Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tạp A-hàm quyển 44 (1189 - 1197)

09/05/201311:23(Xem: 14882)
Tạp A-hàm quyển 44 (1189 - 1197)

Kinh Tạp A Hàm

Tạp A-hàm quyển 44 (1189 - 1197)

Tỳ kheo Thích Đức Thắng

Nguồn: Việt dịch: Thích Đức Thắng
Hiệu đính & Chú thích: Tuệ Sỹ

KINH 1189. PHẠM THIÊN (1)[39]

Tôi nghe như vầy:

Một thời Đức Phật ở dưới gốc cây bồ-đề, bên sông Ni-liên-thiền, tại tụ lạc Uất-bề-la, thành đạo chưa bao lâu.

Bấy giờ, Thế Tôn, một mình yên tĩnh tư duy như vầy:

“Có nhất thừa đạo[40] có thể làm cho chúng sanh thanh tịnh, thoát mọi ưu bi, diệt trừ khổ não và được pháp chân như[41]. Đó là bốn Niệm xứ. Những gì là bốn?

“Đó là niệm xứ quán thân trên thân, niệm xứ quán thọ, tâm, pháp trên pháp. Nếu có người nào không thích bốn Niệm xứ thì sẽ không thích Thánh pháp như[42]. Không thích Thánh pháp như thì sẽ không thích Thánh đạo như[43]. Không thích Thánh đạo như thì sẽ không thích pháp cam lộ. Không thích pháp cam lộ thì sẽ không giải thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết, ưu, bi, khổ, não.

“Nếu người nào thích tu bốn Niệm xứ thì sẽ thích tu Thánh pháp như. Thích tu Thánh pháp như thì sẽ thích Thánh đạo như. Thích Thánh đạo như thì sẽ thích pháp cam lộ. Thích pháp cam lộ thì được giải thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết, ưu, bi, khổ, não.”

Bấy giờ, Phạm thiên vương, chúa của thế giới Ta-bà, biết được tâm niệm của Phật rồi, nhanh như lực sĩ co duỗi cánh tay biến mất khỏi cõi trời và hiện đứng trước Phật, tán thán rằng:

“Đúng vậy, bạch Thế Tôn! Đúng vậy, bạch Thiện Thệ! Có nhất thừa đạo có thể làm cho chúng sanh thanh tịnh. Đó là bốn Niệm xứ,… cho đến giải thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết, ưu, bi, khổ, não.”

Lúc ấy, Phạm thiên vương lại nói kệ:

Rằng có nhất thừa đạo,
Thấy đoạn tận hữu biên[44];
Diễn nói về Chánh pháp,
An ủi chúng sanh khổ.
Chư Thế Tôn quá khứ,
Nương đạo này vượt qua;
Chư Thế Tôn vị lai,
Cũng nương đạo này qua.
Đấng Chánh Giác hiện tại,
Nương đây qua biển cả,
Rốt ráo mé sanh tử,
Điều phục tâm thanh tịnh.
Đối sanh tử lưu chuyển,
Đều đã dứt hết hẳn.
Biết tất cả cảnh giới,
Tuệ nhãn tỏ Chánh đạo.
Thí như nước sông Hằng,
Đều chảy về biển lớn;
Dòng nước siết trôi xa,
Chánh đạo cũng như vậy.
Trí rộng khéo hiển bày,
Mau được pháp cam lộ;
Xe Chánh pháp thù thắng,
Vốn chưa từng được nghe.
Vì thương xót chúng sanh,
Nên chuyển vì chúng sanh;
Che chở chúng trời, người,
Khiến đưa qua bờ kia.
Cho nên các chúng sanh,
Đều cúi đầu đảnh lễ.

Sau khi Phạm thiên vương nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ, tùy hỷ cúi đầu lễ dưới chân Phật rồi biến mất.

KINH 1190. PHẠM CHÚA[45]

Tôi nghe như vầy:

Một thời Đức Phật ở dưới gốc cây bồ-đề, bên sông Ni-liên-thiền, tại tụ lạc Uất-bề-la[46], thành đạo chưa bao lâu.

Bấy giờ, có Phạm thiên vương, chúa của thế giới Ta-bà[47], với sắc thân tuyệt diệu, vào lúc cuối đêm, đến chỗ Phật, cúi đầu lễ dưới chân Phật, ngồi lui qua một bên, nói kệ:

Ở trong các chủng tánh,
Lưỡng túc tôn Sát-lợi[48];
Bậc Minh Hạnh đầy đủ,
Tối thắng trong loài người.
Phật đáp:

“Đúng vậy, Phạm thiên! Đúng vậy, Phạm thiên!

Ở trong các chủng tánh,
Lưỡng túc tôn Sát-lợi;
Bậc Minh Hạnh đầy đủ,
Tối thắng trong loài người.

Phật nói kinh này xong, Phạm thiên vương chủ thế giới Ta-bà nghe những gì Phật nói, hoan hỷ, tùy hỷ cúi đầu lễ dưới chân Phật rồi biến mất.

KINH 1191. KHÔNG NHÀN XỨ[49]

Tôi nghe như vầy:

Một thời Đức Phật ở tại Câu-tát-la, du hành trong nhân gian, dừng nghỉ nơi thanh vắng không có tụ lạc[50], cùng với các Tỳ-kheo nghỉ đêm tại đó. Bấy giờ, Thế Tôn vì các Tỳ-kheo nói pháp tùy thuận A-lan-nhã.

Khi ấy Phạm thiên vương, chủ thế giới Ta-bà tự nghĩ rằng: “Hôm nay Thế Tôn đang ở tại Câu-tát-la, du hành trong nhân gian và dừng nghỉ nơi thanh vắng không có tụ lạc, cùng với các Tỳ-kheo nghỉ đêm tại nơi hoang vắng đó. Bấy giờ, Thế Tôn đã vì đại chúng nói pháp tùy thuận không[51]. Bây giờ, ta nên đến tùy thuận mà tán thán.” Nghĩ vậy xong, nhanh như lực sĩ co duỗi cánh tay, biến mất khỏi cõi trời và hiện đứng trước Phật, cúi đầu lễ dưới chân Phật, rồi ngồi lui qua một bên, mà nói kệ:

Quen chỗ ngồi biên địa[52],
Đoạn trừ các phiền não;
Nếu không thích rừng vắng,
Nhập chúng, hãy phòng hộ.
Tự điều phục tâm mình,
Đi xin ăn từng nhà;
Nên giữ gìn các căn,
Chuyên tinh nhiếp tâm niệm.
Sau tập quen rừng vắng,
Ngồi nơi a-luyện-nhã;
Xa lìa các sợ hãi,
Trụ an ổn không sợ.
Nếu có các hung hiểm,
Rắn dữ, mọi độc hại;
Mây đen, lắm tối tăm,
Sấm sét lóe sáng ngời;
Thì nhờ lìa phiền não,
Nên ngày đêm an ổn.
Như pháp con đã nghe,
Cho đến không cứu cánh.
Một mình, tu phạm hạnh,
Không sợ ngàn ma chết.
Nếu tu hành giác đạo,
Cả vạn chẳng sợ chi.
Tất cả Tu-đà-hoàn,
Hoặc đắc Tư-đà-hàm;
Cùng với A-na-hàm,
Số này cũng vô lượng.
Không thể tính số được,
Sợ người bảo: nói dối.

Sau khi Phạm thiên vương, chủ thế giới Ta-bà nghe những gì Phật nói, hoan hỷ, tùy hỷ, làm lễ Phật rồi biến mất.

KINH 1192. TẬP HỘI[53]

Tôi nghe như vầy:

Một thời Đức Phật ở tại rừng Ca-tỳ-la-vệ, ở Ca-tỳ-la-vệ[54], cùng với năm trăm Tỳ-kheo, đều là những bậc A-la-hán, sạch hết phiền não, việc làm đã xong, lìa các gánh nặng, đã được lợi mình, hết mọi hữu kết, chánh trí, tâm khéo giải thoát.

Bấy giờ, Thế Tôn vì đại chúng nói pháp tương ưng Niết-bàn. Khi ấy có đại chúng chư Thiên oai lực từ mười phương thế giới, đều đến câu hội, cúng dường Thế Tôn và các Tỳ-kheo Tăng. Lại có các Phạm thiên vương ở tại Phạm thế tự nghĩ rằng: “Hôm nay Phật đang trú tại Ca-tỳ-la-vệ, … nói đầy đủ như trên, cho đến cúng dường Thế Tôn và đại chúng. Bấy giờ, chúng ta nên đến đó tán thán.” Nghĩ vậy rồi, nhanh như lực sĩ co duỗi cánh tay, biến mất khỏi cõi trời và hiện đứng trước Phật.

Phạm thiên thứ nhất nói kệ:

Ở trong rừng lớn này,
Đại chúng đều vân tập;
Chúng chư Thiên mười phương,
Tất cả đến cung kính.
Từ xa con đến lễ,
Tăng nan phục, tối thắng[55].
Phạm thiên thứ hai lại nói kệ:
Chư Tỳ-kheo Tăng này,
Tinh tấn, tâm chân thật;
Ở trong rừng lớn này,
Cầu độ, nhiếp các căn.
Phạm thiên thứ ba nói kệ tiếp:
Khéo phương tiện tiêu dung
Ân ái sâu, gai nhọn;
Kiên cố không dao động,
Như phướn Nhân-đà-la[56].
Vượt dòng nước hào sâu,
Thanh tịnh không cầu dục;
Đấng Đại Sư khéo độ
Các Rồng chúa đã thuần.
Phạm thiên thứ tư nói kệ tiếp:
Ai quy y nơi Phật,
Quyết không đọa đường ác;
Đã dứt thân làm người,
Được thân trời thọ lạc.

Mỗi vị nói kệ xong, bốn Phạm thiên liền biến mất.

KINH 1193. CÙ-CA-LÊ[57]

Tôi nghe như vầy:

Một thời Đức Phật ở trong vườn Trúc, khu Ca-lan-đà, thành Vương xá. Bấy giờ, có Phạm thiên vương, chủ thế giới Ta-bà, hằng ngày tinh cần đến chỗ Phật tôn kính cúng dường. Bấy giờ chủ thế giới Ta-bà nghĩ: “Sáng nay đến gặp Thế Tôn quá sớm. Chắc Thế Tôn còn đang nhập đại định. Ta hãy đến phòng Tỳ-kheo Cù-ca-lê[58], bạn đảng của Đề-bà-đạt-đa.” Nghĩ rồi, liền đến trước phòng Cù-ca-lê gõ cửa và nói rằng:

“Cù-ca-lê, nên khởi lòng tin thanh tịnh nơi Tôn giả Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên. Người chớ để chịu khổ lâu dài, không lợi ích.”

Cù-ca-lê nói:

“Ông là ai?”

Phạm thiên đáp:

“Phạm thiên vương, chủ thế giới Ta-bà.”

Cù-lê-ca nói:

“Thế Tôn không thọ ký cho ông đắc A-na-hàm phải không?”

Phạm thiên vương nói:

“Đúng vậy, Tỳ-kheo!”

Cù-lê-ca nói:

“Cớ gì ông đến đây?”

Phạm thiên vương, chủ thế giới Ta-bà nghĩ: “Người này, không thể trị”, liền nói kệ:

Ở nơi bậc Vô lượng,
Sanh lòng muốn ước lượng:
Có người trí tuệ nào,
Lại sanh giác tưởng này?
Muốn lường bậc khôn lường:
Phàm phu bị che tối.[59]

Bấy giờ, Phạm thiên vương, chủ thế giới Ta-bà đến chỗ Phật, cúi đầu lễ dưới chân, ngồi lui qua một bên, bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, hằng ngày con thường siêng đến chỗ Phật gần gũi cúng dường. Con nghĩ rằng sáng nay đến gặp Thế Tôn còn quá sớm, chắc Thế Tôn còn đang nhập đại định, con bèn đến phòng Tỳ-kheo Cù-ca-lê bạn đảng của Đề-bà-đạt-đa, liến đứng trước phòng từ từ gõ cửa và nói rằng:

“Cù-ca-lê! Cù-ca-lê! Nên khởi lòng tin thanh tịnh nơi Tôn giả Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên là người trí tuệ, hiền thiện. Người chớ chịu khổ lâu dài, không lợi ích. Cù-ca-lê nói: ‘Ông là ai?’ Con liền đáp: ‘Phạm thiên vương, chủ thế giới Ta-bà.’ Cù-lê-ca nói: ‘Thế Tôn không thọ ký cho ông đắc A-na-hàm phải không?’ Con liền đáp: ‘Đúng vậy! Cù-ca-lê.’ Lại nói: ‘Cớ gì ông đến đây?’ Con tự nghĩ: ‘Người này, không thể trị’, liền nói kệ:

Ở nơi không thể lường,
Muốn sanh lòng tính toán;
Đem vô lượng, muốn lường,
Là che lấp phàm phu.
Phật bảo Phạm thiên:
“Đúng vậy! Đúng vậy! Phạm thiên.”
Ở chỗ không thể lường,
Muốn khởi tâm suy lường;
Có người trí tuệ nào,
Mà sanh vọng tưởng này.
Không thể lường, muốn lường,
Là che lấp phàm phu.”

Phật nói kinh này xong, Phạm thiên vương, chủ thế giới Ta-bà nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ, tùy hỷ, từ chỗ ngồi đứng dậy lễ Phật, rồi biến mất.

KINH 1194. PHẠM THIÊN (2)[60]

Tôi nghe như vầy:

Một thời Đức Phật ở trong vườn Trúc, khu Ca-lan-đà, thành Vương xá. Bấy giờ, Đại Phạm thiên vương và các Biệt Phạm thiên[61] khác cùng với Thiện Tí biệt Phạm thiên[62], hằng ngày dùng phương tiện đến gặp và cúng dường Thế Tôn. Khi ấy có Bà-cú Phạm thiên[63] thấy Biệt Phạm thiên và Thiện Tí Phạm thiên tinh cần phương tiện như vậy bèn hỏi:

“Các ông muốn gì?”

Họ liền đáp:

“Muốn gặp Thế Tôn cung kính cúng dường.”

Lúc ấy, Phạm thiên Bà-cú liền nói kệ:

Kia bốn loại ngỗng trời[64],
Ba cung điện sắc vàng[65];
Năm trăm bảy mươi hai,
Người tu hành thiền tư.
Thân sắc vàng rực rỡ[66],
Chiếu khắp cung Phạm thiên;
Ông hãy nhìn thân ta,
Cần đến đó làm gì?
Khi ấy, Thiên Phạm vương, Biệt Phạm vương và Thiện Tí biệt Phạm vương lại nói kệ:
Tuy có thân sắc vàng,
Chiếu khắp cung Phạm thiên;
Vị có trí tuệ này,
Biết sắc có phiền não.
Người trí không đắm sắc,
Nên tâm được giải thoát.

Bấy giờ, Thiện Phạm thiên[67], Biệt Phạm thiên, Thiện Tí biệt Phạm thiên đến chỗ Phật, cúi đầu lễ dưới chân Phật, ngồi lui qua một bên, bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, chúng con phương tiện muốn đến gặp Thế Tôn, cung kính cúng dường, có Bà-cú Phạm thiên thấy chúng con phương tiện như vậy nên đến hỏi chúng con rằng: ‘Hôm nay quý vị muốn phương tiện đi đâu?’ Chúng con liền đáp, ‘Muốn đến gặp Thế Tôn, lễ bái cúng dường.’ Bà-cú Phạm thiên liền nói kệ:

Kia bốn loại ngỗng trời[68]
Ba cung điện sắc vàng;
Năm trăm, bảy mươi hai[69],
Người tu hành thiền tư.
Thân sắc vàng rực rỡ,
Chiếu khắp cung Phạm thiên;
Ông hãy nhìn thân ta,
Cần đến đó làm gì?
Chúng con nói kệ đáp lại:
Tuy có thân sắc vàng,
Chiếu khắp cung Phạm thiên;
Vị có trí tuệ này,
Biết sắc có phiền não.
Người trí không đắm sắc,
Nên tâm được giải thoát.
Phật bảo Phạm thiên:

“Đúng vậy, Phạm thiên! Đúng vậy, Phạm thiên!

Tuy có thân sắc vàng,
Chiếu khắp cung Phạm thiên;
Nên biết sắc vàng ròng,
Đó là tướng phiền não.
Người trí giải thoát sắc,
Đối sắc không còn ưa.

Khi ấy những vị Phạm thiên kia vì Tỳ-kheo Ca-tra-vụ-đà-đê-sa[70] mà nói kệ:

Người sanh ở thế gian,
Búa bén ở trong miệng;
Trở lại chặt thân mình,
Do những ác ngôn này:
Điều đáng chê lại khen,
Điều đáng khen lại chê;
Ác khẩu tăng thêm lỗi,
Đời sống không an vui.
Cờ bạc, rượu tán tài,
Lỗi này còn quá nhẹ;
Ác tâm đối Thiện Thệ,
Đó là tội rất nặng.
Có trăm ngàn địa ngục,
Tên Ni-la-phù-đà[71];
Ba ngàn sáu trăm ngục,
Và năm A-phù-đà[72].
Chúng là ngục báng Phật,
Do ác nguyện miệng, ý.

Phật nói kinh này xong, các Phạm thiên kia nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ, tùy hỷ cúi đầu lễ dưới chân Phật, rồi biến mất.

KINH 1195. BÀ-CÚ PHẠM[73]

Tôi nghe như vầy:

Một thời Đức Phật ở trong vườn Trúc, khu Ca-lan-đà, thành Vương xá.

Bấy giờ, có Bà-cú Phạm thiên[74] ở trên cõi Phạm thiên khởi ác tà kiến, nói rằng:

“Chỗ này thường hằng, không phải là pháp biến dịch, là nơi thuần nhất, là chỗ xuất ly.”

Bấy giờ, Thế Tôn biết tâm niệm của Bà-cú Phạm thiên rồi, nhập tam-muội, với chánh thọ như vậy, biến mất khỏi thành Vương xá và hiện ra nơi cõi Phạm thiên. Bà-cú Phạm thiên xa thấy Thế Tôn, liền nói kệ:

Phạm thiên, bảy mươi hai:
Tạo tác các phước nghiệp[75];
Tự tại mà thường trụ,
Đã khỏi sanh, già, chết.
Tôi đối các Minh luận[76],
Đã tu tập rốt ráo.
Trong hàng chư Thiên kia,
Chỉ có tôi trường tồn.
Bấy giờ, Phật nói kệ đáp:
Đời sống này rất ngắn,
Không phải là trường tồn;
Mà Bà-cú Phạn thiên,
Tự bảo là sống lâu.
Ngục Ni-la-phù-đa,
Tuổi thọ trăm ngàn năm;
Ta đều nhớ biết cả,
Ông tự bảo trường tồn.
Bà-cú Phạm thiên lại nói kệ:
Chỗ thấy Phật, Thế Tôn,
Số kiếp không bến bờ.
Sanh, già, chết, ưu, bi,
Tất cả là quá khứ.
Xin nói cho tôi biết,
Quá khứ đã từng qua:
Thọ trì giới nghiệp gì,
Mà được sanh ở đây?
Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ đáp:
Kiếp quá khứ lâu xa,
Giữa vùng đại hoang mạc,
Có các chúng tu hành,
Nhiều phạm hạnh Hiền thánh.
Đói thiếu, không đủ ăn,
Ông đến cứu giúp họ.
Tâm từ giúp liên tục,
Trải nhiều kiếp không mất.
Đó là quá khứ ông,
Công đức được thọ trì.
Ta đều nhớ biết cả,
Xa, gần, như ngủ thức.
Quá khứ có thôn ấp,
Bị bọn giặc cướp bóc;
Khi ấy ông đến cứu,
Khiến họ được cứu thoát.
Đó là thời quá khứ,
Phước nghiệp được thọ trì.
Ta nhớ nhân duyên này,
Xa, gần, như ngủ thức.
Quá khứ có nhiều người,
Đi thuyền trên sông Hằng;
Ác long giữ thuyền kia,
Muốn hại hết mạng người.
Thời ông dùng thần lực,
Cứu họ được giải thoát.
Đó là quá khứ ông,
Phước nghiệp được thọ trì.
Ta nhớ nhân duyên này,
Xa, gần, như ngủ thức.
Bà-cú Phạm thiên lại nói kệ:
Quyết định đã biết tôi,
Việc thọ mạng xưa nay;
Cũng biết hết tất cả,
Đây là Đấng Chánh Giác.
Cho nên được thọ thân,
Ánh vàng chiếu rực khắp;
Thân Ngài đứng ở đây,
Sáng khắp cả thế gian.

Bấy giờ, Thế Tôn vì Bà-cú Phạm thiên khai thị, chỉ giáo, soi sáng, là cho vui mừng xong. Ngài nhập chánh thọ như vậy biến khỏi cõi Phạm thiên và trở về thành Vương xá.

KINH 1196. TÀ KIẾN[77]

Tôi nghe như vầy:

Một thời Đức Phật ở trong vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ, có vị Phạm thiên ở trên cõi Phạm thiên khởi tà kiến nói như vầy:

“Cõi này thường hằng không biến dịch, thuần nhất, xuất ly. Chưa từng thấy có ai đến cõi này, huống là có người vượt lên trên cõi này.”

Bấy giờ, Thế Tôn biết được những sở niệm trong tâm của Phạm thiên này, liền nhập tam-muội, với chánh thọ như vậy, biến mất khỏi nước Xá-vệ và hiện nơi cung Phạm thiên. Ngài ngồi kiết già, chánh thân buộc niệm ở giữa hư không, ngay trên đỉnh Phạm thiên kia.

Bấy giờ, Tôn giả A-nhã Câu-lân nghĩ thầm: “Hôm nay Thế Tôn đang ở chỗ nào?” Bèn dùng thiên nhãn thanh tịnh hơn mắt người, nhìn thấy Thế Tôn đang ở trên cõi Phạm thiên. Thấy rồi, liền nhập tam-muội, với chánh thọ như vậy, biến mất khỏi nước Xá-vệ và hiện ra ở cõi Phạm thiên; ngồi kiết già ngay thẳng, buộc niệm ngay dưới tòa Phật và trên tòa Phạm thiên, quay mặt về hướng Tây, hướng đến Phật.

Khi ấy, Tôn giả Đại Ca-diếp cũng nghĩ: “Hôm nay Thế Tôn đang ở chỗ nào?” Bèn dùng thiên nhãn thanh tịnh hơn mắt người, nhìn thấy Thế Tôn đang ở trên cõi Phạm thiên. Thấy rồi, liền nhập tam-muội, chánh thọ như vậy, biến mất khỏi nước Xá-vệ và hiện ra ở cõi Phạm thiên, ngồi kiết già ngay thẳng, nhất tâm nhiếp niệm ngay dưới tòa Phật và trên tòa Phạm thiên, quay mặt về hướng Bắc, hướng đến Phật.

Khi ấy, Tôn giả Đại Mục-kiền-liên cũng nghĩ: “Hôm nay Thế Tôn đang ở chỗ nào?” Bèn dùng thiên nhãn thanh tịnh hơn mắt người, nhìn thấy Thế Tôn đang ở trên cõi Phạm thiên. Thấy rồi, liền nhập tam-muội, chánh thọ như vậy, biến mất khỏi nước Xá-vệ và hiện ra ở cõi Phạm thiên, ngồi kiết già ngay thẳng, nhất tâm nhiếp niệm ngay dưới tòa Phật và trên tòa Phạm thiên, quay mặt về hướng Nam, hướng đến Phật.

Bấy giờ, Thế Tôn nói với Phạm thiên:

“Nay ông lại khởi kiến giải rằng: ‘Từ xưa đến nay chưa từng thấy có người nào vượt qua khỏi Ta’ phải không?”

Phạm thiên bạch Phật:

“Hôm nay con không còn dám nói rằng: ‘Ta chưa từng thấy có người nào vượt qua khỏi ta.’ Mà chỉ thấy ánh sáng Phạm thiên bị ngăn che.”

Bấy giờ, Thế Tôn vì Phạm thiên kia thuyết pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng và làm cho vui vẻ rồi, liền nhập tam-muội, với chánh thọ như vậy, biến mất khỏi cõi Phạm thiên, trở về nước Xá-vệ. Các Tôn giả A-nhã Câu-lân, Ma-ha Ca-diếp, Xá-lợi-phất cũng vì Phạm thiên kia thuyết pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng và làm cho vui mừng xong, liền nhập tam-muội, với chánh thọ như vậy, biến mất khỏi cõi Phạm thiên, trở về nước Xá-vệ. Chỉ có Tôn giả Mục-kiền-liên vẫn còn ở lại đó. Lúc này, Phạm thiên kia hỏi Tôn giả Đại Mục-kiền-liên:

“Các vị đệ tử khác của Thế Tôn đều có đại đức đại lực như vậy không?”

Bấy giờ, Tôn giả Đại Mục-kiền-liên liền nói kệ:

Đại đức đủ ba minh,
Thông đạt biết tâm người;
Các La-hán lậu tận,
Số ấy không thể lường.

Lúc ấy, Tôn giả Đại Mục-kiền-liên vì Phạm thiên kia thuyết pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng và làm cho vui mừng xong, liền nhập tam-muội, với chánh thọ như vậy, biến khỏi cõi Phạm thiên và trở về nước Xá-vệ.

KINH 1197. NHẬP DIỆT[78]

Tôi nghe như vầy:

Một thời Đức Phật ở trong rừng Song thọ kiên cố[79], sanh địa của lực sĩ, tại nước Câu-thi-na-kiệt. Bấy giờ, Thế Tôn sắp nhập Bát-niết-bàn, bảo Tôn giả A-nan rằng:

“Ông hãy trải giường dây xoay đầu hướng Bắc giữa Song thọ kiên cố. Nửa đêm hôm nay Như Lai sẽ vào Vô dư Niết-bàn mà Bát-niết-bàn.”

Lúc này, Tôn giả A-nan vâng lời Thế Tôn dạy, ở giữa Song thọ kiên cố vì Thế Tôn mà trải giường dây, xoay đầu về hướng Bắc rồi, trở lại chỗ Thế Tôn, cúi đầu lễ dưới chân, bạch rằng:

“Bạch Thế Tôn, con đã vì Như Lai, trải giường dây ở giữa Song thọ kiên cố xoay đầu về hướng Bắc.”

Bấy giờ, Thế Tôn đến giường dây, hông phải nghiêng xuống đất, đầu xoay về hướng Bắc, hai chân xếp lên nhau, buộc niệm vào tướng ánh sáng. Bấy giờ là giữa đêm, Thế Tôn ở Vô dư Niết-bàn mà Bát-niết-bàn. Sau khi Phật Bát-niết-bàn rồi, rừng cây Song thọ liền trổ hoa, rơi xuống chung quanh cúng dường Thế Tôn. Khi ấy có Tỳ-kheo nói kệ:

Đẹp thay, cây Kiên cố,
Rũ cành nhánh lễ Phật;
Cúng dường hoa vi diệu,
Đại Sư Bát-niết-bàn.
Lúc ấy, Thích Đề-hoàn Nhân bỗng nói kệ:
Tất cả hành vô thường,
Chúng là pháp sanh diệt;
Tuy sanh liền đến diệt,
Tịch diệt này an lạc.

Lúc ấy, Phạm thiên vương, chủ thế giới Ta-bà, lại nói kệ:

Mọi sanh vật ở đời,
Đã lập đều phải bỏ.
Thánh Đại Sư như vậy,
Thế gian không ai bằng.
Được thần lực Như Lai,
Làm mắt cho thế gian;
Cuối cùng cũng hoại diệt,
Nhập Vô dư Niết-bàn.
Tôn giả A-na-luật-đà lại nói kệ tiếp:
Thở ra, vào: đình trú,
Lập tâm khéo nhiếp hộ;
Từ sở y mà đến,
Thế gian Bát-niết-bàn.
Sanh tướng sợ hãi lớn,
Khiến lông thân người dựng;
Đủ tất cả hành lực,
Đại Sư Bát-niết-bàn.
Tâm kia không giải đãi,
Cũng không vướng các ái;
Tâm pháp dần giải thoát,
Như củi hết, lửa tắt.

Sau khi Như Lai Bát-niết-bàn bảy ngày, Tôn giả A-nan đến chỗ Chi-đề[80] nói kệ:

Thân báu này, Đại Sư,
Lên đến cõi Phạm thiên;
Thần lực lớn như vậy,
Nội hỏa lại đốt thân.
Năm trăm lụa quấn thân,
Đốt cháy tiêu rụi hết.
Một ngàn tấm y mịn,
Y quấn thân Như Lai.
Chỉ hai tấm không cháy,
Tối thượng và sấn thân[81].

Khi Tôn giả A-nan nói kệ này rồi, thì các Tỳ-kheo im lặng thương nhớ.




CHÚ THÍCH

[1]. Đại Chánh quyển 44. Ấn Thuận, “21. Tương ưng Bà-la-môn (phần sau)”; tiếp theo Đại Chánh kinh số 102 (quyển 4). Quốc Dịch, quyển 38. -Pāli, Cf. Theri. 133. Vāsiṭṭhī. Biệt dịch, №100(92).

[2]. Di-hy-la 彌絺羅. Pāli: Mithilā.

[3]. Bà-tứ-tra 婆四吒. Pāli: Vāseṭṭhī.

[4]. Bà chạy từ Vesalī đến Mithilā.

[5]. Ác 惡 ; Ấn Thuận, Phật Quang đọc là yếu 要 . Các bản Tống-Nguyên-Minh đọc là ác 惡.

[6]. Tú-xà-đế 宿闍諦. Pāli: Sujāta.

[7]. Tôn-đà-bàn-lê 孫陀槃梨. Pāli: Sundarī.

[8]. Pāli, S. 7. 1. 10. Bahudhīti. Biệt dịch, №100(93).

[9]. Bản Pāli: Kosalesu viharati aññatarasmiṃ vanande, trong một khu rừng nọ ở Kosala.

[10]. Tỳ-lê-da Bà-la-đậu-bà-giá 毘梨耶婆羅豆婆遮. Pāli: aññatarassa bhāradvājagotassa brāhmaṇassa, có một người Bà-la-môn nọ thuộc dòng họ Bhāradvāja.

[11]. Pāli, S.7.22. Khomadussa. Biệt dịch, №100(94).

[12]. Pāli: Sakkesu viharati Khomadussaṃ nàmaư Sakyānaṃ nigamo. Sống giữa những người họ Thích, tại tụ lạc Khomadussacủa họ Thích.

[13]. Bà-la-môn tụ lạc Bà-la trưởng giả 婆羅門聚落婆羅長者. Pāli: Khomadussakā brāhmaṇagahapatikā sabhāyaṃ, trong nhà hội của những gia chủ Bà-la-môn thuộc tụ lạc Khomadussa.

[14]. Pāli: : ke ca muṇḍakā samaṇakā, ke ca sabhādhammaṃ jānanti? “Những Sa-môn trọc đầu kia là ai? Sao họ không biết phép hội họp?”

[15]. Pāli, S. 7. 2. 3. Devahita. Biệt dịch, №100(95).

[16]. Bản Pāli: Sāvatthinidānaṃ, nhân duyên ở Xá-vệ.

[17]. Phù-lê tụ lạc 浮梨聚落.

[18]. Thiên Tác Bà-la-môn 天作婆羅門. Pāli: Devahito brāhmaṇo.

[19]. Ưu-ba-ma 優波摩. Pāli: Upavāṇa.

[20]. Pāli: vātehābādhiko, phong bệnh; được giải thích (Tha.ii.57), do sự dao động của gió nội thân. Không phải gió cảm mạo từ ngoài.

[21]. Pāli: muṇḍo saṅghātipāruto, trọc đầu, khoác Tăng-già-lê.

[22]. An lạc thủy 安樂水. Pāli: uṇhodakaṃ, nước nóng. Bản Hán đọc là sukhodakaṃ?

[23]. Thời thí 時施; chỉ trong lúc đang bố thí (hiểu theo phân từ hiện tại). Pāli: kathañhi yajamānassa, như thế nào, trong lúc hiến tế?

[24]. Các bản đều đọc là định thú sanh 定趣生. Nên đọc là ác thú sinh, gần với bản Pāli. Pāli: saggāpāyañca passati, thấy sanh thiên, hay đọa lạc.

[25]. Pāli, S.7.17. Navakammika. Biệt dịch, №100(96).

[26]. Hán: doanh tác điền nghiệp 營作田業.Bản Pāli: navakammika, thợ cất nhà (hoặc thợ mộc).

[27]. Pāli, 7.18. Kaṭṭhahāra. Biệt dịch, №100(97).

[28]. Cọng (túc) 共 . Hán dịch sát nghĩa đen. Pāli: antevāsika: đệ tử (= người sống chung).

[29]. Pāli, S.7.9. Sundarika. Biệt dịch, №100(99).

[30]. Tôn-đà-lợi hà 孫陀利河. Pāli: Sundarikā-nadī.

[31]. Pāli: Sundarikabhāradvāja brāhmaṇa, Bà-la-môn Snudarika dòng họ Bhāradvāja.

[32]. Pāli, M. 7. Vatthūpama-sutta. Biệt dịch, №100 (98); №125(13.5).

[33]. Pāli, S.7.6. Jaṭā. Biệt dịch, №100(100).

[34]. Oanh kế La-đậu-bà-giá Bà-la-môn [11]縈髻[12]羅豆婆遮婆羅門. Trên chữ la 羅 có thể sót chữ bà 婆. Pāli;Jaṭabhāradvāja-brāhmaṇa, Bà-la-môn bện tóc dòng họ Bhāravāja.

[35]. Tham chiếu kinh 1187 trên.

[36]. Quốc Dịch, quyển 38, phần cuối, “Tụng vii. Kệ. 6.Tương ưng Phạm thiên” 1 phẩm, 10 kinh. Ấn Thuận, “Tụng viii. 22. Tương ưng Phạm thiên” mười kinh: 1288-1287 (Đại Chánh, kinh 1188-1197). Pāli, S.6.2. Gārava; cf. A. 4. 21. Uruvelā. Biệt dịch, №100(101).

[37]. Pāli: ajapālanỉgodhamūle, dưới gốc cây Ajapāla-nỉgodha..

[38]. Pāli: dukkhaṃ kho agāravo viharati appatisso, “Khổ thay, sống mà không có sự kính trọng, không có sự thuận tùng”.

[39]. Pāli, S. 47. 18. Brahmā. Biệt dịch, №100 (102); №101(4).

[40]. Nhất thừa đạo 一乘道. Pāli: ekāyano maggo, con đường có một lối đi duy nhất, khác với ekayāna, nhất thừa, chỉ một cỗ xe duy nhất.

[41]. Đắc chân như pháp 得真如法. Pāli: ñāyassa adhigamāya, nibbānassa sacchikiriyāya, để đạt đến Chánh lý, chứng ngộ Niết-bàn.

[42]. Như Thánh pháp 如聖法 . Pāli: ñāya (dhamma)? Xem thêm cht. dưới.

[43]. Như Thánh đạo 如聖道 . Pāli: ñāyāya maggam, con đường dẫn đến chánh lý(?)

[44]. Hán: kiến sanh chư hữu biên 見生諸有邊. Chư, nên đọc là tận. Pāli: jātikhayantadassī, thấy sự sanh được đoạn tận. [45]. Pāli, S.6.11. Sanaṃkumāra. Biệt dịch, №100 (103).

[46]. Bản Pāli: Rājagahe viharati Sappinītīre, trú tại Vương xá, bên bờ sông Sappinī.

[47]. Pāli: Brahmā sanaṃkumāro, vị Phạm thiên thường xuyên dưới dạng hài đồng, thường đồng hình Phạm thiên.

[48]. Pāli: khattiyo seṭṭho janetasmiṃ, ye gottapaṭisārino, những ai tin vào chủng tộc, thì Sát-lợi là tối tôn.

[49]. Pāli, S.6.13. Andhakavinda. Biệt dịch, №100(104).

[50]. Bản Pāli: Māgadhesu viharati Andhakaviđa, sống giữa những người Ma-kiệt-đà, trong làng Andhakavinda.

[51]. Tùy thuận không 隨 順 空 . Trên kia, Hán dịch là “tùy thuận a-luyện-nhã 隨順阿楝若”.

[52]. Pāli: sevetha pantāni senāsanāni, các ông hãy sống nơi biên địa.

[53]. Pāli, S.1.37. Samaya. Biệt dịch, №100(105).

[54]. Ca-tỳ-la-vệ Ca-tỳ-la-vệ lâm 迦毘羅衛迦毘羅衛林. Pāli: Kipilavatthusmiṃ Mahāvane, trong rừng Đại lâm, ở Kaplilavatthu.

[55]. Pāli: aparājitasaṅgham, Tăng-già không thể bị đánh bại.

[56]. Nhân-đà-la tràng 因陀羅幢. Cây phướn của Đế Thích.

[57]. Pāli, S.6. 7-9. Kokālika. Biệt dịch, №100(106); №101(5).

[58]. Cù-ca-lê 瞿迦梨. Pāli: Kokālika.

[59]. S. 6.7.

[60]. Pāli, S. 6.6. Pamāda. Biệt dịch, №100(107).

[61]. Biệt Phạm thiên 別梵天. Pāli: Pacceka-Brahmā. Không thấy các tài liệu giải thích. Có thể chỉ những Phạm thiên độc lập, không có Thiên chúng.

[62]. Thiện Tí biệt Phạm thiên 善臂別梵天. Pāli, đề ccạp hai vị: Subrahmā va Suddhavāsa.

[63]. Bà-cú Phạm thiên 婆句梵天. Pāli: Bako Brahmā

[64]. Hán: hộc điểu 鵠 鳥 . Pāli: haṃsa, thiên nga.

[65]. Bản Pāli: tayo supaṇṇā, ba trăm chim cánh vàng (Kim xí điểu).

[66]. Pāli: vyagghīnisā pañcasatā ca jhāyino, sáng rực với 500 hổ cái? Bản Hán hiểu jhāyino: các hành giả Thiên, thay vì là (các cung điện) sáng rực.

[67]. Thiện Phạm thiên 善梵天. Pāli: Subrāhmā, một trong hai vị Pacceka-Brahmā mà bản Hán trên kia không nhắc.

[68]. Xem cht.64, kinh 1194.

[69]. Về “bảy mươi hai”, xem cht.75 kinh 1195.

[70]. Ca-tra-vụ-đà-đê-sa 迦吒務陀低沙.

[71]. Ni-la-phù-đà 尼羅浮多. Pāli: Nirabbuda.

[72]. A-phù-đà 阿浮陀. Pāli: abbuda.

[73]. Pāli, S. 6.4. Bako-Brahmā. Biệt dịch, 100 (108).

[74]. Xem cht.63, kinh 1194.

[75]. Hán: Phạm thiên thất thập nhị , tạo tác chư phước nghiêp 梵天七十二造作諸福業; văn cú đảo. Nên hiểu: “Các Phạm thiên đã tạo ra bảy mươi hai loại phước nghiệp”. Tham chiếu Pāli: dvāsattati Gotma puññakammā, vasavattino jātijaraṃ atītā, “bằng bảy mươi hai phước nghiệp, chúng tôi có quyền uy siêu việt già và chết”.

[76]. Minh luận 明論. Pāli: Vedagū, người thông thạo các Veda.

[77]. Pāli, S. 6.5. Aparā diṭṭhi. Biệt dịch, №100(109).

[78]. Pāli, S. 6.15. Parinibbāna. Biệt dịch, №100(110).

[79]. Song thọ kiên cố lâm 堅固雙樹林. Pāli: Yamaka-sāla, cụm cây sāla mọc đôi. Bản Hán đọc là sara (kiên cố).

[80]. Chi-đề 枝提. Pāli: cetiya, tháp miếu.

[81]. Chỉ y Uất-đa-la-tăng và áo lót.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567