Còn khi có nói đến điều này :  

             ‘Sáu ngoại xứ’ phải biết ngay,

       Duyên gì nói đến điều đây như vầy ?

          Sắc xứ này cùng thanh & hương xứ,

          Vị & xúc xứ, pháp xứ sáu phần.

              Khi ta được nghe đến rằng :

       Có ‘sáu ngoại xứ’ phải cần biết đây

          Do duyên này được nói như vậy.

 

          Khi được nói : ‘Sáu loại thức thân’

              Cần nên biết, phải hiểu rằng

       Do duyên gì nói đến phần ‘thức thân’ ?  

          Nhãn & nhĩ & tỷ & thiệt & thân thức ấy

          Cùng ý thức ; chính đấy là duyên,

              Sáu thức thân phải biết liền.

 

       Còn khi nói đến từ duyên nào mà

         ‘Sáu xúc thân’ của ta cần biết ?

          Nhãn & nhĩ & tỷ cùng thiệt xúc, và

              Thân xúc, ý xúc. Khi mà 

       Nói đến : Sáu xúc thân ta phải tường

          Do duyên này nên thường nói vậy.

          Khi nói : ‘Mười tám loại ý hành

 

              Cần phải biết cho thật rành’,

       Duyên gì nói đến ý hành ở đây ?

 

          Khi ‘mắt’ này thấy ‘sắc’ đủ thứ

          Ý theo sắc trú xứ hỷ này,

              Theo sắc trú xứ ưu ngay,

       Theo sắc trú xứ xả đây tức thì.

 

          Và sau khi ‘tai’ nghe được ‘tiếng’…

         ‘Mũi’ ngửi ‘hương’, ‘lưỡi’ nếm ‘vị’ vầy,

              Sau khi ‘thân’ cảm ‘xúc’ đầy,

       Khi ‘ý’ nhận thức ‘pháp’ này được nêu…

          Ý chạy theo pháp khởi lên hỷ

          Ý chạy theo pháp khởi ưu liền,

              Và xả theo pháp khởi lên.

       Như vậy tất cả có nên, tựu thành

          Sáu hỷ hành, ưu hành cũng sáu

          Và có sáu xả hành, như vầy

              Đó chính là do duyên này,

       Ý hành mười tám biết ngay đủ đầy,

          Do duyên này nói đến như vậy.

 

          Còn ‘Ba mươi sáu loại hữu tình’

              Cần phải biết. Duyên gì sinh

       Để nói như vậy ? Quá trình xảy ra 

          Hỷ liên hệ tại gia có sáu,

          Hỷ có sáu liên hệ xuất ly.

              Sáu ưu liên hệ xuất ly,

       Sáu ưu liên hệ tại gia, cùng là

          Xả liên hệ xuất ly có sáu,

          Xả có sáu liên hệ tại gia,

              Ý nghĩa là chi đề ra ?

       Sáu hỷ liên hệ tại gia này, và

 

          Hỷ khởi lên, hoặc là do nó

          Nhận được hay thấy có nhận vào.

 

              Sắc do mắt nhận thức mau

       Khả ái, khả hỷ, dạt dào lạc an

          Liên hệ sang đến thế vật đó

          Hoặc do nhớ những gì nhận rồi,

              Đã qua, đã diệt, mất rồi.

       Loại hỷ như vậy ta thời gọi ra :

         ‘Hỷ liên hệ tại gia’ là nó.

 

          Còn khi có hỷ khởi lên, và  

              Hoặc do nhận được, hay là

       Thấy sự nhận được tiếng là do tai…

          Hương do mũi ở đây nhận thức,

          Vị do lưỡi nhận thức đủ đầy,

              Xúc do thân nhận thức ngay,

       Do ý nhận thức pháp này gần xa,

          Khả ái, khả hỷ và khả lạc,

          Khả ý, liên hệ các vật chi

              Hoặc do nhớ được những gì

       Nhận được về trước, đã đi qua rồi,

          Đã diệt rồi và đã biến hoại.

          Như vậy gọi Ưu Hỷ trải qua

              Thường liên hệ đến tại gia.

 

       Còn sáu hỷ thế nào mà liên quan  

          Đến xuất ly ? Khi đang biết chắc

          Là vô thường các sắc pháp này ,

              Ly tham, biến diệt, hoại ngay.

       Nghĩ rằng : ‘Các sắc pháp này ngày xưa

          Và sắc pháp sớm trưa hiện tại

          Tất cả sắc pháp ấy vô thường,

 

              Khổ và biến hoại, tai ương,                    

       Sau khi như thật tỏ tường thấy ra

          Như vậy, và với chánh trí tuệ

          Có hỷ khởi lên thế, là chi ?

              Khi hỷ liên hệ xuất ly ?

       Thế nào liên hệ mọi thì sáu ưu

          Với tại gia ? Có ưu đã khởi

          Hoặc do bởi không nhận được này

              Thấy sự không nhận được này,

       Sắc do mắt nhận thức ngay, đó là

          Khả ái, khả hỷ và khả lạc

          Khả ý, liên hệ các vật chi

              Hoặc do nhớ được những gì

       Không nhận được trước, đã đi qua rồi,

          Đã diệt rồi và đã biến hoại

          Như vậy gọi là Ưu trải qua

             ‘Ưu liên hệ đến tại gia’.

       Thế nào sáu ưu ấy mà liên quan 

          Đến xuất ly ? Khi đang biết chắc

          Là vô thường các sắc pháp này

              Ly tham, biến diệt, hoại ngay.

       Sau khi như thật thấy vầy, vị trên

          Có chánh trí, khởi lên ước muốn

          Với vô thượng giải thoát, nghĩ là :

             ‘Khi nào ta chứng đạt, và

       An trú trong xứ (A-Da-Ta-Nà)

          Mà bậc Thánh trải qua chứng đạt,

          Trú an lạc. Do ước muốn đây

              Với vô thượng giải thoát vầy,

       Do duyên ước muốn, Ưu này khởi lên

          Loại ưu trên dược gọi, được kể

 

         ‘Ưu liên hệ xuất ly’ vân… vân…

 

              Sau khi biết được ‘lục trần’

      (Sắc, thinh, xúc, pháp và phần vị, hương)

          Sáu trần là vô thường, biến hoại,

          Ly dục lại biến diệt. Nghĩ ngay :

             ‘Sáu trần xưa kia, hiện nay

       Đều khổ, biến hoại, diệt ngay, vô thường

          Khi như thật tinh tường thấy thế’,

          Quán với chánh trí tuệ, vị này

              Liền khởi lên ước muốn ngay

       Với vô thượng giải thoát đây. Nghĩ là :

         ‘Khi nào ta có thể chứng đạt

          Trú an lạc trong ‘xứ’, khi mà

              Bậc Thánh đang chứng đạt, và

       An trú trong ấy. Đó là vì sao ?

         ‘Ước muốn vào vô thượng giải thoát’.

          Ưu khởi phát do ước muốn ni

              Gọi : ‘Ưu liên hệ xuất ly’.

       Sáu ưu liên hệ đồng thì xuất ly.

 

          Thế nào khi ‘sáu xả’ liên hệ  

          Đến tại gia ? Sự thể là vì

              Khi người ám độn, ngu si

       Phàm phu, con mắt thấy gì ở đây ?

          Thấy sắc này với con mắt ấy,

          Xả khởi dậy của một kẻ ngu

              Là người vô văn phàm phu

       Không chinh phục được âm u não phiền,

          Không chinh phục quả duyên dị thục,

          Không thấy mục nguy hiểm sâu xa,

              Loại xả này không vượt qua         

 

       Khỏi sắc pháp. Nên gọi ra xả là

          Liên hệ đến tại gia. Cũng thế

          Khi một kẻ ám độn, ngu si,

              Phàm phu, nghe tiếng mọi thì

       Với tai. Hay mũi họ thì ngửi hương,

          Nếm vị thường với lưỡi của họ,

          Cảm xúc với thân đó, hay là

              Với ý nhận thức pháp ra…

       Vô văn phàm tục  xả mà khởi lên

          Không chinh phục được quả dị thục

          Không chinh phục được phiền não này,

              Không thấy nguy hiểm dẫy đầy

       Xả ấy không vượt qua ngay các trần,

          Do vậy, cần được gọi, được kể

          Xả ‘liên hệ tại gia’ sáu phần.

 

              Ở đây, thế nào nói rằng :  

      ‘Sáu xả liên hệ đến phần xuất ly’ ?

          Ngay sau khi biết sắc, vị, xúc,

          Và tiếp tục biết pháp, thinh, hương

              Là khổ, biến hoại, vô thường,

       Ly tham, biến diệt. Hiểu tường, nghĩ ngay :

         ‘Các sắc pháp, thinh & hương & vị & xúc

          Và các pháp chung cục vô thường,

              Khổ não, biến hoại, tai ương,

       Khi như thật thấy tinh tường điều đây

          Với chánh trí tuệ này, xả khởi,

          Xả ấy gọi ‘liên hệ xuất ly’,

              Sáu xả liên hệ xuất ly.

 

       Còn ‘ba mươi sáu loại chi hữu tình’ 

          Cần phải biết cho tinh, từng loại

 

          Do duyên này, được nói đến vầy.

              Khi được nói đến ở đây :

      ‘Do y cứ vào cái này, diệt ngay

          Vào cái này’. Duyên gì nói vậy ?

          Các Tỷ Kheo ! Ở đấy sẵn sàng

              Do duyên sáu hỷ, liên quan

       Đến xuất ly, diệt hoàn toàn, vượt qua

          Liên hệ đến tại gia sáu hỷ.

          Các Tỷ Kheo ! Nghe kỹ suy nguyên

              Do y cứ và do duyên

       Sáu ưu, sáu hỷ cũng liền liên quan

          Đến xuất ly, hoàn toàn dứt cả,

          Vượt sáu ưu, sáu xả liên quan

              Đến tại gia. Vậy rõ ràng

       Sự đoạn tận chúng, vượt ngang chúng rồi. 

 

          Các Tỷ Kheo ! Do nơi y cứ 

          Do duyên tự sáu hỷ, đồng thì

              Sáu xả liên hệ xuất ly,

       Dứt, vượt khỏi sáu ưu vì liên quan

          Đến xuất ly. Nói sang như vậy

          Là sự ấy đoạn tận chúng thôi,

              Là sự vượt qua chúng rồi.

       Do y cứ, do duyên nơi mọi thì

          Xả liên hệ xuất ly, đình chỉ

          Vượt qua cả sáu hỷ liên quan

              Đến xuất ly. Nên hoàn toàn

       Là sự đoạn tận, vượt ngang chúng rồi.

 

          Các Tỷ Kheo ! Có xả đa diện 

          Và y cứ đa diện một phương,

              Có xả nhất diện dựa nương        

 

 

       Nhất diện đó. Hiểu tận tường ra sao

          Xả đa diện dựa vào đa diện ?

          Như có xả đối diện lục trần

              Sắc pháp, thinh pháp cùng phần

       Hương & vị & xúc & pháp. Ta cần hiểu qua

          Như vậy là thuộc xả đa diện

          Y cứ vào đa diện, hiểu mau.

 

              Còn xả nhất diện là sao ?

       Y cứ nhất diện thế nào ở đây ?

          Có loại xả chỉ ngay y cứ

         ‘Hư không vô biên xứ’ chủ trương,

              Nương ‘Thức vô biên xứ’ thường,

      ‘Vô sở hữu xứ’ xả nương tức thì,

          Nương ‘Phi tưởng phi phi tưởng xứ’.

 

          Các Phích-Khú ! Là xả thuộc vào

              Nhất diên - nhất diện nương mau.

       Các ông ! Do y cứ vào, do duyên

          Xả nhất diện, xả nguyên y cứ

          Vào nhất diện và tự diệt ngay,

              Vượt qua xả đa diện này,

       Xả y cứ đa diện đây đồng thì.

          Như vậy thì sự diệt xả ấy

          Là như vậy, vượt qua xả mau.

 

              Các ông ! Do y cứ vào

       Sự không tham dục, từ đầu do duyên

          Không tham dục và liền diệt cả,

          Vượt qua xả nhất diện đó ngay.

              Xả y cứ nhất diện này

       Như vậy là sự diệt ngay xả này

          Là vượt qua xả đây. Nói tới :

 

         ‘Tại đây bởi y cứ cái này

              Và cũng đoạn tận cái này’

       Chính do duyên đó, như vầy nói ra.

 

          Khi được nói : ‘Có ba niệm xứ

          Một bậc Thánh phải tự thực hành,

              Niệm xứ ấy có thực hành

       Mới xứng được gọi trọn lành Đạo Sư,

          Vị thuần từ giảng cho đồ chúng’.

          Do duyên gì nói cứng như vầy ?

 

              Ở đây, các Tỷ Kheo này !

       Bậc Đạo Sư thuyết pháp đây rõ ràng

          Cho các hàng đệ tử tinh tấn,

          Vì tử mẫn, đem hạnh phúc cho,

              Vì lòng thương tưởng học trò,

       Bảo : ‘Đây là hạnh phúc to lớn vầy,

          An lạc này các ông được hưởng’.

          Một số đệ tử vướng tâm mê

              Không lóng tai để lắng nghe,

       Tâm họ không an trú về trí chân

          Hành động ngược với phần lời dạy

          Của bậc Đạo Sư ấy. Ở đây

              Như Lai không vui điều này

       Không có cảm giác điều này hỷ hoan,

          Nhưng hoàn toàn Ta không dao động,

          Chánh niệm, sống tỉnh giác, an hòa.

 

              Này các Tỷ Kheo ! Đây là 

       Niệm xứ thứ nhất để mà hành qua.

          Của một bậc Thánh, và nếu có

          Thực hành niệm xứ đó. Vị này

              Mới xứng Đạo Sư trí tài

 

       Diễn giảng cho đồ chúng đây đủ đầy.

          Lại nữa, này Chúng Tăng ! Mặt khác

          Bậc Đạo Sư thuyết pháp suốt thông

              Cho các đệ tử, do lòng

       Từ mẫn, mong hạnh phúc trong hành trình

          Của đệ tử để sinh lợi lạc

 

          Một số đệ tử khác lóng tai

              Khéo nghe, an trú tâm hoài

       Vào chánh trí, nhưng đi ngoài lời răn

          Của Đạo Sư, không hằng thực hiện.

          Các Tỷ Kheo ! Thuộc diện như vầy

              Ta không hoan hỷ điều này,

       Không có cảm giác điều này hỷ hoan.

 

          Sau khi bỏ hai đàng ý nghĩ

          Hoan hỷ, không hoan hỷ cả hai,

              Như Lai trú xả đủ đầy,

       Chánh niệm, tỉnh giác. Điều này ở đây

          Là niệm xứ thứ hai, mãi mãi

          Một bậc Thánh cần phải thực hành,

              Niệm xứ ấy có thực hành

       Mới xứng là Đạo Sư lành đáng phô

          Để diễn giảng cho đồ chúng vậy.

 

          Các Tỷ Kheo ! Được thấy có vì

              Vì lòng bi mẫn, từ bi

       Vì sự hạnh phúc và vì lòng thương

          Thuyết pháp thường cho các đệ tử

          Số đệ tử khéo nghe, lóng tai

              Trú tâm và chánh trí hoài

       Và không đi ngược lời ngài Đạo Sư.

          Các Tỷ Kheo ! Như Lai bản ý

 

          Hoan hỷ, cảm giác hỷ hoan ngay.

              Sống không dao động như vầy

       Chánh niệm, tỉnh giác. Điều đây chính là

          Niệm xứ thứ ba mà bậc Thánh

          Phải thực hành chân chánh đủ đầy,

              Có thực hành niệm xứ này

       Mới xứng là Đạo Sư tài trí thay !

          Diễn giải ngay cho đồ chúng vậy.

 

          Khi nói : ‘Niệm xứ ấy có ba

              Bậc Thánh phải thực hành qua

       Có thực hành đúng mới là xứng danh

          Đạo Sư lành dạy cho đồ chúng’

          Do duyên này, nói đúng như vầy.

 

              Khi được nói đến điều này : 

      ‘Trong các Huấn-luyện-sư đây, vị từ

          Được gọi ‘Điều-ngự-sư vô thượng’

          Điều phục người đáng hưởng điều là

             ‘Đáng được điều phục’ trải qua,

       Do duyên gì được nói ra như vầy ?

          Một con voi bị nài chế ngự

          Là một vị ‘Điều ngự tượng sư’,

              Dẫn dắt để nó chạy từ

       Phương đông, nam, bắc hoặc từ phương tây.

 

          Hoặc ngựa hay do sự điều phục

          Của ‘Điều phục mã sư’ có tài

              Hoặc một con bò ở đây

       Được ‘Điều ngự ngưu sư’ hay, giỏi nghề

          Dẫn dắt chỉ chạy về một hướng

          Hướng bắc, nam hoặc hướng đông, tây.

              Cũng vậy, các Tỷ Kheo này !

 

       Một người do được Như Lai, Phật Đà

          Chánh Đẳng Giác, Đại A-La-Hán

          Dẫn dắt, chạy khắp mãn bốn phương

              Có sắc, thấy sắc pháp tường

       Là phương thứ nhất. Không thường có ra

          Tưởng nội sắc, thấy qua ngoại sắc,

          Đó đích thật là phương thứ hai.

              Nghĩ đến thanh tịnh tràn đầy

       Chú tâm trên ấy, phương này thứ ba.

 

          Rồi vượt qua hoàn toàn sắc tưởng

          Diệt trừ đối-ngại-tưởng trải qua

              Không nghĩ sai-biệt-tưởng, và

       Nghĩ rằng : Chính ‘Hư không là vô biên’

          Chứng đạt, trú Không Vô Biên Xứ

          Đó chính là phương thứ tư đây.

 

              Vượt Không vô biên xứ này,

       Nghĩ : ‘Thức là vô biên’ vầy, chứng ngay,

          An trú đây : Thức Vô Biên Xứ

          Phương này là phương thứ năm an.

              Vượt qua một cách hoàn toàn

       Thức Vô Biên Xứ, nghĩ sang điều là

         ‘Không có gì cả’ và chứng, trú

          Vào Vô Sở Hữu Xứ nơi này,

              Đó là phương thứ sáu đây.

 

       Vượt Vô sở hữu xứ ngay tức thì

          Chứng Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ

          Và an trú. Phương thứ bảy ni.

              Tưởng xứ Phi tưởng phi phi

       Hoàn toàn vượt khỏi, rồi thì chứng sang

          Và trú an Diệt Thọ Tưởng Định                      

 

          Phương thứ tám là chính điều đây.

 

              Tóm lại, các Tỷ Kheo này !

       Một người đáng được Như Lai, Phật Đà

          Chánh Đẳng Giác, Đại A-La-Hán,

          Dẫn dắt chạy khắp mãn tám phương.

              Khi được nói đến tỏ tường :

      ‘Trong các Huấn-luyện-sư thường an như

          Được gọi ‘Điều ngự sư vô thượng’,

          Là vị điều phục, hướng mục tiêu,

              Người đáng điều phục lợi nhiều,

       Do duyên ấy, được mọi điều như trên ”.

 

          Đức Thế Tôn an nhiên thuyết giảng 

          Pháp vi diệu, viên mãn, minh quang,

              Chư Tỷ Kheo trong đạo tràng

       Hoan hỷ tín thọ lời vàng Thế Tôn ./-

 

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  ( 3 L )

 

*

*  *

 

(  Chấm dứt Kinh số 137 :  PHÂN BIỆT SÁU XỨ  –  SALÀYATANAVIBHANGA  Sutta  )  

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
14/04/2021(Xem: 10659)
Đã hơn 45 năm kể từ 1975, nhắc lại chuyện vượt biên quả là xưa như trái đất, xưa quá rồi diễm, nhiều người chẳng muốn nghe, đôi khi còn trách, chuyện qua rồi hãy cho vào dĩ vãng nhắc lại làm gì cho thêm buồn, “quá khứ đã qua, tương lai chưa đến, hãy nghĩ và sống với hiện tại”. Thế nhưng đâu ai hiểu cho rằng, hiện tại của tôi bây giờ chính là phải viết bài cho ngày 30/4 để đăng báo, mà 30/4 vấn đề tuy cũ kỹ nhưng muôn thuở vẫn luôn có giá trị vì đó là lịch sử và chuyện vượt biên cũng đóng góp trong phần lịch sử đó. Luẩn quẩn là như thế. Và biết đâu, giữa khi mọi người đã quên thì tôi nhắc lại cho mọi người nhớ, và biết đâu giúp các thế hệ sinh sau đẻ muộn hiểu chút ít về lịch sử nước nhà trong giai đoạn đau thương của đất nước, thống nhất lãnh thổ nhưng không thống nhất lòng người đã để lại hận thù, chia cách không biết khi nào mới hàn gắn được và là nguyên nhân tại sao cha mẹ ông bà chúng lại lưu lạc xứ người và ra đi làm sao. Cây có cội, nước có nguồn, là con người ai cũng muốn biết c
01/04/2021(Xem: 9682)
Bài chúc Tết của NS Hoài Linh gây xôn xao MXH: Tự làm thơ hơn 7000 chữ, nhắc đủ 63 tỉnh thành với kiến thức sử địa quá uyên thâm! Trong dịp đầu năm mới, đông đảo các nghệ sĩ trong showbiz Việt đã gửi những lời chúc bình an, sức khoẻ đến với người hâm mộ. Thế nhưng ấn tượng và được netizen chia sẻ nhiều nhất chính là bài thơ chúc Tết được đầu tư và vô cùng sáng tạo của NS Hoài Linh. Ngoài tài làm thơ, NS Hoài Linh còn chứng minh có kiến thức lịch sử và địa lý uyên thâm khi chúc Tết theo đặc trưng từng tỉnh thành ở Việt Nam. Từ những thành phố lớn, đến vùng núi xa xôi, loạt danh lam thắng cảnh, lịch sử thành lập hay đặc nét riêng vùng miền đều được NS Hoài Linh đưa vào bài thơ mang tên Chúc Xuân một cách tài tình. Ngay lập tức, màn chúc Tết có tâm nhất Vbiz của NS Hoài Linh được người hâm mộ "thả tim" và chia sẻ rầm rộ trên MXH. Sau hơn 1 giờ đăng tải, bài thơ chúc Tết hơn 7000 chữ và gần 500 câu của NS Hoài Linh đã nhận được 86 nghìn lượt yêu thích, hàng chục nghìn bình lu
22/03/2021(Xem: 6666)
Được Nhạc sĩ Minh Huy gửi tặng bản nhạc Tạ Tình với lời bài thơ và lời bản nhạc có khác nhau một ít. Lời nhạc tình hơn, nhưng lời bài thơ bảy chữ hay một cách tuyệt vời. Đọc lời bài thơ, người viết thật xúc động, nhưng khi lắng nghe tiếng hát như tự tình trang trải của Ca sĩ Chi Huệ thì tâm hồn người viết lại chìm vào khung trời ngày cũ của “con đường Duy Tân cây dài bóng mát” trước năm 1975 tại Sài Gòn.
16/02/2021(Xem: 4710)
Kịch hài: Đưa Chồng Tây Về Quê Ăn Tết. Trần Thị Nhật Hưng Một màn. Diễn viên: Cô con gái Việt, cậu rể Tây và mẹ cô gái. Khung cảnh: Phòng khách nhà người mẹ tại Việt Nam *** (Vợ chồng cô con gái kéo va ly bước ra sân khấu.Người mẹ cũng vừa bước ra đối diện nhau). Mẹ (tíu tít): Sa luy...sa luy...(Salü...salü: Chào...chào...) Con rể Tây: Gút tơn tát. Vi kết ét tia. Ít phờ rôi mít tia khên nơn su le rờ nơn (Guten Tag. Wie geht es Dir? Ich freue mich Dir kennenzulernen: Chào mẹ. Mẹ có khỏe không? Rất hân hạnh được quen biết mẹ) Mẹ (trố mắt ngạc nhiên, nhìn con gái): Nó nói gì dzậy? Con gái: Sao má gọi ảnh là...nó, không lịch sự tí nào. Mẹ: Ảnh...nói gì dzậy? Con gái: Chồng con chứ đâu phải chồng má mà má gọi bằng...ảnh.
15/02/2021(Xem: 9414)
Trong vườn hoa thì có nhiều hoa và có muôn màu muôn sắc khác nhau. Vườn hoa lúc nào cũng đượm mùi thanh nhã, thì vườn thơ cũng không khác gì vườn hoa. Tuy nhiên nói về thơ hay định nghĩa về thơ thì rất khó ; do đó, chúng ta nhìn về thơ thì cũng tựa như ta nhìn vị họa sĩ qua cây cọ hay là nghe tiếng đàn qua vị nhạc sĩ đang hòa tấu. Những thập niên trước đây, khi ra hải ngoại, mỗi lần đi hướng dẫn những khóa tu tập, sau giờ giải lao, có những vị Phật tử vui tính xin giúp vui giải lao bằng những lời ca tiếng nhạc hay âm điệu ngâm nga những câu thơ của chư Tôn đức sáng tác, hoặc tự thân họ làm ra để giúp bầu không khí tu tập thêm phần sinh động. . . .
03/02/2021(Xem: 19135)
Vừa qua nhóm ảnh Nhất Chi Mai thuộc tu viện Phước Hòa (Đồng Nai), được sự hướng dẫn của Thượng toạ Viện chủ đã đến Buôn Mê Thuột để quay những thước phim đầu tiên về nhạc sĩ Hằng Vang. Cùng với cố nhạc sĩ Lê Cao Phan, Bửu Bác... được xem như lớp tiền phong của dòng tân nhạc Phật giáo. Nhạc sĩ Hằng Vang tên thật là Nguyễn Đình Vang, sinh năm 1933 tại Huế. Trong hơn 60 năm sáng tác, ông có hàng trăm ca khúc về đề tài này, nổi bật nhất là ca khúc Ánh Đạo vàng (1958) đã thấm sâu vào lòng Phật tử suốt thời gian dài từ khi ra đời.
01/02/2021(Xem: 6147)
Đối với những dân tộc sống trong nền văn minh lúa nước tại Đông Nam Á, nhất là đất nước và con người Việt Nam, hình ảnh con trâu, thường hay được nói đến, không phải “con trâu là đầu cơ nghiệp” mà đối với người nông dân là con vật gần gũi thân thiết, nên trong ca dao trâu xuất hiện trong bức tranh lao động của gia đình “trên đồng cạn, dưới đồng sâu, chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa”, trâu cũng trở thành bạn tâm tình của người nông dân: “trâu ơi ! ta bảo trâu này…” Người nông dân đã đồng cảm với trâu, qua việc cần mẫn lao động hằng ngày, không có lúc nào hưởng được sự thảnh thơi mà phải luôn vất vả nhọc nhằn. Hình ảnh con trâu kéo cày trên ruộng đồng với lúa, mạ xanh tươi, hay đứng nằm gặm nhai cỏ trên bãi cỏ xanh, cùng giầm mình trong vũng ao hồ sình lầy là hình ảnh quen thuộc, gợi lên nhiều cảm xúc thị vị thanh bình tạo cảm hứng cho biết bao thi nhân và họa sĩ.
01/02/2021(Xem: 6994)
Chữ “chùa” thường dễ khiến người ta liên tưởng đến những… chữ khác như kinh-kệ-chuông-mõ-sư-sãi…Xa hơn, có thể gợi nhớ đến chữ… thơ (vì, tu sĩ và thi sĩ vốn là bằng hữu, trong truyền t
01/02/2021(Xem: 8328)
Vào năm 1990, một nhà sư trẻ đến thị xã Lagi – Bình Thuận, dừng bước bên con suối Đó vắng vẻ, cảnh quan đơn sơ, mộc mạc, cách xa trung tâm Lagi. Con suối có cái tên hơi lạ, tên nguyên sơ là suối Đá do chảy qua nhiều tảng đá to, sau này khi người Quảng đến định cư, đọc chệch thành “suối Đó”. Vị sư trẻ dựng một thảo am bên cạnh con suối, cao hứng đặt tên thảo am là chùa Đây, tạo thành một cái tên hay hay và lạ mà du khách đến một lần không thể nào quên “suối Đó – chùa Đây”. Sau này, thảo am nhỏ được trùng tu dần thành một ngôi chùa trang nghiêm và tĩnh lặng với cái tên mang lại cho người ta cảm giác an nhiên tự tại khi nhắc đến như hôm nay – chùa Thanh Trang Lan Nhã.
01/02/2021(Xem: 9404)
Ngôi chùa nhỏ với không gian yên tĩnh nằm bên dòng suối Đó giáp ranh giữa xã Tân Phước và phường Tân An, thị xã La Gi có cái tên rất thanh vắng, tịch mịch “Thanh trang lan nhã” . Chùa do một vị Đại đức tuổi trung niên làm trụ trì, nhà sư Thích Tấn Tuệ. Sư Tấn Tuệ tên thật là Đinh Văn Thành (SN 1960), quê ở làng Duy Trinh, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Ông quy y từ lúc còn nhỏ được đào tạo học hành chu đáo, đi lại nhiều nơi nên kiến thức sâu rộng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]