Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tường thuật Hội Thảo 3 và Tổng kết ba buổi Hội Thảo trong ngày 7 (15/10/2022)

27/10/202218:19(Xem: 2716)
Tường thuật Hội Thảo 3 và Tổng kết ba buổi Hội Thảo trong ngày 7 (15/10/2022)

day 7 le hiep ky (258)Tường thuật Hội Thảo 3
và Tổng kết ba buổi Hội Thảo trong ngày thứ bảy
(15/10/2022)


 

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Kính bạch Chư Tôn Đức Trưởng Lão Hòa Thượng, Thượng Tọa, Đại Đức Tăng Ni nhị bộ

Kính thưa quý đạo hữu có mặt hoặc không thể tham dự trong ngày lễ hội này.

 

Con kính ghi lại những gì được nghe và nhìn thấy trên màn ảnh online với mong ước sẽ truyền tải được những điều quá tuyệt vời của đại lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư mà lần thứ nhất con được tham dự trọn vẹn từng ngày hoặc bằng trực tiếp hay gián tiếp, kính mong với khả năng sơ cơ của con nhưng với chí nguyện tu tập học hỏi, kính nguyện những điểu con đã ghi chép lại nếu có sai trật và khiếm khuyết, kính xin chư liệt vị được niệm tình tha thứ cho con.

 

Và đây là Buổi Hội Thảo 3 với chủ đề: ĐẠO PHÁP và QUÊ HƯƠNG  

Trước khi vào buổi hội thảo 3, TT Thích Viên Tịnh -Trụ trì chùa Bảo Minh,  Tổng Vụ Phó Tổng Vụ Nghi Lễ và Văn Hóa của Giáo Hội Úc Châu đã kính mời Chư Tôn Thiền Đức Tăng Ni nhị bộ khởi thân niệm Phật, Sau đó TT tiếp lời:

Kính bạch chư Tôn Đại trưởng Lão HT, TT, ĐĐ Tăng Ni nhị bộ

Kính thưa quan khách tất cả thiện nam tín nữ hiện diện tại Chánh điện Tu Viện Quảng Đức,

Chúng con xin giới thiệu:  

Thuyết trình viên:
-HT Thích Đồng Trí, Viện chủ Tu Viện Viên Chiếu, Sacramento, Hoa Kỳ

-HT Thích Thái Hoà, Trú trì chùa Phước Duyên, Huế, VN

Chủ tọa đoàn:
-HT  Thích Nguyên Trực, Viện chủ chùa  A Di Đà, Sydney, Thành Viên Hội Đồng Chứng Minh-Cố Vấn Giáo Hội Úc

-HT Thích Tâm Minh, Viện chủ chùa Trúc Lâm, Sydney, Hội Chủ Hội Đồng Điều Hành Giáo Hội Úc Châu

-HT Thích Như Định, Viện chủ chùa  Thiên Ấn, Sydney, Úc Châu, Phó Hội Chủ Hội Đồng Điều Hành Giáo Hội Úc Châu

-HT. Thích Tâm Phương, Viện chủ Tu Viện Quảng Đức, Phó Hội Chủ Hội Đồng Điều Hành Giáo Hội Úc Châu


Thư ký:
-TT Thích Viên Trí. Trụ trì chùa Pháp Hoa, Nam Úc

-ĐĐ Thích Hạnh Phẩm,  Trụ trì Tu viện Từ Ân – Melbourne


Kiểm soát Viên:
-TT Thích Thông Triết,  Trụ trì Thiền Viện Chánh Pháp. Oklahoma, Hoa Kỳ

-TT Thích Minh Hội, Trụ trì Tổ Đình Minh Quang,  Sydney, Úc Châu

-TT Thích Nhuận Ân  Trụ trì chùa Việt Nam tại Nhật Bản


 

 Và TT Thích Viên Tịnh đã  chuyển lời cho  HT Viện chủ Thích Tâm Phương thay mặt ban tổ chức xin  được phát biểu đôi lời trước khi bắt đầu vào hội thảo…HT Viện chủ Thích Tâm Phương  kính mời đại tăng ngồi tại chỗ và thính chúng lắng tâm niệm Phật.

Sau khi tổng chào quý HT, TT  và đại đức Tăng Ni và quan khách Ngài trình bày vấn đề là :

“Trong hai ngày qua trong Chánh điện của Bổn Tự chúng con, quý đại tăng đã câu hội, vân tập về làm Phật Sự lớn, và  đó là trách nhiệm mà Giáo Hội Liên Châu đã giao phó.

Chúng con xin thành tâm sám hối không được có mặt đầy đủ trong các cuộc hội thảo nhưng trong khuôn viên của Tu Viện khắp nơi đều có thể nghe rất rõ, dù đang làm công quả trong lãnh vực nào và nhất là trên online hằng ngày có cả ngàn người theo dõi.

Đáng lẽ ra ban tổ chức đã trình lên với GH Liên Châu xin hội thảo về đề tài :ĐẠO PHÁP VN VÀ TƯƠNG LAI TẠI HẢI NGOẠI: nhưng có lẽ vì nóng lòng với quê hương trên bước đường phụng sự đạo pháp và dân tộc nên quý Ngài và Hội Đồng chứng minh đã yêu cầu đổi đề tựa là Đạo Pháp Và Quê Hương mà HT Hội chủ còn nói thêm: “Chúng ta không những có một quê hương mà phải ngầm chấp mình còn có một quê hương thứ hai” .

Chính vì thế mà hôm nay con xin được giới thiệu:

-HT Thích Thái Hoà một vị cao tăng có kiến thức rất sâu rộng còn đang ở tại quê nhà và HT Thích Đồng Trí cũng là một vị cao Tăng kiến thức sâu rộng nhưng trú xứ tại Hoa Kỳ nên Ngài đã chọn Hoa Kỳ làm quê hương.

Do vậy hôm nay 2 thuyết trình viên sẽ mở rộng đề tài Đạo Pháp tại Quê Nhà và Tại Hải Ngoại và HT Thích Bổn Đạt sẽ đúc kết hai ngày qua với 3 bài hội thảo .

 

Và HT Thích Tâm Phương đã nhường lời cho HT Thích Đồng Trí để  bắt đầu với những lời phi lộ khiêm nhượng cho rằng đáng lẽ thuyết trình viên là HT Thích Quảng Ba , nhưng vì Ngài bận Phật sự không đến được nên được thay thế cho HT Quảng Ba với tư thế không chuẩn bị gì trước cả.

Tuy nhiên Ngài sẽ lược thuyết khái quát về dòng chảy của Đạo Phật trong suốt 25 thế kỷ qua cùng những vấn đề hoằng hoạt hiện tại bây giờ và mời tất cả cùng nhau bàn thảo.

 

HT Đồng Trí bắt đầu với TS Khương Tăng Hội rồi đến Quốc sư Khuông Việt Ngô Chân Lưu để giới thiệu phương cách trị vì của một vị vua đối với thần dân bằng cách dùng tâm lượng của một vị thiền sư đó là Vô Vi .

HT Đồng Trí cũng giới thiệu Thiền Sư Vạn Hạnh  qua 4 câu thơ khi “Thị đệ tử”

Thân như điện ảnh hữu hoàn vô,

Vạn mộc xuân vinh, thu hựu khô.

Nhậm vận thịnh suy vô bố uý,

Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.

Có nghĩa là một vị tu sỉ muốn đi vào đời thì đời sống dù cho vận đời có thịnh hay suy, cũng đừng sợ hãi, Vì sự thịnh suy [cũng mong manh] như giọt sương đầu ngọn cỏ.

Sau đó HT đã giới thiệu 3 Thiền phái trong thời Đinh, Lê, Lý đó là Thiền phái Vô Ngôn Thông,  Thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi và Thiền phái Thảo Đường.

 Ngài cũng giới thiệu thiền sư Quảng Nghiêm với ý chí cao cả đã chỉ rõ người tu sĩ phải có một năng lực thật sự đem đạo vào đời qua bài thơ

Lý tịch phương ngôn tịch diệt khứ

Sinh vô sinh hậu thuyết vô sinh

Nam nhi tự hữu xung thiên chí

Hưu hướng Như Lai hành xứ hành.

Giáo sư Trí Siêu Lê Mạnh Thát dịch là:

Lìa tịch mới bàn câu tịch diệt

Được vô sinh sau nói vô sinh

Làm trai có chí xông trời thẳm

Chớ hướng Như Lai hành xứ hành.

Rồi  đến đời Trần,  một vị vua Trần Thái Tông muốn bỏ ngai vàng để vào núi tu nhưng trong núi không có Phật vì thế Ngài về lại triều đình và đã tìm thấy Đạo và đã sách tấn mọi người đừng ....  

Lênh đênh làm khách phong trần mãi

Ngày hết, quê xa vạn dặm đường”.

Một Tuệ Trung Thượng Sĩ về chuyện Sanh Tử,  sá chi cuộc đời chỉ giống như giọt nước ngoài biển khơi .....

Và vua Trần Nhân Tông với Cư Trần Lạc Đạo,  học Đạo phải Vô Tâm

Nhưng Nho giáo đã chiếm địa vị độc tôn khi Trịnh Nguyễn phân tranh và Chúa Nguyễn Phúc Chu thuộc dàng trong đã mời  Thiền Sư Thạch Liêm mở giới đàn, Tổ Sư Minh Hải được thỉnh mời để dự giới đàn do Hòa thượng Thạch Liêm làm tôn chủ, sau đó ở lại Quảng Nam và thành lập pháp phái Lâm Tế Chúc Thánh .

Tổ sư Minh Hải Pháp Bảo đã biệt xuất bài kệ lập phái như sau:

Minh Thiệt Pháp Toàn Chương

Ấn Chân Như Thị Đồng

Chúc Thánh Thọ Thiên Cửu

Kỳ Quốc Tộ Địa Trường

Đắc Chánh Luật Vi Tông/Tuyên

Tổ Đạo Giải Hành Thông

Giác Hoa Bồ Đề Thọ

Sung Mãn Nhân Thiên Trung.

 

Cũng như dòng Lâm Tế Liễu quán, do Tổ  Nguyên Thiều, tức Nguyên Thiều Siêu Bạch Thọ Tông (1648-1728) người tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc), xuất gia tại chùa Báo Tư, kế đăng đời thứ 33 tông Lâm Tế. . Hòa thượng Nguyên Thiều đến Đàng Trong năm 1677 lập chùa Thập Tháp Di Đà ở phủ Quy Ninh (Bình Định); sau ra Thuận Hóa dựng chùa Vĩnh Ân (tức Quốc Ân), rồi trụ trì chùa Hà Trung

Kệ truyền thừa của Lâm Tế Liễu Quán :

“Thật tế đại đạo - Tánh hải thanh trừng - Tâm nguyên quảng nhuận - Đức bổn từ phong - Giới định phước huệ - Thể dụng viên thông - Vĩnh siêu trí quả- Mật khế thành công - Truyền trì diệu lý -Diễn xướng chánh tông - Hạnh giải tương ưng- Đạt ngộ chơn không”

Dịch:

“Đường lớn thực tại -Biển thể tính trong - Nguồn tâm thấm khắp - Gốc đức vun trồng -Giới định phước huệ- Thể dụng viên thông- Quả trí siêu việt - Hiểu thấu nên công - Truyền giữ lý mầu - Tuyên dương chính tông - Hành giải song song - Đạt ngộ chân không”

Riêng đàng ngoài thì theo Tào Động mãi đến thời Pháp thuộc Phật Giáo không còn rực rõ nữa mà chỉ toàn Cổ Sơn Môn.

Ht Đồng Trí đã nói về Đạo Phật khi du nhập vào Việt Nam đã trải qua các giai đoạn thịnh suy cùng với lịch sử các triều đại của dân tộc. Thời đại Lý – Trần giáo lý Phật Đà được thể hiện trong việc kiến lập quốc gia, xây dựng đời sống nhân sinh một cách tuyệt hảo và trở thành mốc son chói lọi trong lịch sử Phật giáo cũng như lịch sử nước nhà. Để từ đó, dấu mốc ấy đã hình thành nên tư tưởng chính thống của dân tộc.

 

Các thời đại về sau, có thời kỳ Nho giáo hưng thịnh, Phật giáo ẩn mình trong đời sống dân dã, thôn quê, lại cũng có giai đoạn Phật giáo lại được chính quyền phong kiến ưu ái, phục hồi và phát triển. Nhưng cuối thời Nguyễn, dưới sự đô hộ của thực dân Pháp, Phật giáo lâm vào tình trạng suy kiệt về mọi mặt, khiến cho xã hội có những đánh giá sai lệch đối với bản chất, giá trị thiết thực của đạo Phật.

 

Phong trào chấn hưng Phật giáo giai đoạn 1930-1945 đem lại nhiều thành quả quan trọng khắc phục được nhiều yếu kém về hình thức và nội dung của Phật giáo thời bấy giờ. Việc ra đời các hội Phật giáo ít nhiều đã tạo được tính gắn kết trong nội bộ Phật giáo tuy chưa phải là một hội chung cho cả nước nhưng từng vùng, từng nhóm đã tổ chức những mô hình sinh hoạt có hệ thống. Đây chính là tiền đề để thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam sau này.

Năm 1932, Hội An Nam Phật Học được thành lập ở chùa Từ Đàm – Huế do HT.Giác Tiên và bác sĩ Lê Đình Thám đứng đầu. Năm 1933, hội đã xuất bản tạp chí Viên Âm.

Đồng thời, các tạp chí quốc ngữ do các hội Phật giáo xuất bản đã tạo ra làn sóng học thuật, truyền bá giáo lý Phật Đà, đưa những hiểu biết đúng đắn phổ cập khắp quần chúng, để bày trừ những mê tín dị đoan, những hiểu lầm về đạo Phật.

Miền Bắc, hội Phật giáo Bắc kỳ được thành lập năm 1934 ở chùa Quán Sứ, Hà Nội. Năm 1935 hội đã xuất bản nhiều tờ báo như Đuốc Tuệ, Bồ Đề Tân Thanh, Tiếng Chuông Sớm… do các cư sĩ biên tập làm nơi truyền tải tin tức, tư tưởng Phật giáo của hội.

Miền Trung có HT Giác Tiên, Giác Nhiên, Quốc Sư Phước Huệ, Trí Độ có tờ báo Viên Âm.

Miền Nam Tổ Khánh Anh, Huệ Quang, Pháp Hải hợp tác với một số cư sĩ ở Trà Vinh thành lập Lưỡng Xuyên Phật Học Hội để làm phương tiện bảo trợ cho Phật học đường.

Nhưng đến 1954 đất nước chia đôi miền Bắc thuộc chế độ Cộng Sản, miền Nam chế độ Công Giáo và đàn áp Phật Giáo do đó 11/6/1963 ngọn lửa thiêng Thích Quảng Đức.

Đặc biệt HT Thích Đồng Trí xác định việc lật đổ Chánh quyền Ngô Đình Diệm không phải từ Phật Giáo mà từ Chính phủ Hoa Kỳ do Kennedy và Cabot Lodge chủ trương với nhóm tướng tá phản bội của chánh quyền Ngô Đình Diệm.

Và từ1964 Ngài Huyền Quang, Trí Quang, Tâm Châu, Thiện Hoa, Thiện Hoà đã đưa PGVN sáng rực đã cho thấy, sau bao năm ẩn mình trong dân gian, Phật giáo vẫn không mất đi mà đồng hành cùng với sự thịnh suy của đất nước, đó là tinh thần Phật giáo đồng hành cùng dân tộc..

Về phương diện đào tạo tăng tài: Tuy các hội đã mở các trường Phật học nhưng thành quả thu được còn rất hạn chế. Theo Giáo sư Nguyễn Lang: “Ngoài Bắc, hội Phật giáo Bắc kỳ tổ chức hai lớp tiểu học cho tăng, ni, một lớp trung học và một lớp Đại học duy trì tại chùa Bằng Sở ở ấp Thái Hà, Hà Đông…” . Riêng ở miền Trung, Hội An Nam Phật Học đã thu nhận được 50 học tăng nội trú. Trong số đó có khoảng mười vị xuất sắc có công đóng góp cho Phật giáo như: TS.Trí Quang, Thiện Siêu, Thiện Minh, Trí Thuyên…

Ở miền Nam, Liên Đoàn Phật Học Xã là nơi đào tạo các học tăng lưu động vì một chùa không đủ kinh tế để nuôi dưỡng các học tăng lâu dài. Tuy nhiên, đến khóa 3, Phật học đường này tan rã. HT.Khánh Hòa, Khánh Anh… phải thành lập hội Lưỡng Xuyên Phật Học để làm phương tiện bảo trợ Phật học đường. Phật Học Đường Lưỡng Xuyên ra đời đào tạo được một số vị tăng tài như: HT.Thiện Hòa, Thiện Hoa, Hành Trụ…

 Và HT Đồng Trí tóm lại đây chỉ là dòng chảy vài nét chính trong Đạo Pháp và Quê hương nhưng từ đây cho đến tương lai về sau (nghĩa là từ 1975-1990)  tại Hải ngoại hành trang vẫn chưa chuẩn bị đầy đủ.

Do đó HT đề nghị:

 Một nhà truyền giáo tại Hải ngoại cần phải có  tinh thần cầu học -Trình độ Phật học và thế học -Tu chứng - Phải có lực đại bi tâm, nhân tâm, trí tâm , hùng tâm v.v…

Và nhất là không bị những lực bên ngoài có tác động làm chúng ta chùng bước vì Phật Pháp bất ly thế gian giác và đề tài Đạo Pháp và quê hương cần luận bàn nhiều hơn.

 

HT Thái Hoà đã tiếp tục với sự sâu sắc về kiến thức lịch sử để bổ sung thêm những điểm của HT Đồng Trí.... nghĩa là chúng ta hội thảo trong tinh thần học hỏi tương kính, tương thuận HOÀ HỢP THANH TỊNH - HOẰNG PHÁP LỢI SANH

Và HT Thích Thái Hòa đã bát đầu bằng  những câu thơ Nguyễn Bính:

"Quê tôi có gió bốn mùa
Có trăng giữa tháng, có chùa quanh năm.
Chuông hôm, gió sớm, trăng rằm
Chỉ thanh đạm thế, âm thầm thế thôi.
Mai ngày tôi bỏ quê tôi
Bỏ trăng, bỏ gió, chao ôi! bỏ chùa".

 

Ngài nhấn mạnh tình đạo pháp và quê hương đã đi sâu vào lòng người bất tử như thế có nghĩa là đạo Phật VN có từ lâu đời lắm rồi và người dân VN đã tiếp nhận một Đạo Phật và nuôi dưỡng nó vượt qua bao thế hệ thăng trầm.

1-Như vậy Phật Việt có từ khi nào ?

HT Thái Hoà cho ràng sử học còn đang tranh chấp nhau và văn bản thì chưa chính xác ngài nhấn mạnh khi nghiên cứu một tư liệu như là chính sử không phải dựa vào 100% mà phải biết rằng bất cứ triều đại nào cũng có khuyết điểm và ưu điểm mà khi họ viết tức là họ phải thiên vị ( ăn cơm chúa , múa tối ngày ) cho nên ta phải đọc thêm dã sử. Ngài cho thí dụ về Đàn Nam Giao nay là điểm du lịch (Đàn Nam Giao là đàn tế duy nhất ở Huế còn tồn tại đến ngày nay, nằm trong quần thể di tích cố đô)

Như chúng ta đã biết Đàn Nam Giao Huế được khởi công xây dựng ngày 25/03/1806, dưới thời vua Gia Long.Công trình không chỉ mang vẻ đẹp kiến trúc thời phong kiến mà còn là chốn để tĩnh tâm, chiêm nghiệm.

Trong lịch sử nhà Nguyễn, có đến 10 đời vua tổ chức các buổi tế lễ trời đất ở đây. Tổng cộng đại lễ được diễn ra do vua  hoặc người thay thế chủ trì là 98.

Lễ tế đàn Nam Giao ngày trước là một nghi thức được xếp vào hàng Đại tự, tức lễ lớn, quan trọng của triều đình nhà Nguyễn và chỉ có nhà vua mới có quyền thực hiện lễ tế giao. Trong đó có hai viên đá lớn Lễ tế giao thường được tổ chức mỗi năm một lần vào mùa xuân và kéo dài đến 3 ngày. Sau này, buổi lễ được tổ chức 3 năm 1 lần. Và đến thời vua Bảo Đại thì  rút xuống chỉ còn một ngày.

Sau 1975  đàn Nam Giao không được sử dụng đúng mục đích, dần dần đổ nát, hoang phế qua hai cuộc chiến tranh Đông Dương và chiến tranh Việt Nam ác liệt, giống như nhiều di tích trong quần thể di tích Cố đô Huế.

Và lịch sử đã không ghi lại sự kiện vào năm 1977, đàn Nam Giao nhà Nguyễn đã  bị xâm hại nghiêm trọng khi chính quyền tỉnh Bình Trị Thiên cho xây dựng một đài tưởng niệm liệt sĩ bằng gạch trên nền Viên đàn.

 Sự kiện này đã gây xôn xao dư luận Huế nhưng mãi đến ngày 15 tháng 9 năm 1992, UBND tỉnh Thừa Thiên Huế mới có quyết định di dời đài tưởng niệm liệt sĩ, khôi phục đàn Nam Giao, đồng thời giao Trung tâm Bảo tồn di tích Cố đô Huế nhiệm vụ bảo vệ, lập hồ sơ, luận chứng kỹ thuật phục vụ công tác trùng tu.

Năm 1993, đàn Nam Giao nhà Nguyễn nằm trong danh mục 16 di tích có giá trị toàn cầu nổi bật được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới. Năm 1997, đàn được Bộ Văn hóa nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia và được trùng tu tôn tạo bước đầu. Mùa Festival Huế năm 2004, lần đầu tiên sau gần 60 năm vắng bóng, Trung tâm Bảo tồn di tích Cố đô Huế đã phục dựng lại lễ tế Nam Giao ở đàn Nam Giao triều Nguyễn và đây tiếp tục là điểm nhấn trong các mùa Festival Huế nhiều năm sau nhưng có bao nhiêu người đã biết được sự việc này, đôi khi chỉ còn lại vài câu ca dao như vậy cung như vì sao có hiệp Đinh Geneve 1954 chúng ta cũng không bết đâu là chính xác. HT Thái Hòa nói tiếp  vì học từ kinh Kim Cang, khi  Như Lai dạy:"Nầy Tu-Bồ-Đề! Những vi-trần ấy, đức Như-Lai nói chẳng phải vi-trần, đó tạm gọi là vi-trần. Đức Như-Lai nói thế-giới cũng chẳng phải thế-giới, chỉ tạm gọi là thế giới “

cho nên HT kết luận  học lịch sử tức là học kinh Phật,  học tất cả Chư Phật từ các thời quá khứ qua đấy ta thấy được Phật Thích Ca, từ Đức Thế tôn ta thấy các Chư Phật quá khứ, vị lai có như vậy mới đúng là đi tìm tư liệu cho Đạo  Phật củachúng ta

HỌC KINH PHẢI TỔNG TRÌ NHƯ MỘT NGƯỜI ĐI TÌM CHÂN LÝ , PHÁT HIỆN CHÂN LÝ MỚI CÓ THỂ HIỂU ĐƯỢC THẦY TỔ CỦA CHÚNG TA ĐÃ LÀM GÌ CHO ĐẠO PHÁP VÀ QUÊ HƯƠNG.

2- Đạo Phật VN từ bao giờ ?

Theo tài liệu của Mật Thể — Thế kỷ thứ hai sau Tây Lịch

Theo Nguyễn Lang—— thế kỷ thứ 1 sau Tây lịch từ khi có trung tâm Luy Lâu

Theo Tiến Sĩ Lê Mạnh Thát — thế kỷ 1 trước Tây Lịch dẫn chứng chuyện Chủ Đồng Tử và công chúa Tiên Dung của Vua Hùng

Ni Sư Tâm Lạc trong hội thảo 2 có nói thời Hai bà Trưng đã có có các công chúa xuất gia rồi có nghĩa là phải có các chùa từ tời trước đó, cũng như  các tư liệu của thời A Dục được phái đến các quốc gia Đông Nam Á trong đó có Sona và Uttara đến Miến Điện rồi đến Giao Chỉ vào đến của biển Hải Phòng và trong bảo tháp Xá Lợi còn lưu lại một tư liệu thật quý Đồ Sơn Bát vịnh, gia phả của dòng Họ Hoàng mà thí dụ bài Tháp Sơn Hoài Cổ ( Bài thứ năm )

              Cổ tháp di hư loạn thảo đôi ,

              Dục Vương khứ hậu ủy yên đồi !

              Thiên chung bảo khí minh lưu thủy , 

              Cửu cấp phù đồ hóa kiếp hôi .

              Tiều tử ỷ kha miên thạch đắng ,

              Mục nhi khu độc há sơn ôi .

              Đăng cao dục hội sơn Tăng giảng ,

              Hà xứ chung lâu khấu nhất hồi .

Dịch :    Tháp xưa lau cỏ tốt bời bời ,

              Vua Dục đi, vua sau cũng đổ rồi !

              Chuông nặng ngàn cân kêu đáy nước ,

              Tháp cao chín bậc hóa thành vôi .

               Chú tiều dựng củi nằm đo đá ,

              Trẻ mục lùa trâu vội xuống đồi .

              Lên núi muốn cùng Sư giảng kệ

           Chuông đâu mà đánh thử một hồi ? 

      Bốn câu đầu của bài thơ gợi cho ta nhớ về lịch sử xa xưa của đạo Phật. Sau khi Tháp Dục Vương bị đổ nát, vua Lý Thánh Tông cho xây dựng Tháp Tường Long trên nền cũ,cũng đã bị hủy hoại, đổ nát thành phế tích cả rồi !

      Theo “ Đạo Phật & Dòng Sử Việt” ( Đức Nhuận-1996 ) : Tương truyền vào khoảng ba trăm năm trước tây lịch, sau Đại hội Kết tập Tam tạng lần thứ ba tại Pataliputra (Hoa Thị Thành ), Ấn Độ, vua Ashoka đã gửi chín giáo đoàn đi truyền bá chánh pháp tại các nước, trong đó có một giáo đoàn do hai ngài Sona và Uttara lãnh đạo đã qua Miến Điện và tới xứ Đông Dương, trong đó có vùng đất Giao Chỉ - Việt Nam ta ngày nay. Nơi giáo đoàn đến Giao Chỉ là vùng Nê Lê ( bùn đen ), tên cũ của vùng Đồ Sơn ngày nay. Để tri ân vua Ashoka đã cử giáo đoàn tới đây để truyền bá Phật pháp, phật tử và dân chúng địa phương đã phát tâm xây dựng Tháp A Dục rất trang nghiêm để thờ Phật, và là nơi nương tựa, di dưỡng đời sống tâm linh sau những ngày lênh đênh kiếm sống trên biển cả và bờ bãi, đảo xa. Hình ảnh Tháp A Dục đã gợi mở cho ta nhớ về buổi đầu khi Giáo lý và các Hành giả của Đạo Phật đến xứ ta, đã nhanh chóng thích ứng và hội nhập với tinh thần bao dung thuần phác của tín ngưỡng bản địa và bản sắc văn hóa của cư dân vùng lúa nước,đánh bắt hải sản, nên đã tồn tại được ở xứ này. Qua nghiên cứu các tư liệu, truyền thuyết còn tồn lưu trong dân gian, từ thần tích miếu Thị Đa, Cốc Liễu gần thị xã Đồ Sơn, có tên xa xưa là Nê Lê, nơi có dấu tích cả về vật thể và phi vật thể, là nơi đầu tiên nước ta tiếp thụ Phật giáo, từ thời Hùng Vương dựng nước, rồi từ Nê Lê truyền đến Luy Lâu, hình thành một Trung tâm Phật giáo của nước ta, từ đó đạo Phật được truyền bá tới mọi vùng miền của đất nước. Cũng từ Luy Lâu, Đạo Phật được truyền sang Lạc Dương và Bành Thành ở phương Bắc.. Trước thử thách khắc nghiệt của thời gian và thiên nhiên, ngôi Tháp đã trở thành hoang phế. Mãi đến những năm cuối của thập kỷ thứ năm, thế kỷ thứ XI, dưới triều Vua Lý Thánh Tông, ngôi tháp mới được xây dựng lại

Cũng ở Đồ Sơn, trong dân gian còn truyền mịêng một câu ca dao cổ :

                              Lý gia truyền lại mấy đời

                        Chùa tan, tháp đổ, chuông rơi Nò Hầu.

 
Như vậy Phật Giáo VN đã có rất sớm, đồng thời với vua A Dục, tương đương với các thời cổ đại của nước Hy Lạp. Tuy nhiên giáo sử VN chưa có kết luận chắc chắn

3- Vai Trò Phật Giáo khi truyền vào đất nước Giao Chỉ

Sau chính biến kết thúc 18 đời vua Hùng, nhà Hán đô hộ nước ta và Sĩ Nhiếp đã cai trị đất Giao Châu, Ông chú ý dạy dân cày cấy, khai mở lập làng và giúp cho kinh đô Luy Lâu phồn thịnh. Nhưng cái công lớn của Sĩ Tiếp là tài nội trị ngoại giao giúp cho Giao Chỉ không lầm cảnh chiến tranh tàn khốc thời Tam quốc. Là thái thú nhưng với dân Giao Chỉ thì Sĩ Tiếp trở thành Vương. Cho nên các nhà sử học nước ta thời phong kiến không phải không có lý khi gọi Sĩ Tiếp là Sĩ Vương. Vào thời Sĩ Tiếp cai trị, Trung Quốc loạn lạc, nhiều quan lại nhà Hán chạy xuống Giao Châu nương nhờ ông lánh nạn. Ông cho họ ăn ở và cũng nhờ những nho sĩ này truyền dạy chữ Hán cho con dân đất Việt. Sĩ Tiếp trở thành một người thầy, một ông "đốc học" và ông còn có công lao lập ra hàng chục làng nghề liên can đến chữ nghĩa văn chương. Chẳng đâu xa, ngay gần thành Luy Lâu ngày nay vẫn còn các làng đúc đồng, canh cửi, làng tranh, làng chế mực viết và chùa Bình - nơi Ông dựng lên để ngày hội tụm lại bình văn thi thơ.

Dẫu việc gọi Sĩ Tiếp là “Nam Giao Học Tổ” cho đến ngày nay còn nhiều tranh cãi, nhưng giới học giả nước ta đều công nhận công lao của ông trong việc phát triển nền Nho học

Với những tài liệu lịch sử trên HT thuyết trình viên Thích Thái Hoà đã kính xin Chư Tôn Đức hãy quan tâm cho giới trí thức trẻ được học hỏi lịch sử hầu trong tương lai có thể đóng góp cho quê hương VN vì Trái đất mà chúng ta ở chính là quê hương của con người chúng ta

Sau đó để kết thúc H T Thích Thái Hoà đã nhắc đến VIỆT NAM TỨ PHÁP —Đó là 4 ngôi chùa mang tên PHÁP VÂN, PHÁP VŨ, PHÁP LÔI, PHÁP ĐIỆN

Dẫn chứng tích sử: Vùng Luy Lâu, một miền đất cổ, thủ phủ đất Giao Châu xưa (nay là xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh) nằm ở khoảng giữa đồng bằng Bắc Bộ, một vùng châu thổ phì nhiêu có mật độ quần cư đông đúc. Vào những thế kỷ đầu Công nguyên, nơi đây đã ra đời một loại hình tín ngưỡng mới của người Việt được một số nhà nghiên cứu cho rằng đó là Phật giáo dân gian Việt Nam, với vị Phật tổ - Phật Mẫu Man Nương cùng bốn người con của Bà – bốn Phật Bà mà dân gian quen gọi là Tứ Pháp: Pháp Vân ,Pháp Vũ ,Pháp Lôi, Pháp Điện.

Như thế, hiện tượng thờ Tứ Pháp đã ghi lại một mốc quan trọng đánh dấu thời điểm Phật Giáo Ấn Độ truyền vào nước ta, bắt đầu từ vùng Luy Lâu. Nó cũng là một tài liệu sống về dân tộc học, văn hóa học, cho phép ta biết được một thực tế là khi Phật Giáo vào thì nơi đây đã ngự trị trong cư dân bản địa một tín ngưỡng dân gian.

Đó là tín ngưỡng thờ các hiện tượng thiên nhiên liên quan trực tiếp tới sản xuất nông nghiệp, được nhân hóa dưới dạng nữ thần, ảnh xạ của chế độ xã hội mà người đàn bà nắm quyền cai trị.

Là cư dân nông nghiệp lúa nước, người Việt cúng trời đất, tôn thờ các hiện tượng thiên nhiên Mây, Mưa, Sấm, Chớp, nhân hóa các hiện tượng này, cho rằng nó có thể giúp đỡ hoặc làm hại đến bản thân mỗi người và xã hội. Mây (Vân), Mưa (Vũ), Sấm (Lôi), Chớp (Điện) là những hiện tượng thiên nhiên liên quan trực tiếp đến nông nghiệp.

HT Thái Hoà cũng ví Pháp Vân là mang tâm từ bi, rộng lớn che mát nhân loại  nghĩa là phải tu chứng từ bát địa trở lên trong thập địa

Hoan hỷ địa: tu tới địa vị này tâm rất hoan hỷ.

Ly cấu địa: tu tới địa vị này tâm địa sạch hết phiền não mê hoặc dơ bẩn.

Phát quang địa: tu tới địa vị này tâm phát sáng suốt.

Diệm huệ địa: tu tới địa vị này tâm sáng như núi lửa.

Cực nam thắng địa: tu tới địa vị này tà ma ngoại đạo không thắng nổi.

Hiện tiền địa: tu tới địa vị này tâm Phật hiện trước mặt.

Viễn hành địa: tu tới địa vị này như người đi xa gần tới đích.

Bất động địa: tu tới địa vị này tâm không lay động trước hoàn cảnh.

Thiện huệ địa: tu tới địa vị này trí tuệ tỏ sáng cùng khắp.

Pháp vân địa: tu tới địa vị này thông suốt giáo pháp như mây vậy.


Và HT kết luận Đạo Pháp và Quê hương là một thực thể lấy tầng lớp quần chúng để khẳng định Đạo Phật VN là một quốc giáo từ ngàn xưa.

Sau đây là những điều được  bàn luận

-Chủ tọa đoàn HT Thích Tâm Minh bổ túc trong lúc thuyết trình Thái Hoà có nói đến chiếc áo đà, có nghĩa là áo tràng màu nâu của chư Tăng.

Và dân tộc Việt đã học Phật Giáo từ nguyên lý Nhân Quả, và khoác với các tôn giáo khác Đạo Phật không tin vào một thần quyền

-Đại Đức Thích Hạnh Phẩm trong ban thư ký đã yêu cầu quý vị hiện tiền khi bàn thảo nên chắt lọc và nên xoáy vào những điểm chính chủ đề vì nhị vị thuyết trình viên đã chiếm gần hết thời gian quy định .

-HT Như Định nói nên tạo chủng tử Bồ Đề nếu không sẽ chỉ còn Cổ Sơn Môn trong tương lai

Và HT Bổn Đạt đã đúc kết 3 buổi hội thảo Ngài cũng nêu lý do vì thân đang bịnh chưa phục hồi và vị Thầy chuyên đúc kết các buổi hội thảo là HT Thích Nguyên Siêu nhưng nay đã vắng mặt nên cũng xin mọi người thứ lỗi nếu có khiếm khuyết


Trước khi đúc kết HT Thích Bổn Đạt đã ngợi khen nhị vị Viện Chủ và Trụ trì đã khai mở ngọn đèn Chánh Pháp khi nhắc đến câu đối trên Chánh điện  của Tu Viện Quảng Đức:

Quảng Bá năm châu đèn trí tuệ sáng ngời Chánh Pháp truyền đi khắp xứ

Đức truyền bốn biển nước từ bi rưới mát đạo mầu trải rộng mười phương”

Và sau đó đúc kết Hội Thảo 1 - HT đã hầu như đọc lại tiểu sử của Tổ Giác Tiên nên quá dài nhưng vì chư viết buổi hội thả1 nên con cũng kính xin trình bày tiểu sử Tổ Giác Tiên để nhiều người tham khảo.


Tổ Giác Tiên (1880 - 1936) - Tổ khai sơn chùa Trúc Lâm.( Huế)

1.-  Thân thế :

Pháp danh :  Trừng Thành,  Pháp tự : Chí Thông, Pháp hiệu :   Thích Giác Tiên.

Thuộc dòng Lâm Tế Chánh Tông đời thứ 42

Thế danh :  Ngài họ Nguyễn Duy húy là Quyển.

Thọ sanh năm Canh thìn, niên hiệu Tự Đức đời thứ 33 (1879) Chánh quán làng Giạ Lệ Thượng, xã Thủy Phương, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên.

 Năm 1883, lên bốn tuổi thì song thân đều mất. Ngài được ông bà bác đồng tộc đem về nuôi dưỡng. Nhờ bẩm chất thông minh nên thân thuộc cho theo Nho học một thời gian. Nhận thấy giáo lý Phật đà mới là con đường hướng đến cảnh giải thoát ;  từ đó, Ngài xin với thân thuộc xuất gia đầu Phật. Năm 1890, được 11 tuổi, Ngài cầu thọ giáo với tổ Tâm Tịnh.

            2.- Sự nghiệp tu học :

          Đầu tiên, Ngài lên tu học tại Tổ đình Từ Hiếu. Nơi đây, Ngài Hải Thiệu đang là Trú trì và Ngài Tâm Tịnh làm Giám tự. Năm 1883, lên 14 tuổi, ngài được tổ Tâm Tịnh cho thọ Sa di Thập giới.

          Năm Đinh Mùi (1907), Hòa thượng Đàn đầu Vĩnh Gia, tổ chức Đại giới đàn tại chùa Phước Lâm, thị xã Đà Nẵng, tỉnh Quảng Nam. Ngài được bổn sư cho đăng đàn thọ Cụ túc giới và đỗ Thủ khoa, đúng 28 tuổi.

          Sau khi đắc giới, Ngài đang chuyên tinh hành trì giới luật và nghiên cứu những bộ kinh khó ;  đồng thời, hầu cận bên cạnh sư phụ, thì Ngài Hải Thiệu lại công cử đứng ra lo cho chùa Phổ Quang gần dốc Bến Ngự. Lúc ấy ngài Trú trì chùa Phổ Quang đã viên tịch và cúng dưòng chùa lại cho Ngài Hải Thiệu.

          Cùng chung lo Phật sự với Ngài tại Phổ Quang có Sư bà Diên Trường.

Sư bà cũng thọ Đại giới cùng một lần với Ngài ở Đại giới đàn Vĩnh Gia (Đà Nẵng).

          Vì sự huyên náo của ngành hỏa xa ở trước cổng chùa Phổ Quang có ảnh hưỏng đến sự tu niệm của Ngài cũng như của chúng lý ;  năm Tân hợi (1911), Sư bà Diên Trường vào thôn Thuận Hòa, đồi Dương Xuân Thượng lập thảo am để tịnh tu. Sư bà đã cung thỉnh Ngài nhận ngôi Hóa chủ cho chùa.

          Trước khi nhận nhiệm vụ làm Tổ khai sơn, Ngài đã cùng với Sư bà đi tham vấn đó đây, nhất là vùng Yên Tử (Bắc Việt). Khi đến Trúc Lâm Yên Tử, Ngài đã ở lại đây một thời gian ngắn. Ngài đã sưu tầm một số pháp bảo ở Trúc Lâm và lấy làm mãn nguyện lắm.

          Sau khi trở lại Huế, Ngài quyết định đặt tên chùa là Trúc Lâm với thâm ý của Ngài là muốn nối chí truyền thống Trúc Lâm tam tổ ở núi Yên Tử vậy.

          Ngài là vị đệ tử xuất sắc nhất của tổ Tâm Tịnh (Khai sơn Tổ đình Tây Thiên Di Đà). Ngài đã xứng đáng là vị Tổ khai sơn cũng như sự mong cầu và ngưỡng mộ của Sư bà Diên Trường nữa.

          Với công trình hành đạo của ngài như vậy, trong Việt Nam Sử luận của Giáo sư Nguyễn Lang có đoạn viết :

          “... Như ta đã biết, hội An nam Phật học không những đã có được sự yểm trợ của hầu hết các phần tử trong sơn môn mà còn có được sự cộng tác tích cực của những vị Tăng trẻ tuổi và có học của sơn môn đào tạo nữa. Sự cộng tác nầy phần lớn nằm trong phạm vi hoằng pháp ;  giảng diễn cho tín đồ, trước thuật bài vở và kinh sách. Tuy nhiên, nhìn hội An nam Phật học với những thành quả mà nó thu lượm được chỉ là nhìn thấy một bông hoa nở trên một nhánh cây mà chưa nhìn thấy từ thân cái cây ấy.Tuy nói rằng :  Phật giáo suy yếu, cần phải phục hưng, nhưng nếu căn bản và tiềm lực không có thì sự phục hưng ấy sẽ trở nên rất khó khăn”.

Sở dĩ ta có được một Mật Khế, một Tâm Minh Lê Đình Thám là nhờ có được Giác Tiên chẳng hạn thì ta thấy được Tâm Tịnh, Bổn sư của Ông, Huệ Pháp, Giáo thọ sư của Ông, Viên Thành là bạn thân của Ông.(Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, quyển 3, trang 112 và 113).

Ngài không những chỉ đem hết tâm lực và tâm nguyện để lo cho Trúc Lâm trở thành một chốn già lam đầy thiền vị như ý nguyện, mà Ngài còn nhìn xa hơn nữa cho tiền đồ của Đạo pháp, bằng cách biến Trúc Lâm trở thành nơi đào tạo Tăng tài, hoằng pháp lợi sanh và nhất là quần chúng hóa Phật giáo ngày một hưng thịnh.

          Với công hạnh và đức độ, tổ Tâm Tịnh đã làm một bài kệ phú pháp cho Ngài như sau :

            Giác đạo kiếp không tiên,

            Không không bát nhã thuyền,

            Quả nhân phù hạnh giải,

            Xứ xứ tức an nhiên.

Dịch :

            Đường giác vượt hậu tiền,

            Thuyến bát nhã không không,

           nhân quả,hoà hợp giải

            Ở đâu cũng thong dong.

          Bài kệ trên cũng phù hợp với sự chuyên tâm hành thiền của Ngài. Hằng ngày Ngài thường nghiên cứu vào những câu thoại đầu để làm công án thiền như sau :

          - “Chư pháp tùng bản lai,

          Thường tự tịch diệt tướng.”.

Dịch :

          Các pháp vốn xưa nay,

          Tự tướng thường vắng lặng.

          Ngài ngồi thiền định liên tiếp ba bốn giờ là chuyện thường. Có lúc Ngài ngồi nhập định luôn cả hai ngày. Xả định rồi, thấy thời gian như bóng câu qua cửa sổ, thân người rồi cũng tự lụi tàn theo năm tháng ;  Ngài tự nhủ :  Nếu như không chịu tự tu chứng lấy cho bản thân, không chịu hành trì giới luật, không chuyên tâm tu niệm rồi một ngày nào đó rất gần, cái thân giả huyễn nầy cũng sẽ ra tro bụi, vô minh rồi cũng sẽ đến với mình. Vĩnh kiếp luân hồi trong lục đạo.

Ngài đã cảm nhận được cơn vô thường của kiếp sống, nên sau khi xả thiền, Ngài có làm bài thơ như sau :

            Giác mộng tàn tinh điểm bán không,

            Trường thiên cô nhạn ảnh vô tung,

            Sơ minh nguyệt sắc tà lan ý,

            Tức nhập thiền tâm tiêu tức trung.

           Dịch :

            Tỉnh mộng tàn canh thấy cảnh không,

            Dưới trời chim nhạn vốn không tông,

            Vầng trăng chiếu rọi ngoài hiên vắng,

            Thâm nhập thiền tâm, tiêu tức trung.

           Dịch theo vần Lục bát :

           Tàn canh thấy mộng trống không,

            Dưới trời chim nhạn vốn không tông (tích) loài.

            Vầng trăng chiếu rọi hiên ngoài,

            Thiền tâm chứng nhập, trong ngoài tiêu tan.

          3.-  Ảnh Hưởng Của Ngài Đối Với Đạo Pháp :

         Trong Việt Nam Phật Giáo Sử Luận của Giáo sư Nguyễn Lang có đoạn :

          - “Thiền sư Giác Tiên có thể nói là người khởi xướng công trình phục hưng Phật Giáo tại miền Trung. Giác Tiên Thiền sư hướng đạo cho hội An Nam Phật Học được bốn năm thì thị tịch. Các đệ tử của Giác Tiên Thiền sư là Mật Khế, Mật Hiển, Mật Nguyện và Mật Thể đều đóng những vai trò quan trọng trong phong trào phục hưng Phật Giáo sau nầy, ...”   (Việt nam Phật giáo Sử luận quyển 3, trang 85 và 86).

 

          Năm Giáp tý (1924), đời vua Đồng Khánh thứ 9, Ngài vân tập Đại Tăng và tổ chức an cư kết hạ.

       Đời vua Khải Định thứ ba, Ngài mở giới đàn ở chùa Từ Hiếu, cung thỉnh Hòa thượng bổn sư là Tổ Tâm Tịnh đăng đàn truyền giới.

          Năm Ất sửu (1925), đời vua Bảo Đại thứ nhất, Ngài được chiếu chỉ của triều đình mời làm Trú trì Diệu Đế quốc tự.

          Năm Bính dần (1926), Ngài lo đại trùng tu Phật điện và Tăng xá của Trúc Lâm.

          Năm Mậu thìn (1928), Ngài biến Trúc Lâm thành nơi đào tạo Tăng tài và cũng là khởi điểm đầu tiên cho Đại học Phật giáo tại Cố đô Huế nói riêng và miền Trung nói chung.

          Năm Kỷ tỵ (1929), Ngài vào tận Tổ đình Thập Tháp Di Đà để cung thỉnh Hòa thượng Phước Huệ Quốc sư ra làm chủ giảng cho lớp Đại học đầu tiên nầy.

          Năm Canh ngọ (1930), Ngài khuyến khích và giúp đỡ cho Sư bà Diệu Hương mở Ni trường Diệu Đức.

          Năm Tân mùi (1931), Ngài đứng ra vận động thành lập hội An Nam Phật Học. Ngài một mình tự đi cung thỉnh chư vị Hòa thượng, Thượng tọa có tài đức ra chung lo Phật pháp.

          Năm Quý dậu (1933), Ngài ủy thác cho Thiền sư Mật Khế, vị đệ tử lớn và xuất sắc nhất của Ngài mở một trường Tiểu học Phật học tại chùa Vạn Phước, để cho lớp Sa di của các chùa có nơi đến học.

          Năm Giáp tuất (1934), Ngài cùng với đệ tử Mật Khế tổ chức trường An Nam Phật Học tại Trúc Lâm, thu nhận đúng 50 học tăng. Cuối năm nầy ngài quy tụ các học tăng có trình độ khá cao về Trúc Lâm để mở trường Đại học Phật giáo. Đại học Phật giáo đầu tiên có từ đó.

          Ngoài vị đệ tử lớn là thiền sư Mật Khế ra, Ngài còn có một vị đệ tử lớn thọ tại gia Bồ tát giới đã theo học với ngài từ năm 1928 là Bác sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám. Cụ Tâm Minh vâng lời sư phụ để lo cho hội An Nam Phật Học, lo soạn thảo chương trình giáo dục thanh thiếu nhi và kết hợp thành đoàn ngũ hóa quần chúng Phật tử có tu học.

 Hạnh nguyện của Ngài là làm thế nào đưa Phật giáo vào lòng dân tộc một cách trong sáng và hữu hiệu. Tuy nhiên, việc làm vừa được một đoạn đường thì Ngài thọ bệnh.

   Ngày mồng Hai (Tân sửu), tháng Mười (Kỷ hợi), năm Bính tý (nhằm ngày 15 tháng 11 năm 1936), Ngài cho vân tập Tăng chúng đứng chung quanh giường để nghe Ngài giảng kinh Pháp Bảo Đàn. Hai hôm sau, khi Ngài giảng xong phẩm Bát Nhã, rồi Ngài nhìn từng vị đệ tử một để truyền kệ.

          Vào lúc 20giờ, ngày mồng Bốn (Ất mão), tháng Mười cùng năm (tức ngày 17-11-1936), niên hiệu Bảo Đại thứ 11, Ngài im lặng và từ từ đi vào cõi tịnh. Ngài thọ thế 57 tuổi.

          Chư Tôn đức Tăng già, quần chúng Phật tử và hội An Nam Phật Học tề tựu về Trúc Lâm tại Thánh tự để lo lễ cúng dường cũng như phò nhục thân Ngài nhập bảo tháp rất trọng thể.

          Ngài viên tịch trong lúc đang đãm nhiệm trách vụ Trú trì hai chùa Trúc Lâm và Diệu Đế và Chứng minh Đại đạo sư cho hội An Nam Phật Học.

          Trước sự thương kính của hội, Hội đã thành tâm cúng dường câu đối như sau :

          .-  Trúc Lâm không quãi tam canh nguyệt,

          .-  Diệu Đế tri văn ngũ dạ chung.

          Đại diện hội Phật giáo Bắc kỳ cúng dường hai câu :

          .-  Vân nạp Bắc lai, đàm luận di tuần kham Giác chỉ,

          .-  Trúc lâm Nam vọng, vãng sanh hà xứ mích Tiên tung.

          Trước tháp ngài, cụ Tâm Minh Lê Đình Thám có cúng dường hai câu để ghi nhớ và vâng chỉ di huấn của Tổ trên con đường chấn hưng, phục vụ Phật pháp, như sau :

         -  Quán tướng nguyên vọng, quán tánh nguyên chơn, viên giác diệu tâm ninh hữu ngã,

        -  Chúc pháp linh truyền, chúc sanh linh độ, thừa đương di huấn khởi vô nhơn.

Nghĩa là :

    -  Quán sắc tướng vốn vọng, quán thể tánh vốn chơn, viên giác diệu tâm đâu còn ngã,

    -  Chúc chánh pháp khiến truyền, chúc chúng sanh khiến độ, thừa đương di huấn vẫn còn có người.

          Ngài đã đi vào cõi tịnh, nhưng âm ba và uy đức của Ngài vẫn còn nối tiếp mãi mãi. Nhìn những vị đệ tử xuất gia lẫn tại gia và hậu duệ của ngài còn gánh vác việc Giáo hội thì đủ rõ.

          Không những Ngài là vị xuất trần thượng sĩ, Ngài còn là một thi sĩ đã để lại những áng thơ hay, những di bút xuất thần mà các tổ đình Tường Vân, Từ Quang, Tra Am, v.. v... vẫn còn tôn thờ trong hậu tổ hay nơi chánh điện. Bên cạnh đó, mỗi lần Giáo hội tại cố đô Huế hữu sự vẫn còn tưởng niệm đến danh hiệu Ngài.

          Những vị đệ tử xuất gia của ngài gồm có : Mật Tín, Mật Khế, Mật Hiển, Mật Nguyện, Mật Nhơn, Mật Thể, Diệu Huệ và Diệu Không.

          Tại gia thì có :  Đại thần Hồ Đắc Trung, bác sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám (Linh hồn của tổ chức Gia đình Phật tử  miền Trung và Việt nam) và bác sĩ Trương Xướng.

 

Hội Thảo 2 đúc kết ngắn gọn về công hạnh Ni Trưởng Như Thanh, phát tâm hành trì giới luật, học kinh điển đại thừa, chứng được sở đắc và Tánh Không , từ tâm vô cầu, vô sở nguyện nên đã biến âm thanh của Ni Trưởng thành diệu âm và đó là ý nghĩa của Như Thanh

Hội Thảo 3 - Ngài Đồng Trí nói về dòng chảy lịch sử nên phải cần thời gian nhiều, HT Thái Hoà thì có quá nhiều chi tiết lịch sử nên chưa kết luận được chúng sinh còn khổ đau là còn Đạo Phật và chúng sinh có rất nhiều loại.

Sau đây là những lời phát biểu

-HT Thích Bảo Lạc giơ tay: bài đúc kết của hội thảo 1 không nên đọc lại tiểu sử Tổ Giác Tiên; dài quá mà nên tóm tắt  lại trong vài câu như đúc kết hội thảo 2, tuy nhiên Hội Thảo 2 nên thêm vào các bài thơ của Ni Sư. Riêng Hội Thảo 3, xin xác định chùa Phước Lâm ở Hội An chứ không phải thuộc Đà Nẳng .

HT Bổn Đạt giải thích có thể người viết đã lầm chùa Pháp Lâm ( Tịnh Hội) của Đà Nẳng vậy

-HT Thích Nguyên Trực phát biểu

——-Đề tài rất bao la, và không nói gì về việc truyền thừa cho tương lai nơi Hải ngoại,  thí dụ ở Úc ( nhất tăng nhất tự).

-HT Thích Tâm Phương phản đối :trước đó đã giải thích vì sao có chủ đề này khi mới vào Hội Thảo rồi và có thỉnh HT Đồng Trí nói về quê hương Hoa Kỳ và HT Thái Hoà nói về quê hương VN.

-HT Thích  Tịnh Đạo: “Ôn Cố Tri Tân “mà ôn cố nhiều quá mà không chỉ đường lối nào để tiêp tục dấn thân vào tương lai .

-HT Thích  Phổ Hương : Chọn đề tài phải thế nào để thích hợp mọi giới

-HT Thích Như Điển: Sang năm nhất định phải nói Tổ Vĩnh Gia, Sư Bà Vĩnh Bửu và Phật Giáo VN Hải Ngoại - ngày mai

-HT Thích Bổn Điền: Phật giáo tại Hải ngoại  và VN hay bất cứ nước Úc, Mỹ gì cũng tuỳ theo nhân duyên mà uyển chuyển, Tuỳ duyên bất biến.

-HT  Thích Như Định vẫn kiên trì thuyết phục hướng về truyền thừa như Nhật Bản, nhưng hầu hết các vị trưởng Lão đều phản đối ý kiến này  

-HT Thích Quảng Niệm , kính lạy quê hương nội và ngoại, được biết  Phật dạy khi phụng sự chúng sanh thì duyên như vậy quả sẽ như vậy, chỉ cần chân cứng đá mềm cho đến khi đạt được giác ngộ giải thoát

HT Thích Như Điển nói về nước Phù Nam từ Phan Rang đến biên giới Cao miên, Thái đã từng phát triển Đạo Phật nhưng sau đó mất trên bản đồ cho thấy mọi việc đều tùy duyên.



day 7 le hiep ky (257)day 7 le hiep ky (258)day 7 le hiep ky (260)day 7 le hiep ky (264)day 7 le hiep ky (267)day 7 le hiep ky (268)day 7 le hiep ky (269)day 7 le hiep ky (270)day 7 le hiep ky (271)day 7 le hiep ky (272)day 7 le hiep ky (273)day 7 le hiep ky (274)day 7 le hiep ky (279)day 7 le hiep ky (280)day 7 le hiep ky (281)day 7 le hiep ky (282)day 7 le hiep ky (284)day 7 le hiep ky (286)






Lời kết:

 

Qua 3 buổi Hội Thảo , từ một Phật Tử rất sơ cơ nhưng khi nghe tiểu sử quý Đại Tổ Sư con đã nhận ra tiêu chỉ khi học Giáo Pháp của Đức Phật, qua hành trạng của Lịch Đại Tổ Sư và nhất là chúng ta phải biết mang ơn tôn giáo của mình vì nhờ đó mà những gì mình có thể  chia sẻ để phụng sự hy hiến cho nhân loại, để chuyển hóa cảm xúc và tâm thức con người.

Con kính nguyện sẽ noi gương bậc cao tăng của nhiều thế hệ trước và hiện đại và cũng nhân đây con kính tri ân TT Trụ Trì Thích Nguyên Tạng trong thời gian đại dịch đã giảng pháp thoại online về Tổ Sư Thiền Ấn, Trung Hoa và Việt Nam nhờ đó con mới có thể hiểu được những gì các Ngài đã hội thảo trong những ngày qua.

Kính chúc Kính chúc quý Hoà Thượng, Thượng Toạ Đại Đức Tăng Ni nhị bộ Pháp thể khinh an, pháp duyên vô ngại, Phước trí nhị nghiêm , Bồ đề quả mãn. Phật đạo viên thành.

Kính tán dương công đức của HT Viện Chủ Thích Tâm Phương và TT Trụ Trì Thích Nguyên Tạng đã tổ chức thành tựu viên mãn từng ngày một đã đi qua.

Kính chúc quý Ngài sức khỏe dồi dào hơn để tiếp tục truyền đăng tục diệm vàv tiếp nối mạng mạch Phật Giáo

Con kính dâng Đại Hội vài dòng thơ để tỏ bày lòng tri ân của con.

Kính trân trọng,

 

Tiếp cận bậc hiền trí !

Kinh nghiệm thực sự một cá nhân…

….mang ý nghĩa của sự phong phú

Hiểu và nghe được người khác tiếng lòng

Làm sao diễn tả, chỉ lặng lẽ vô ngôn

Dùng mắt trí để nhìn xa vạn lý !

 

Suy ngẫm thêm với nhiệt tình chí khí

Chia sẻ cho đi nhưng chẳng mong đợi gì ,

Thể hiện, hỗ trợ mọi thích ứng biến di

Với tâm thái vững vàng … thanh thản đích thực!

Quan trọng nhất..

…xây dựng được ngôi chùa , tôn tượng Phật !

Nằm ở ngay trong chính bản thân ta

Sẽ tồn tại lưu giữ đến tuổi thọ tối đa

Phải chăng làm việc Phật là ứng dụng lời dạy!

 

Thanh tịnh hoá tâm ý như uống thuốc vậy

Phương cách trị liệu tinh hoa, hãy truyền trao!

Giúp người người giảm thiểu mọi cơn đau

Từ sợ hãi, bất an, cô đơn trống vắng!

Vượt thoát mọi hố thẳm…ngắm nhìn tia nắng

Cái bao la vô cùng tận …

…..lý tự nhiên vũ trụ vận hành

Đức Phật hiện hữu trong mỗi niệm lành

Sức mạnh phi thường chi phối mầu nhiệm!

Tiếp cận bậc hiền trí ….uy lực phương tiện!

 

Melbourne 20/10/2022

 Phật Tử Huệ Hương kính trình Pháp

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com