Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tạp A-hàm quyển 49 (1316 - 1324)

09/05/201312:17(Xem: 12287)
Tạp A-hàm quyển 49 (1316 - 1324)

Kinh Tạp A Hàm

Tạp A-hàm quyển 49 (1316 - 1324)

Tỳ kheo Thích Đức Thắng

Nguồn: Việt dịch: Thích Đức Thắng
Hiệu đính & Chú thích: Tuệ Sỹ

KINH 1316. CHIÊN-ĐÀN (2)[66]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, có Thiên tử Chiên-đàn[67] dung sắc tuyệt diệu, vào lúc cuối đêm, đến chỗ Phật, đảnh lễ dưới chân Phật, ngồi lui qua một bên; từ thân tỏa ánh sáng chiếu khắp vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà. Bấy giờ, Thiên tử kia nói kệ hỏi Phật:

Ai vượt qua các dòng,
Ngày đêm siêng không lười?
Không vin, không chỗ trụ,
Làm sao không đắm chìm?
Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ đáp:
Tất cả giới đầy đủ,
Trí tuệ khéo chánh thọ;
Trong chánh niệm tư duy,
Vượt qua dòng khó vượt.
Không nhiễm tưởng dục này,
Vượt qua sắc ái kia;
Tham, hỷ đều đã hết,
Không vào chỗ khó dò.[68]

Sau khi Thiên tử Chiên-đàn kia nghe những gì Phật nói, hoan hỷ, tùy hỷ đảnh lễ dưới chân Phật, liền biến mất.

KINH 1317. CA-DIẾP (1)[69]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, có Thiên tử Ca-diếp[70] dung sắc tuyệt diệu, vào lúc cuối đêm, đến chỗ Phật, đảnh lễ dưới chân Phật, ngồi lui qua một bên, từ thân tỏa ánh sáng chiếu khắp vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà. Bấy giờ, Thiên tử Ca-diếp kia bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, nay con sẽ nói về Tỳ-kheo và công đức Tỳ-kheo.”

Phật bảo:

“Tùy Thiên tử cứ nói!”

Bấy giờ, Thiên tử Ca-diếp nói kệ:

Tỳ-kheo tu chánh niệm,
Thân[71] kia khéo giải thoát;
Ngày đêm thường siêng cầu,
Công đức diệt[72] các hữu.
Biết rõ nơi thế gian,
Diệt trừ tất cả hữu;
Tỳ-kheo được vô ưu,
Tâm không còn nhiễm trước.

“Bạch Thế Tôn, đó gọi là Tỳ-kheo. Đó gọi là công đức Tỳ-kheo.”

Phật bảo Ca-diếp:

“Lành thay! Lành thay! Đúng như những gì ông nói!”

Thiên tử Ca-diếp nghe những gì Phật nói, hoan hỷ, tùy hỷ cúi đầu lễ dưới chân Phật, rồi biến mất.

KINH 1318. CA-DIẾP (2)[73]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, có Thiên tử Ca-diếp dung sắc tuyệt diệu, vào lúc cuối đêm, đến chỗ Phật, đảnh lễ dưới chân Phật, ngồi lui qua một bên; từ thân tỏa ánh sáng chiếu khắp vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà. Bấy giờ, Thiên tử Ca-diếp kia bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, con sẽ nói về Tỳ-kheo và những gì Tỳ-kheo nói.”

Phật bảo Thiên tử Ca-diếp:

“Tùy theo sở thích mà nói.”

Bấy giờ, Thiên tử Ca-diếp kia liền nói kệ:

Tỳ-kheo giữ chánh niệm,
Tâm kia khéo giải thoát;
Ngày đêm thường siêng cầu,
Mong lìa được trần cấu.
Biết rõ ràng thế gian,
Ở đời, lìa trần cấu;
Tỳ-kheo không ưu tư,
Tâm không bị nhiễm trước.

“Bạch Thế Tôn, đó gọi là Tỳ-kheo, đó gọi là những gì Tỳ-kheo nói!”

Phật bảo Ca-diếp:

“Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như những gì ông đã nói!

Thiên tử Ca-diếp nghe những gì Phật nói, hoan hỷ, tùy hỷ đảnh lễ dưới chân Phật, liền biến mất.

KINH 1319. Khuất-ma[74]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật trú tại nước Ma-kiệt-đà, du hành trong nhân gian. Vào buổi chiều hôm, cùng với năm trăm Tỳ-kheo nghỉ đêm nơi trú xứ quỷ Dạ-xoa Khuất-ma[75]. Bấy giờ, quỷ Dạ-xoa Khuất-ma[76] đi đến chỗ Phật, đảnh lễ dưới chân Phật, ngồi lui qua một bên, quỷ Dạ-xoa bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, hôm nay thỉnh Thế Tôn và đại chúng nghỉ đêm nơi nầy.”

Bấy giờ, Thế Tôn im lặng nhận lời mời. Lúc đó, quỷ Dạ-xoa Khuất-ma biết Thế Tôn đã im lặng nhận lời mời rồi, liền hóa ra năm trăm tòa lầu các; phòng xá, giường nằm, ghế ngồi, màn, nệm, gối. Mỗi thứ năm trăm cái đầy đủ, tất cả đều do biến hóa mà thành; rồi lại hóa ra năm trăm ngọn đèn sáng trưng không có khói tỏa. Sau khi hóa xong, đến chỗ Phật, đảnh lễ dưới chân Phật, ân cần thỉnh Thế Tôn vào phòng và mời các Tỳ-kheo lần lượt nhận phòng ốc cùng ngọa cụ. Sau khi công việc đã xong xuôi, trở lại chỗ Phật, đảnh lễ dưới chân Phật, ngồi lui qua một bên, nói kệ:

Hiền đức có chánh niệm,
Hiền đức luôn chánh niệm;
Chánh niệm ngủ an ổn,
Đời này cùng đời khác.
Hiền đức có chánh niệm,
Hiền đức luôn chánh niệm;
Chánh niệm ngủ an ổn,
Tâm kia thường dừng lặng.
Hiền đức có chánh niệm,
Hiền đức luôn chánh niệm;
Chánh niệm ngủ an ổn,
Xả, hàng phục quân khác.
Hiền đức có chánh niệm,
Hiền đức luôn chánh niệm;
Không giết không sai giết,
Không phục, không bảo phục.
Lòng từ đối tất cả,
Lòng không ôm oán kết.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo quỷ Dạ-xoa Khuất-ma:

“Đúng vậy, đúng vậy! Như những gì ông nói!”

Sau khi quỷ Dạ-xoa Khuất-ma nghe những gì Phật nói, hoan hỷ, tùy hỷ đảnh lễ dưới chân Phật, trở về chỗ mình ở.

KINH 1320. MA-CƯU-LA[77]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại núi Ma-cưu-la[78], Tôn giả Na-già-ba-la[79] làm thị giả. Bấy giờ đêm tối, trời mưa nhỏ, có chớp lóe, Thế Tôn ra khỏi phòng, đi kinh hành nơi đất trống. Lúc ấy, Thiên đế Thích tự nghĩ: ‘Hôm nay Thế Tôn ở tại núi Ma-cưu-la, Tôn giả Na-già-ba-la gần gũi hầu hạ cung dưỡng. Đêm tối, trời mưa nhỏ, có chớp lóe, Thế Tôn ra khỏi phòng, đi kinh hành nơi đất trống. Ta sẽ hóa ra ngôi nhà sàn bằng pha-lê, rồi bưng ngôi nhà sàn ấy, theo Phật kinh hành.’ Nghĩ vậy xong, liền hóa ra ngôi nhà sàn bằng pha lê, mang đến chỗ Phật, đảnh lễ dưới chân Phật, rồi theo Phật đi kinh hành.

Bấy giờ, dân chúng nước Ma-kiệt-đề, nếu khi nào có bé trai, bé gái khóc đêm, đem quỷ Ma-cưu-la[80] ra để dọa, chúng liền ngưng khóc. Theo pháp đệ tử gần gũi hầu hạ cung dưỡng, chờ thầy an giấc thiền rồi sau đó mới đi ngủ. Bấy giờ, Thế Tôn vì Đế Thích nên ban đêm đi kinh hành lâu. Bấy giờ, Tôn giả Na-già-ba-la tự nghĩ: ‘Đêm nay Thế Tôn đi kinh hành lâu quá, ta phải giả dạng làm quỷ Ma-cưu-la để khủng bố Ngài.’ Khi ấy Tỳ-kheo Na-già-ba-la liền mặc ngược câu-chấp[81], để mặt có lông dài ra ngoài, đến đứng chận đầu đường đi kinh hành của Thế Tôn, bạch Phật:

“Quỷ Ma-cưu-la đến! Quỷ Ma-cưu-la đến!”

Bấy giờ, Thế Tôn bảo Tỳ-kheo Na-già-ba-la:

“Này Na-già-ba-la, ngươi là người ngu si, định dùng hình tướng quỷ Ma-cưu-la khủng bố Phật ư? Không thể làm lay động một lông tóc của Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác. Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác đã xa lìa khủng bố từ lâu!”

Khi ấy Thiên đế Thích bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, trong Chánh pháp luật của Thế Tôn cũng lại có hạng người này sao?”

Phật bảo:

“Này Kiều-thi-ca, trong ngôi nhà cực kỳ rộng rãi to lớn của Cù-đàm, những người này vào đời vị lai cũng sẽ đắc pháp thanh tịnh.”

Bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ:

Nếu Bà-la-môn nào,
Nơi pháp tự sở đắc,
Đến được bờ bên kia;
Dù một Tỳ-xá-già[82],
Cùng với Ma-cưu-la,[83]
Đều vượt qua hết thảy.
Hoặc Bà-la-môn nào,
Nơi pháp tự mình hành,
Biết tất cả các thọ,
Quán sát đều đã diệt.
Hoặc Bà-la-môn nào,
Tự mình qua bờ kia,
Hết thảy các nhân duyên,
Thảy đều đã diệt tận.
Hoặc Bà-la-môn nào,
Tự mình qua bờ kia,
Tất cả các nhân ngã,
Thảy đều đã diệt tận.
Hoặc Bà-la-môn nào,
Tự mình qua bờ kia,
Nơi sanh, già, bệnh, chết,
Thảy đều đã vượt qua.

Phật nói kinh này xong, Thiên đế Thích nghe những gì Phật nói, hoan hỷ, tùy hỷ đảnh lễ Phật, liền biến mất.

KINH 1321. TẤT-LĂNG-GIÀ QUỶ[84]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở trong vườn Trúc, khu Ca-la-đà, thành Vương xá. Bấy giờ, Tôn giả A-na-luật-đà ở nước Ma-kiệt-đề du hành trong nhân gian, đến nghỉ đêm tại trú xứ mẹ của quỷ con Tất-lăng-già[85]. Bấy giờ, vào cuối đêm, Tôn giả A-na-luật-đà thức dậy, ngồi ngay thẳng tụng các đoạn kinh Ưu-đà-na[86], Ba-la-diên-na[87], Kiến chân đế[88], Thượng tọa sở thuyết kệ[89], Tỳ-kheo-ni sở thuyết kệ[90], Thi-lộ kệ[91], Nghĩa phẩm[92], Mâu-ni kệ[93], Tu-đa-la; tất cả đều tụng hết.

Bấy giờ quỷ con Tất-lăng-già khóc đêm, quỷ mẹ Tất-lăng-ca nói bài kệ cho con nghe để dỗ nó nín:

Này Tất-lăng-ca con,
Nay, con không được khóc;
Hãy nghe Tỳ-kheo kia
Đọc tụng kệ Pháp cú.
Nếu ai biết Pháp cú,
Tự mình hộ trì giới,
Xa lìa sự sát sanh,
Nói thật, không nói dối,
Tự bỏ điều phi nghĩa,
Giải thoát đường quỷ thần.[94]

Sau khi quỷ mẹ Tất-lăng-ca nói kệ, quỷ con Tất-lăng-già nín khóc.

KINH 1322. PHÚ-NA-BÀ-TẨU[95]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại nước Ma-kiệt-đề du hành trong nhân gian cùng với đại chúng, đến nghỉ đêm tại trụ xứ mẹ của quỷ con Phú-na-bà-tẩu[96]. Bấy giờ, Thế Tôn vì các Tỳ-kheo nói pháp tương ưng bốn Thánh đế: Khổ Thánh đế, Khổ tập Thánh đế, Khổ diệt Thánh đế, Khổ diệt đạo tích Thánh đế.

Khi ấy, quỷ mẹ Phú-na-bà-tẩu có con là quỷ con Phú-na-bà-tẩu cùng quỷ nữ Uất-đa-la[97]. Hai con quỷ nhỏ này khóc đêm. Quỷ mẹ Phú-na-bà-tẩu nói kệ dạy hai đứa con trai và gái của nó:

Này Phú-na-bà-tẩu,
Uất-đa-la! Đừng khóc!
Để mẹ được lắng nghe,
Như Lai đang thuyết pháp.
Cha mẹ không thể nào,
Khiến con giải thoát khổ.
Nghe Như Lai thuyết pháp,
Giải thoát được khổ này.
Người đời theo ái dục,
Bị các khổ bức bách.
Như Lai vì thuyết pháp,
Khiến hủy diệt sanh tử.
Nay mẹ muốn nghe pháp,
Các con nên im lặng.”
Khi ấy Uất-đa-la,
Và Phú-na-bà-tẩu.
Đều vâng lời mẹ chúng,
Im lặng mà lắng nghe.
“Lời mẹ nói hay thay,
Con cũng thích nghe pháp.
Thế Tôn chánh giác này,
Ở Thắng sơn Ma-kiệt;
Vì các loài chúng sanh,
Diễn nói pháp vượt khổ.
Nói khổ cùng nhân khổ,
Khổ diệt, đạo diệt khổ;
Từ bốn Thánh đế này,
An ổn đến Niết-bàn.
Vậy mẹ hãy lắng nghe,
Những pháp Thế Tôn thuyết.”
Khi ấy quỷ mẹ Phú-na-bà-tẩu liền nói kệ:
“Lạ thay, con trí tuệ,
Khéo hay chìu tâm ta.
Con Phú-na-bà-tẩu,
Khéo khen Phật Đạo Sư.
Con Phú-na-bà-tẩu,
Cùng con Uất-đa-la;
Nên sanh lòng tùy hỷ,
Ta đã thấy Thánh đế.”

Sau khi, quỷ mẹ Phá-na-bà-tẩu nói kệ xong, quỷ con trai và con gái, tùy hỷ im lặng.

KINH 1323. MA-NI-GIÁ-LA[98]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại nước Ma-kiệt-đề, du hành trong nhân gian cùng với đại chúng, đến nghỉ đêm tại trú xứ của quỷ Ma-ni-giá-la[99]. Bấy giờ, quỷ Ma-ni-giá-la hội các quỷ thần, tập hợp lại một chỗ. Khi ấy có một người nữ đem hương hoa trang sức và đồ ăn thức uống đến chỗ ở quỷ thần Ma-ni-giá-la kia. Người nữ này từ xa trông thấy Thế Tôn ngồi tại trú xứ quỷ Ma-ni-giá-la; thấy rồi tự nghĩ: ‘Nay ta đang thấy quỷ thần Ma-ni-giá-la’, liền nói kệ:

Lành thay! Ma-ni-giá,
Ở nước Ma-già-đà;
Dân nước Ma-già-đà,
Cầu gì đều như nguyện.
Làm sao ở đời này,
Thường được sống an lạc;
Còn đời sau thế nào,
Mà được sanh Thiên lạc?
Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ đáp:
Chớ buông lung, kiêu mạn;
Cần gì quỷ Ma-ni?
Nếu tự sửa việc làm,
Thì được sanh Thiên lạc.

Khi ấy người nữ kia tự nghĩ: ‘Đây không phải là quỷ Ma-ni-giá-la mà là Sa-môn Cù-đàm.’ Biết như vậy rồi, liền đem hương hoa trang sức cúng dường Thế Tôn, đảnh lễ dưới chân, ngồi lui qua một bên, nói kệ:

Đường nào đến an lạc,
Phải tu những hành gì;
Đời này thường an ổn,
Đời sau sanh Thiên lạc?
Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ đáp:
Khéo điều tâm, bố thí,
Thích giữ gìn các căn;
Chánh kiến tu hạnh hiền,
Gần gũi với Sa-môn.
Tự sống bằng chánh mạng,
Đời khác sanh Thiên lạc;
Đâu cần Tam thập tam,
Lưới khổ của chư Thiên.
Chỉ cần nhất tâm kia,
Đoạn trừ nơi ái dục.
Ta sẽ nói lìa cấu,
Pháp cam lộ khéo nghe.

Người nữ ấy nghe Phật thuyết pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, làm cho hoan hỷ; những pháp như bố thí, trì giới, phước báo sanh Thiên, vị ngọt của dục, tai hại của dục, phiền não, thanh tịnh, xuất yếu, viễn ly, công đức phước lợi, tiếp tục diễn nói pháp Phật thanh tịnh. Giống như tấm vải trắng sạch dễ nhuộm màu, người nữ kia cũng vậy, ngay trên chỗ ngồi đắc bình đẳng quán[100]: Khổ, Tập, Diệt, Đạo đối với bốn Thánh đế. Lúc đó, người nữ này đắc pháp, thấy pháp, biết pháp và nhập pháp, vượt qua các nghi hoặc, không do người khác, đối với Chánh pháp luật được vô sở uý, liền từ chỗ ngồi đứng dậy sửa lại y phục, chắp tay bạch Phật:

“Con đã được độ, bạch Thế Tôn! Con đã được độ, bạch Thiện Thệ! Từ hôm nay cho đến suốt đời quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tỳ-kheo Tăng.”

Sau khi người nữ ấy nghe những gì Phật nói, hoan hỷ, tùy hỷ, lễ Phật rồi ra về.

KINH 1324. CHÂM MAO QUỶ[101]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại nước Ma-kiệt-đề, du hành trong nhân gian, đến nghỉ đêm tại trú xứ quỷ Châm Mao[102]. Bấy giờ, quỷ Châm Mao hội họp hết các quỷ thần lại một chỗ. Lúc đó có Viêm quỷ[103], thấy Thế Tôn nghỉ đêm tại trú xứ quỷ Châm Mao. Thấy rồi, liền đến chỗ quỷ Châm Mao nói với quỷ Châm Mao:

“Thưa thôn chủ, nay ông được nhiều may mắn. Hiện tại Đức Như Lai Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác đang nghỉ tại nhà ông.”

Quỷ Châm Mao nói:

“Bây giờ, thử xem có đúng là Như Lai hay chẳng phải!”

Khi ấy, quỷ Châm Mao sau khi cùng các quỷ thần hội họp, trở về ngôi nhà của mình. Nó co mình lại xông tới Phật. Bấy giờ, Đức Thế Tôn liền tránh người. Ba lần nó co mình lại xông tới Phật như vậy, Đức Phật cũng ba lần tránh người. Khi ấy, quỷ Châm Mao hỏi:

“Sa-môn sợ ư?”

Phật bảo:

“Này thôn chủ, Ta không sợ! Nhưng ngươi có ác xúc.”[104]

Quỷ Châm Mao nói:

“Bây giờ, tôi có vài điều để hỏi. Mong vì tôi mà trả lời. Nếu có thể làm tôi vui thì tốt, còn nếu không thể làm tôi vui thì tôi sẽ hủy hoại tâm ông, phá vỡ ngực ông, làm cho máu nóng của ông từ mặt vọt ra, nắm hai tay ông ném qua bờ bên kia sông Hằng.”

Phật bảo quỷ Châm Mao:

“Thôn chủ, Ta không thấy chư Thiên, Ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn, Thiên thần, Người đời nào, có thể hủy hoại tâm của Như Lai, Đẳng Chánh Giác, có thể phá vỡ ngực Ta, có thể làm cho máu nóng từ mặt vọt ra, nắm hai tay của Ta ném qua bờ bên kia sông Hằng. Nay, ông cứ hỏi đi, Ta sẽ vì ông mà nói, khiến cho ông được hoan hỷ.”

Bấy giờ, quỷ Châm Mao nói kệ hỏi Phật:

Hết thảy tâm tham, nhuế,
Lấy gì để làm nhân?
Không vui, lông dựng đứng,
Sợ hãi từ đâu sanh?
Ý niệm các giác tưởng,
Khởi lên từ chỗ nào;
Giống như trẻ mới sanh,
Nương nhờ vào vú mẹ?[105]
Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ đáp:
Ái sanh, lớn từ thân,
Như cây Ni-câu-luật;
Chằng chịt câu móc nhau,
Như dây leo rừng rậm.[106]
Nếu biết những nhân kia,
Sẽ khiến quỷ giác ngộ;
Vượt dòng biển sanh tử,
Không còn tái sanh nữa.

Bấy giờ, quỷ Châm Mao nghe Phật nói kệ, tâm được vui vẻ, sám hối Phật và xin thọ trì tam quy.

Phật nói kinh này xong, quỷ Châm Mao nghe những gì Phật nói, hoan hỷ, phụng hành.




CHÚ THÍCH

[1]. Đại Chánh quyển 49, Ấn Thuận, 25. Tương ưng Chư thiên tiếp theo. Kinh 1294, biệt dịch, №100(291).

[2]. Biệt dịch, №100(293).

[3]. Biệt dịch, №100(294).

[4]. Câu-lũ-đà vương nữ Tu-ba-la-đề-sa 拘屢陀王女修波羅提沙. №100(294): Tu-đa-mật-xa-cứ-đà 須多蜜奢锯陀. Không rõ Pāli.

[5]. Biệt dịch, №100(295).

[6]. Cf. №100(295): “Thế nào tự tính toán, không bị phiền não che? Thế nào được gọi là vĩnh viễn lìa các số?”

[7]. Biệt dịch, №100(296).

[8]. Biệt dịch, №100(297).

[9]. S. 10. 1. Indaka; biệt dịch, №100(298).

[10]. Pāli: rūpaṃ na jīvanti vadanti buddhā, kathaṃ nvayaṃ vindatimaṃ sarīraṃ, “Chư Phật không nói mạng (jīva) là sắc, nhưng tại sao mạng có nơi thân này?”

[11]. Pāli: kathaṃ nvayaṃ sajjati gabbasmiṃ, làm sao trú trong thai?

[12]. Ca-la-la 迦羅邏 . Pāli: kalala, phôi mới kết.

[13]. Bào 胞. Pāli: abudda, phôi bào.

[14]. Biệt dịch, №100(300).

[15]. Trường Thắng 長勝. №100(300), Tối Thắng trưởng giả 最勝長者.

[16]. S. 2. 21. Siva; №100(901). Tức thần Siva của Ấn độ giáo.

[17]. Thi-tì thiên tử 尸毘天子. Pāli: Sivo devaputto.

[18]. Nguyên bản: đồng chỉ 同止. Bản Thánh: đồng tâm 同心.

[19]. Pāli: Sabbhireva samāsetha, hãy ngồi chung với người thiện lương.

[20]. S. 2. 11. Candimasa; №100(302).

[21]. Nguyệt Tự Tại thiên tử 月自在天子. Pāli: Candimaso devaputto, chỉ thần mặt trăng.

[22]. Pāli: te hi sotthiṃ gamissanti, kacche vāmakase magā, “họ sẽ đi đến chỗ an ổn, như những con nai trên đồng cỏ không muỗi. Bản Hán hiểu ngược: có muỗi.

[23]. Pāli: Jhānāni upasampajja, ckodi nipakā satā, chứng nhập các thiền, chuyên tâm nhất cảnh.

[24]. S. 2. 12. Veṇḍu; №100(303).

[25]. Tỳ-sấu-nữu 毘瘦紐. Pāli: Veṇḍu devaputto, tức thần Viṣṇu của Ấn độ giáo.

[26]. S. 2. 7. Pañcālacaṇḍa; №100(304).

[27]. Ban-xà-la-kiện 般闍羅揵. Pāli: Pañcālacaṇḍa.

[28]. S. 2. 29. Susīma; №100(305).

[29]. Tu-thâm thiên tử 須深天子. Pāli: Susīmo devaputto.

[30]. Tán thán trí tuệ của Xá-lợi-phất: tiệp tật trí tuệ, lợi trí tuệ, xuất ly trí tuệ, quyết định trí tuệ, đại trí tuệ, quảng trí tuệ, thâm trí tuệ, vô đẳng trí tuệ, trí bảo thành tựu 捷疾智慧.利智慧.出離智慧.決定智慧.大智慧.廣智慧.深智慧.無等智慧.智寶成就. Pāli: paṇḍito, mahāpañño, putthupañño, hāsapañño, javanapañño, tikkhapañño, nibbedikapañño.

[31]. Nguyên Hán: bất khởi Niết-bàn 不起涅槃 .

[32]. S. 2. 26. Rohita; №100(306).

[33]. Xích Mã 赤馬 . Pāli: Rohitassa.

[34]. Đương lai hữu ái 當來有愛; tham ái về sự tồn tại trong tương lai, cùng tồn tại với hỷ tham. ước muốn sẽ sanh chỗ này hay chỗ kia trong tương lai.

[35]. S. 2. 30. Nānātitthiyā.

[36]. Các Thiên thần: 阿毘浮.增上阿毘浮.能求.毘藍婆.阿俱吒.迦藍. Danh sách Pāli: Asamo, Sahali, Nìko, Ākoṭako, Vegabbhari, Māṇavagāmiyo.

[37]. Ni-càn Nhã-đề Tử 尼乾若提子.

[38]. S. 2. 3. Māgha.

[39]. Ma-già 摩伽. Pāli: Māgho devaputto.

[40]. S. 2. 4. Màgadha.

[41]. Di-kỳ-ca 彌耆迦 . Pāli: Māgadho devaputto.

[42]. Pāli: cattāro loke pajjotā, pañcamettha na vijjati, có bốn loại chiếu sáng trong thế gian. Không có loại thứ năm.

[43]. S. 2. 5. Dàmali.

[44]. Đà-ma-ni 陀摩尼. Pāli: Dāmani.

[45]. S. 1. 5. Katichinda; №100(311).

[46]. Đa-la-kiền-đà 多羅揵陀陀.

[47]. Pāli: kati saṅgā tigo, vượt qua bao nhiêu sự kết buộc?

[48]. Sớ giải Pāli (A.1.24): Pañca chindeti chindanto pañca orambhāgiyasaṃyojānāni chindeyya, đoạn năm, là đoạn trừ năm hạ phần kết.

[49]. Sớ giải Pāli, nt: Pañca jaheti jahanto pañcuđham bhāgiyasaṃyojānāni jaheyya, xả năm, là xả năm thuận thượng phần kết.

[50]. Sớ giải Pāli, nt: tu tập năm căn, tín v.v...

[51]. Sớ giải Pāli, nt: Pañca saṅgātigoti rāgasaṅgo dosasaṅgo mohasaṅgo mānasaṅgo diṭṭhisaṅgo, năm kết phược: tham kết phược, sân, si, mạn và kiến kết phược.

[52]. S.2. 6. Kāmada; №100(312).

[53]. Ca-ma 迦 ? . Pāli: Kāmado devaputto.

[54]. Pāli: dukkaraṃ vāpi karonti sekkhā sīlasamāhitā, bậc hữu học mà y giới là làm điều khó làm.

[55]. Pāli: dullabhā bhagavā yadidaṃ tuṭṭhī ti, thật khó được, là sự tri túc. Bản Hán đọc là tuṇhī, sự im lặng (tịch mặc), thay vì tuṭṭhi, sự thoả mãn, tri túc.

[56]. Pāli: dussamādahaṃ bhagavā yadidaṃ cittan ti, tâm thật là khó định tĩnh.

[57]. Tham chiếu kinh 1324. S. 10. 3. Suciloma; №100(313).

[58]. Bản Pāli: kharo ca yakkho sūcilomo ca yakkho, dạ-xoa Khara và dạ-xoa Sūciloma (quỷ lông kim).

[59]. Giác tưởng 覺想. Pāli: manovitakka, sự suy tưởng tầm cầu của tâm.

[60]. Cưu-ma-la 鳩摩羅; Pāli: kumārakā, trẻ nhỏ. Bản Hán hiểu là tên người.

[61]. Pāli: kumārakā dhaṅkam ivossajanti, như trẻ nhỏ thả chim bồ câu. Trẻ nhỏ buộc chân chim lại, rồi mới thả bay đi. Chim bay lên, phút chốc rơi trở lại. Cũng vậy, ác tầm cầu buông thả tâm khiến khởi lên (Sớ giải, SA. 1.303).

[62]. Pāli: snehajā attasambhūtā, nigrodhasseva khandhajā, sanh ra từ sự kết dính (= tham ái), khởi lên từ tự ngã, như cây nigrodha (cây bàng) sanh ra từ thân cây.

[63]. Pāli: puthū visattā kāmesu, māluvāva vitatā vane, phàm phu bị dính mắc trong các dục vọng, như dây leo bò lan khắp rừng.

[64]. S. 2. 14. Nandana; №100(314).

[65]. Chiên-đàn thiên tử 栴檀天子. Xem kinh 1316. Pāli: Nandana-devaputta. Bản Hán đọc là Candana.

[66]. S. 2. 15. Candana; №100(315).

[67]. Xem cht.65 trên. Pāli: Candana.

[68]. Pāli: so gambīre na sīdati, người ấy không chìm chỗ nước sâu.

[69]. S. 2. 1, 2. Kassapa (1, 2). №100(316-317).

[70]. Ca-diếp thiên tử 迦葉天子. Pāli: Kassapo devaputto.

[71]. Thân 身; bản Thánh: tâm 心.

[72]. Nguyên bản: hoại 壞. Bản Thánh: hoài 懷.

[73]. Xem kinh 1317. №100(318).

[74]. Ấn Thuận, “Tụng v. Bát chúng, 26. Tương ưng Dạ-xoa”; Đại Chánh kinh 1319-1330. –Kinh 1319, Pāli: S. 10. 4. Maṇibhadda.

[75]. Khuất-ma Dạ-xoa quỷ trú xứ 屈摩夜叉鬼住處. Pāli: Maṇimālike cetiye Maṇibhaddassa yakhassa bhavane, tại trú xứ của Dạ-xoa Maṇibhadda, trong tháp Maṇimālika.

[76]. Khuất-ma dạ xoa quỷ 屈摩夜叉鬼 . Pāli: Maṇibhadda, quỷ bảo hộ những người lữ hành.

[77]. Cf. Udāna 1. 7. Pāṭalī; №100(319). Tham chiếu, Luật Tứ Phần, Ba-dật-đề 55.

69. Ma-cưu-la sơn 摩鳩羅山. 100(319): Bạch sơn 白山.

[79]. Na-già-ba-la 那伽波羅. №100(319): 象護. Pāli: Nāgapāla, nhưng không tìm thấy tên này trong các tài liệu Pāli.

[80]. Ma-cưu-la quỷ 摩鳩羅鬼. №100(319): Bạc-câu-la quỷ 薄俱羅鬼. Pāli: Bakkula, con quỷ có tiếng kêu dễ sợ, Ud 1.7.

[81]. Câu-chấp 俱執; Pāli: kojava, chăn bằng lông dê.

[82]. Tỳ-xá-già 毘舍遮. Pāli: pisāca.

[83]. Pāli, Ud.1.7: atha etaṃ pisācañca pakkulañcativattati, ở đây vị ấy đã vượt qua quỷ Pisāca và tiếng kêu “pakkula”. QuỷAjakalāpaka muốn dọa Phật nên phát ra âm thanh dễ sợ “akkulapakkula”.

[84]. S.10. 6. Piyaṅkara. №100(32).

[85]. Tất-lăng-già quỷ tử mẫu 畢陵伽鬼子母. №100(320): Tân-già-la 賓伽羅. Pāli: Piyaṅkaramātā, mẹ của quỷ con Piyaṅkara.

[86]. Ưu-đà-na 憂陀那; Pāli: Udāna, Vô vấn tự thuyết hay Kệ cảm hứng, các kinh thuộc Tiểu bộ Khuddaka-nikāya.

[87]. Ba-la-diên-na 波羅延那. Pāli: Pārāyana-vagga (phẩm Đáo bỉ ngạn), phẩm thứ 5 trong Suttanipāta, thuộc Tiểu bộ Khuddaka-Nikāya.

[88]. Kiến chân đế 見真諦 .

[89]. Thượng tọa sở thuyết kệ 上座所說偈. Pāli: Thera-gāthā, Trưởng lão kệ, sách thứ 8 thuộc Tiểu bộ Khuddaka-nikāya.

[90]. Tỳ-kheo-ni sở thuyết kệ 比丘尼所說偈. Pāli: Theri-gāthā; sách thứ 9, thuộc Khuddaka-nikāya.

[91]. Thi-lộ kệ 尸路偈.

[92]. Nghĩa phẩm 義品. Pāli: Atṭṭhaka-vagga, phẩm thứ tư của Suttanipāta.

[93]. Mâu-ni kệ 牟尼偈. Pāli: Muni-gāthā, tức Muni-sutta, trong Suttanipāta 1. 12, các kệ 207-221.

[94]. Pāli: pisāca-yoni, sanh đạo loài quỷ.

[95]. S. 10. 7. Punabbasu.

[96]. Phú-na-bà-tẩu quỷ tử mẫu 富那婆藪鬼子母. Pāli: Punabbasumātā, mẹ của quỷ con Punabbasa.

[97]. Uất-đa-la 鬱多羅. Pāli: Uttarā.

[98]. Biệt dịch, №100(322).

[99]. Ma-ni-giá-la quỷ 摩尼遮羅鬼. №100(322): Ma-ni hành dạ xoa 摩尼行夜叉. Pāli: Mānica-yakkha, Cf. D.iii. 205. Theo các bản Hán: Mānicara.

[100]. Bình đẳng quán 平等觀. Đây chỉ hiện quán 現觀 .

[101]. S. 10. 3. Sūciloma; №100(323).

[102]. Châm Mao quỷ 針毛鬼 . №100(323): Tiễn Mao dạ xoa 箭毛夜叉. Pāli: Sūciloma, quỷ có lông như kim.

[103]. Viêm quỷ 炎鬼 . №100(323): Chích dạ xoa 炙夜叉. Pāli: Kharo yakkho.

[104]. Pāli: te samphasso pāpako ti, “xúc chạm với ngươi là điều tai ác”.

[105]. Xem kinh 1314.

[106]. Xem kinh 1314, các cht. 61-63.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567