Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tạp A-hàm quyển 50 (1351 - 1362)

09/05/201312:28(Xem: 11984)
Tạp A-hàm quyển 50 (1351 - 1362)

Kinh Tạp A Hàm

Tạp A-hàm quyển 50 (1351 - 1362)

Tỳ kheo Thích Đức Thắng

Nguồn: Việt dịch: Thích Đức Thắng
Hiệu đính & Chú thích: Tuệ Sỹ

KINH 1351. KHỔNG TƯỚC

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở trong vườn Trúc, khu Ca-lan-đà, tại thành Vương xá. Bấy giờ, có các Tỳ-kheo đang trú bên sườn núi Chi-đề[77], là những Tỳ-kheo a-luyện-nhã, trì y phấn tảo, thường hành khất thực. Lúc đó Sơn thần trụ ở núi này, nói kệ:

Mình công như gấm thêu,
Ở núi Bề-đề-hê[78];
Thỉnh thoảng hót tiếng hay,
Nhắc Tỳ-kheo khất thực.
Mình công như gấm thêu,
Ở núi Bề-đề-hê;
Thỉnh thoảng hót tiếng hay,
Nhắc vị trì phấn tảo.
Mình công như gấm thêu,
Ở núi Bề-đề-hê;
Thỉnh thoảng hót tiếng hay,
Nhắc vị ngồi bóng cây.

Sau khi Thiên thần nói kệ xong, đứng im lặng.

KINH 1352. DOANH SỰ

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở trong vườn Trúc, khu Ca-lan-đà, tại thành Vương xá. Bấy giờ, có các Tỳ-kheo ở núi Chi-đề, tất cả đều tu hạnh A-luyện-nhã, trì y phấn tảo, thường hành khất thực. Bấy giờ, bờ sông Na-sa-khư-đa[79] bị lở, làm chết ba vị Tỳ-kheo doanh sự[80]. Lúc ấy, Thiên thần núi Chi-đề nói kệ:

A-lan-nhã, khất thực,
Cẩn thận chớ xây dựng.
Không thấy sông Khư-đa,
Bờ bên chợt sạt lở,
Đè chết người xây dựng.,
Ba Tỳ-kheo doanh sự?
Tỳ-kheo trì phấn tảo,
Cẩn thận chớ xây dựng.
Không thấy sông Khư-đa,
Bờ bên chợt sạt lở,
Đè chết người xây dựng,
Ba Tỳ-kheo doanh sự?
Tỳ-kheo nương bóng cây,
Cẩn thận chớ xây dựng.
Không thấy sông Khư-đa,
Bờ bên chợt sạt lở.
Đè chết người xây dựng,
Ba Tỳ-kheo doanh sự?

Sau khi Thiên thần kia nói kệ xong, liền đứng im lặng.

KINH 1353. NÚI TẦN-ĐÀ

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở trong vườn Trúc, khu Ca-lan-đà, thành Vương xá. Bấy giờ, có Tỳ-kheo sống trong núi Tần-đà[81]. Lúc ấy rừng trên núi chợt bốc lửa lớn, cả núi cháy rực. Lúc đó có người thế tục nói kệ:

Nay núi Tần-đà này,

Lửa cháy suốt dữ dội;

Thiêu rụi rừng trúc kia,

Đốt cả hoa[82], trái trúc.

Lúc ấy Tỳ-kheo kia tự nghĩ: ‘Nay, người thế tục này có thể nói kệ này, sao ta không nói kệ để đáp?’ Liền nói kệ:

Tất cả hữu cháy rực,
Không tuệ nào dập tắt;
Thiêu đốt các thọ dục,
Cũng đốt khổ bất tác.

Sau khi Tỳ-kheo kia nói kệ xong, đứng im lặng.

KINH 1354. THEO DÒNG TRÔI

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở trong vườn Trúc, khu Ca-lan-đà, thành Vương xá. Bấy giờ, có Tỳ-kheo ở bên cạnh sông Hằng, trụ trong một khu rừng. Khi ấy có một cô gái thiện gia, thường bị bố mẹ chồng trách mắng, nên đến bên bờ sông Hằng, nói kệ:

Sông Hằng, nay ta muốn,
Theo dòng trôi dần biển;
Không còn để cô cậu,
Thương xuyên phải hiềm trách.

Khi Tỳ-kheo kia thấy cô gái thiện gia này, nghe nói kệ như vậy, liền tự nghĩ: ‘Cô gái này còn có thể nói kệ, nay tại sao ta không nói kệ đáp?’ Liền nói kệ:

Tịnh tín, nay ta muốn
Theo vào sông bát Thánh;
Trôi xuôi đến Niết-bàn,
Không gặp ma lung lạc.

Sau khi Tỳ-kheo kia nói kệ xong, đứng im lặng.

KINH 1355. TRĂNG SÁNG

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở trong vườn Trúc, khu Ca-lan-đà, thành Vương xá. Bấy giờ, có Tỳ-kheo ở Câu-tát-la, du hành trong nhân gian, nghỉ lại trong một khu rừng. Cách rừng không xa, có ruộng trồng dưa. Đêm đó có kẻ trộm đến trộm dưa, thấy mặt trăng sắp mọc, nói kệ:

Trăng sáng, ngươi chớ hiện,
Đợi ta hái dưa này.
Ta đem dưa đi rồi,
Mặc ngươi hiện hay không.

Bấy giờ, Tỳ-kheo kia tự nghĩ: ‘Kẻ trộm dưa còn có thể nói kệ, chẳng lẽ ta không thể nói kệ đáp trả sao?’ Liền nói kệ:

Ác ma, ngươi chớ hiện,
Chờ ta đoạn phiền não;
Đoạn phiền não kia rồi,
Mặc ngươi hiện hay không.

Sau khi Tỳ-kheo kia nói kệ xong, đứng im lặng.

KINH 1356. PHƯỚN

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở trong vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, có Tỳ-kheo ở Câu-tát-la, du hành trong nhân gian, sống trong một khu rừng. Lúc đó có một Sa-di nói kệ:

Thế nào gọi là thường?
Khất thực tức là thường.
Thế nào là vô thường?
Tăng ăn là vô thường.
Thế nào gọi là thẳng?
Chỉ phướn Nhân-đà-la.
Thế nào gọi là cong?
Cong, chỉ thấy móc câu.

Tỳ-kheo kia tự nghĩ: ‘Sa-di kia còn có thể nói kệ như vậy, nay sao ta không nói kệ mà đáp.’ Liền nói kệ:

Thế nào gọi là thường?
Thường tức là Niết-bàn.
Thế nào là vô thường?
Chỉ các pháp hữu vi.
Thế nào gọi là thẳng?
Chính là Bát Thánh đạo;
Thế nào gọi là cong?
Cong là lối mòn ác.

Sau khi Tỳ-kheo kia nói kệ xong, ngồi im lặng.

KINH 1357. BÁT SÀNH

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở trong vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, có đệ tử Xá-lợi-phất, uống thuốc xong, muốn tìm cháo ăn. Lúc đó Tôn giả Xá-lợi-phất đến nhà thợ gốm để xin cái chậu sành. Khi đó thợ gốm kia nói kệ:

Thế nào được nổi danh,
Mà không thí một đồng?
Thế nào thắng thật đức,
Của cải không bị giảm?
Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất nói kệ đáp:
Như người không ăn thịt,
Mà đem thịt cho họ.
Những người tu phạm hạnh,
Mà đem nữ sắc cho.
Người không ngồi giường cao,
Mà đem giường cao cho.
Đối người sắp đi kia,
Mà cho chỗ nghỉ ngơi.
Giúp đỡ cho như vậy,
Thì của cải không giảm,
Mà lại được tiếng khen,
Và không tốn một tiền,
Thật đức danh tiếng vang,
Của cải không giảm sút.
Lúc ấy, người thợ gốm kia lại nói kệ:
Thưa ngài Xá-lợi-phất,
Đã nói điều thật hay;
Xin cúng ngài trăm bát,
Không dư, cũng không được.
Tôn giả Xá-lợi-phất nói kệ:
Trời Tam thập tam kia,
Diệm-ma, Đâu-suất-đà,
Hóa lạc, các Trời, Người,
Cùng Tha hóa Tự tại,
Được bát sành, nhờ tín,
Mà ngươi không sanh tín.

Tôn giả Xá-lợi-phất nói kệ xong, im lặng đi ra khỏi nhà thợ gốm.

KINH 1358. NGƯỜI NGHÈO

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở trong vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, có Tỳ-kheo ở Câu-tát-la, du hành trong nhân gian, sống trong một khu rừng. Lúc đó có một người nghèo ở bên cạnh rừng, tự suy nghĩ hy vọng như vậy mà nói kệ:

Nếu được một đầu heo,
Một bình đầy rượu ngon;
Đựng đầy trong một chậu,
Người luôn luôn đem cho.
Nếu mà được như vậy,
Sẽ còn lo lắng gì?
Lúc ấy Tỳ-kheo kia tự nghĩ: ‘Người nghèo này còn có thể nói kệ, nay sao ta không nói.’ Liền nói kệ:
Nếu được Phật, Pháp, Tăng,
Tỳ-kheo khéo thuyết pháp;
Ta không bệnh, nghe luôn,
Không sợ các ma oán.

Sau khi Tỳ-kheo kia nói kệ này xong, ngồi im lặng[83].

KINH 1359. KIẾP-BỐI

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở trong vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, có Tỳ-kheo ở Câu-tát-la, du hành trong nhân gian, sống trong một khu rừng. Tỳ-kheo kia tự nghĩ như vầy: ‘Nếu được kiếp-bối tốt, dài bảy khuỷu tay, rộng hai khuỷu tay để may cái y xong, ta vui tu thiện pháp.’

Lúc đó có vị Thiên thần nương ở trong rừng này tự nghĩ: ‘Đây không phải là pháp Tỳ-kheo, ở trong rừng mà tư duy hy vọng y tốt.’ Khi ấy Thiên thần hóa thành một bộ xương, múa trước Tỳ-kheo kia và nói kệ:

Tỳ-kheo nghĩ kiếp-bối,
Bảy khuỷu rộng sáu thước;
Ngày thì tưởng như vậy,
Đêm tư duy cái gì?

Lúc ấy, Tỳ-kheo kia lòng kinh hãi, thân sợ run, nói kệ:

Thôi! Thôi! Không cần vải,
Nay đắp y phấn tảo;
Ngày thấy bộ xương múa,
Đêm lại thấy gì đây?

Sau một phen tâm kinh sợ, Tỳ-kheo kia liền chánh tư duy, chuyên tinh tu tập, đoạn các phiền não, đắc A-la-hán.

KINH 1360. VŨNG SÌNH

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở trong vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, có Tỳ-kheo ở Câu-tát-la, du hành trong nhân gian, nghỉ lại trong một khu rừng, đắc A-la-hán, các lậu đã hết, việc cần làm đã làm xong, đã trút gánh nặng, đoạn các hữu kết, chánh trí, tâm khéo giải thoát. Khi đó có một người nữ, trong đêm tối, trời mưa lâm râm, sấm chớp lóe sáng, đi ngang qua muốn đến với người đàn ông khác. Cô bị té trong bùn sâu, vòng xuyến bị gãy, chuỗi hoa rơi vãi. Lúc bấy giờ, cô gái kia nói kệ:

Đầu tóc đều xổ tung,
Chuỗi hoa rơi bùn sâu;
Vòng xuyến đã gãy khúc,
Chàng đang đắm nơi đâu?
Khi ấy Tỳ-kheo kia tự nghĩ:‘Cô con gái còn có thể nói kệ, sao ta không thể nói kệ đề đáp lại?”
Phiền não đều đã bứt;
Qua vũng bùn sanh tử;
Trói buộc thảy rơi vãi,
Mười phương tôn, thấy ta.

Sau khi Tỳ-kheo kia nói kệ xong, ngồi im lặng.

KINH 1361. BÊN BỜ SÔNG

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở trong vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, có Tỳ-kheo ở Câu-tát-la, du hành trong nhân gian, nghỉ lại trong một khu rừng, bên bờ sông. Lúc đó có đôi vợ chồng theo nhau qua sông, đứng lại ở bên bờ, khảy đàn, đùa giỡn, rồi nói kệ:

Nhớ thương mà phóng dật,
Tiêu dao khoảng rừng xanh;
Nước chảy, chảy lại trong,
Tiếng đàn thật hòa mỹ.
Mùa xuân thỏa thích chơi,
Khoái lạc còn gì hơn?
Lúc đó Tỳ-kheo ấy tự nghĩ: ‘Người kia còn có thể nói kệ, sao ta không thể nói kệ đáp?”
Thọ trì giới thanh tịnh,
Nhớ thương Đẳng Chánh Giác;
Tắm gội ba giải thoát,
Khéo dùng rất mát trong.
Nhập đạo đủ trang nghiêm,
Khoái lạc nào hơn đây?

Sau khi Tỳ-kheo kia nói kệ xong, đứng im lặng.

KINH 1362.

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở trong vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, có Tỳ-kheo ở Câu-tát-la, du hành trong nhân gian, nghỉ lại trong một khu rừng. Lúc đó có Thiên thần thấy những con chim bồ câu, liền nói kệ:

Bồ câu, hãy tích tụ,
Mè, gạo, lật vân vân,
Ở ngọn cây trên núi,
Làm hang tổ trên cao.
Nếu gặp khi trời mưa,
Yên tâm ăn uống ngủ.
Lúc ấy Tỳ-kheo kia tự nghĩ: ‘Kia cũng giác ngộ ta.’ Liền nói kệ:
Phàm phu chứa pháp lành,
Cung kính nơi Tam bảo;
Khi thân hoại mạng chung,
Tinh thần, tâm an lạc.

Sau khi Tỳ-kheo nói kệ xong, liền tỉnh ngộ, chuyên tâm tư duy, dứt trừ các phiền não, đắc A-la-hán.




CHÚ THÍCH

[1]. Đại Chánh, quyển 50. Ấn Thuận, 26. Tương ưng Dạ xoa, tiếp theo. Kinh 1325, Pāli: S. 10. 5. Sānu, №100 (324).

[2]. Ưu-bà-di tử 優婆夷子. Pāli: aññatarissa upāsikāya sānu nāma putto, con trai của một ưu-bà-di nọ tên là Sānu.

[3]. Bát chi trai 八支齋 .

[4]. Chỉ mỗi nửa tháng.

[5]. Thần thông nguyệt 神通月. Tháng thần biến 神變月; Pāli: pāṭihāriya-pakkha, các tháng Giêng, tháng Năm và tháng Chín, bốn Thiên vương hiện thần thông đi quan sát nhân gian. Xem cht.49, kinh 1117.

[6]. Hán: mạn hoãn nghiệp 慢綬業. Pāli: mākāsi pāpakaṃ kammaṃ āvi và yadi và raho, chớ tạo ác nghiệp, dù công khai hay bí mật.

[7]. Để bản: gian thảo 菅草. Tống-Nguyên-Minh: gian thảo 葌草.

[8]. S. 10. 12. āḷavaṃ; №100(325).

[9]. A-lạp quỷ 阿臈鬼. №100(325): Khoáng dã dạ xoa 曠野夜叉. Pāli: āḷavako yakkho.

[10]. Kiệt-đàm quỷ 竭曇鬼. №100(325): Lô Câu 驢駒. Theo Hán dịch, Pāli có thể là Kharo (lừa con). Xem cht.103, kinh 1324.

[11]. Thắng sĩ phu sự vật 勝士夫事物. №100(325): “Trong tất cả tài bảo, cái gì tối thắng?” Pāli: kiṃsūdha vittaṃ purissa seṭṭhaṃ, “Trong đời này, tài sản quý nhất của con người là gì?”

[12]. Vân hà thọ trung thắng 云何壽中勝. Pāli: kathaṃ jīvaṃ jīvatamāhu seṭṭhan’ti, “Sanh mạng nào cao thượng nhất trong các sanh mạng?”

[13]. Xem kinh 1282.

[14]. Xem kinh 1329.

[15]. Tức sự thật, bố thí và sự tự chế ngự. Pāli: saccā, dammā, cāgā.

[16]. Kiệt-đàm-ma 竭曇摩, phiên âm khác của Khara, xem cht.10 trên.

[17]. S. 10. 9-10. Sukkā; №100(327).

[18]. Thúc-ca-la 叔迦羅. Pāli: Sukkā bhikkhunì.

[19]. Cát tinh nhật 吉星日. №100(327): Lễ hội sao Câu-mật-đầu 俱蜜頭星會. Pāli: komudī, ngày rằm tháng Kattika, hay Ca-đề tháng cuối mùa mưa.

[20]. Mã vương 馬王. Pāli: Valāhaka, ngựa thần của Chuyển luân vương.

[21]. S.10. 11. Vīrā; №100(336).

[22]. Tỳ-la 毘羅. Pāli: Vīrā (bản Miến: Cīrā).

[23]. Xem kinh 1327 trên.

[24]. Sn. i. 9. Hemavata; №100(328).

[25]. Sa-đa-kỳ-lợi Thiên thần 娑多耆利天神. Pāli: Sātāgira.

[26]. Hê-ma-ba-đê Thiên thần 醯魔波低天神.

[27]. Ba-đàm-ma hoa 波曇摩華. Pāli: Paduma (sen đỏ).

[28]. Ấn Thuận đọc là: Tùng hà La-hán thọ, “thọ từ La-hán nào?”

[29]. Pāli: kacci iṭṭhe aniṭṭhe ca, sankappassa vasīkatā? Tâm tư vị ấy có tự tại nơi cái đáng yêu và không đáng yêu không?

[30]. Pāli: kacci vijāya sampanno, kacci saṃsuddhacaraṭo, “Đã thành tựu minh tuệ chưa? Sở hành thanh tịnh chăng?”

[31]. Y-ni-diên lộc 伊尼延鹿. Pāli: eṇi, sơn dương, có đùi (jaṅga) thon dài, rất đẹp; một tướng của Phật.

[32]. Bài kệ này cũng thay nơi kinh 602 trên.

[33]. Xem kinh 602.

[34]. Xem kinh 1326 trên.

[35]. Pāli: Ud. 4. 4. Juṇha (Yakkhapahāra); №100(329).

[36]. Già-tra, Ưu-ba-già-tra quỷ 伽吒優波伽吒鬼. №100(329): Hại, Phục Hại 害復害. Pāli: dve yakkhā sahāyakā, hai con quỷ dạ-xoa, bạn của nhau, không nói tên. Theo các bản Hán, Pāli có thể là Ghata, upaghata, nhưng không thấy trong các tài liệu Pāli.

[37]. Ấn Thuận, “Tụng 5, 27. Tương ưng Rừng”; Đại Chánh kinh 1331-1462; phần lớn tương đương Pāli: S.9 Vanasaṃyutta. –Kinh 1331, Pāli: S.9.4. Sambahula (Cārika); №100(351).

[38]. Nguyên Hán: thọ tuế 受歲, hết mùa an cư, Tỳ-kheo nhận tuổi hạ. Pāli: vasaṃ-vuṭṭha.

[39]. Vô tu ngoại đạo 無羞外道, ngoại đạo không biết xấu hổ; thường chỉ các nhóm Ca-cưu-đà Ca-chiên-diên (Pāli: Kakudha-Kaccāyana), Ni-kiền Tử (Pāli: Nigantha) và những nhóm lõa hình khác. Ở đây, Ud. 9.4, chỉ các nhóm Cārika, các ngoại đạo du hành.

[40]. Kim cang địa 金剛地. №100(351): Tỳ-xá-ly quốc 毘舍離國. Pāli: Vajjibhūmi, lãnh thổ của người Vajji mà thủ phủ là Vesali, Tỳ-xá-li). Bản Hán đọc là Vajirabhūmi.

[41]. S. 9. 2. Upaṭṭhāna; №100(352).

[42]. Tức ngủ trưa.

[43]. S. 9. 1. Viveka; №100(353).

[44]. Bất thiện giác 不善覺 , tức bất thiện tầm不善尋, tư duy tầm cầu bất thiện.

[45]. №100(353): “Ông hãy xả bỏ tâm không hoan hỷ, mà an tâm hoan hỷ với pháp này.” Pāli: aratiṃ pajahāsi sato, bhāvasi sataṃ taṃ sārayāmase, “ông chánh niệm, trừ bỏ sự bất mãn, chúng tôi ca ngợi ông là thiện nhân”.

[46]. Tư phi ư chánh niệm 思非於正念.

[47]. Pāli: pātālarajo hi duttaro, mā taṃ kāmarajo avāhasi, “bụi trần địa ngục thật khó trừ; ông chớ mang theo bụi trần ái dục.”

[48]. Thích quân 釋君; chỉ Thiên đế Thích? Pāli: sākuṇo yathā paṃsukunthito, vidhunaṃ pātayati sitaṃ rajaṃ, “như con chim vùi mình trong cát, rùng mình, bụi rơi hết”. Bản Hán đọc: sakkanāga...?

[49]. S. 9. 11. Ayoniso; №100(354).

[50]. Pāli: pāpake akusale vittake vitakketi, tầm cầu nơi ác bất thiện tầm.

[51]. S. 0. 12. Majjhantika; №100(355).

[52]. S. 9. 6. Anuruddha; №100(356).

[53]. Xà-lân-ni thiên tử 闍鄰尼天子. Pāli: devatā jālinī.

[54]. S. 10. Sajjhāya; №100(357).

[55]. Để bản: bất tri 不知. Bản Nguyên-Minh: bất như 不如. Cf. Pāli: yaṃ kiñci diṭṭhaṃ vā sutaṃ vā mutaṃ vā, aññāya nikkhepanamāhu santo, bất cứ những gì được thấy, nghe, biết, đều bằng chánh trí mà xả hết. Trong bản Hán, aññāya (bằng chánh trí), được hiểu là aññāṇa: vô tri.

[56]. S. 9. 14. Padumapuppha; №100(358).

[57]. №100(358): “Như bà mẹ cho con bú, mặc chiếc áo đen, tuy bị dính nước giải, cũng chẳng thấy xấu hổ gì”. Pāli:ākiṇṇaluddo puriso, dhāticelaṃvā makkhito, tasmiṃ me vacanaṃ natthi, hạng người hung bạo, dơ bẩn như chiếc áo của bà vú; tôi không nói đến hạng người ấy.

[58]. S. 9. 3. Kassapagotta; №100(359).

[59]. Thập Lực Ca-diếp 十力迦葉. Pāli: Kassapagotta.

[60]. Tiên nhân quật 仙人窟. №100(359): Thê-ni quật 迻泥窟.

[61]. Xích Chỉ 尺只. №100(358): Liên-ca 連迦.

56. Pāli, S.9. 9. Vajjiputta; №100(360).

[63]. Kim Cương Tử 金剛子. №100(360): Bạt-kỳ tử. Pāli: Vajjiputta. Bản Hán đọc là Vajiraputta.

[64]. Ba-liên-phất 巴連弗.

[65]. Kiêu-mâu-ni đại hội 憍牟尼大會. №100(36): Câu-mật-đề đại hội 拘蜜提大會. Pāli: Komudī; đại hội ngày trăng tròn tháng Kattika, tháng cuối mùa mưa. Bản Pāli: sabbaracāro, dạ hành đại hội, lễ hội suốt đêm.

[66]. Biệt dịch, №100(361).

[67]. S. 9. 7. Nāgadatta; №100(362).

[68]. Na-ca-đạt-đa 那迦達多. №100(362): Long Dữ 龍與. Pāli: Nāgadatta.

[69]. №100(362): “ham mê pháp tại gia; sáng sớm vào xóm; chiều tối mới trở về”.

[70]. S. 9. 13. Pākatindriya (Sambahulā bhikkhū); №100(363).

[71]. Vô thường tâm 無常心; tâm quán vô thường. №100(363): thường tư duy vô thường 常思於無常.

[72]. S. 9. 8. Ogāḷho (Kulagharaṇī): №100(364).

[73]. Không có Pāli tương đương.

[74]. Kiến-đa 見多.

[75]. Ưu-lâu 優樓. Pāli: ulūka, một loại cú.

[76]. Ba-tra-lợi 波吒利. Pāli: pāṭalī, tên một loại cây. Phật Tỳ-bà-thi thành Phật dưới gốc cây này.

[77]. Chi-đề sơn 支提山. Pāli: Cetiya, tên núi, cũng gọi là Vedisa; xem cht. dưới.

[78]. Bề-đề-hê 鞞提醯. Pāli: Vedisagiri, tên núi, cũng gọi là Cetiya, cách Pāṭaliputta khoảng năm mươi do-tuần.

[79]. Na-sa-khư-đa 那娑佉多.

[80]. Doanh sự Tỳ-kheo 營事比丘, chỉ Tỳ-kheo phụ trách công tác xây dựng cho Tăng. Pāli: navakammika.

sơn

[81]. Tần-đà頻陀山.

[82]. Nguyên bản: uyển苑 . Bản Tống, Ấn Thuận đọc là hoa花 .

[83]. Nguyên bản: trụ 住. Bản khác: khứ 去.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567