Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tạp A-hàm quyển 27 (734 - 747)

08/05/201317:58(Xem: 11618)
Tạp A-hàm quyển 27 (734 - 747)

Kinh Tạp A Hàm

Tạp A-hàm quyển 27 (734 - 747)

Tỳ kheo Thích Đức Thắng

Nguồn: Việt dịch: Thích Đức Thắng
Hiệu đính & Chú thích: Tuệ Sỹ

KINH 734. QUẢ BÁO (1)[61]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp cô độc, cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo Tỳ-kheo kia:

Như đã nói trên, nhưng có một vài sai biệt.

“Nếu Tỳ-kheo đã tu tập bảy Giác phần như vậy, sẽ được hai loại quả: Hiện tại lậu tận mà Vô dư Niết-bàn, hoặc được quả A-na-hàm.”

Sau khi Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì Phật đã dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

KINH 735. QUẢ BÁO (2)[62]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp cô độc, cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ.

Như đã nói ở trên, nhưng có một vài sai biệt.

“Tỳ-kheo sau khi tu tập bảy Giác phần như vậy, tu tập nhiều, sẽ được bốn quả, bốn phước lợi. Những gì là bốn? Là quả Tu-đà-hoàn, quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm và quả A-la-hán.”

Sau khi Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì Phật đã dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

KINH 736. THẤT CHỦNG QUẢ[63]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp cô độc, cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ.

Như đã nói ở trên, nhưng có một vài sai biệt.

“Nếu Tỳ-kheo tu tập bảy Giác phần, tu tập nhiều, sẽ được bảy quả, bảy phước lợi. Những gì là bảy? Đó là Tỳ-kheo được niềm vui chứng chánh trí trong đời hiện tại[64]. Hoặc lúc qua đời, mà không được niềm vui chứng chánh trí trong đời hiện tại[65], nhưng lúc qua đời mà đoạn tận năm hạ phần kết, đạt được Trung Bát-niết-bàn. Nếu không được Trung Bát-niết-bàn, thì được Sanh Bát-niết-bàn. Nếu không được Sanh Bát-niết-bàn, thì được Vô hành Bát-niết-bàn. Nếu không được Vô hành Bát-niết-bàn, thì được Hữu hành Bát-niết-bàn. Nếu không được Hữu hành Bát-niết-bàn, thì được Thượng lưu Bát-niết-bàn.”

Sau khi Phật nói kinh này xong, Tỳ-kheo nọ nghe những gì Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 737. THẤT ĐẠO PHẨM (2)[66]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp cô độc, cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Gọi là giác phần, vậy thế nào là giác phần?”

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

“Thế Tôn là gốc pháp, là con mắt pháp, là nơi pháp y cứ; xin vì chúng con mà nói, các Tỳ-kheo sau khi nghe xong sẽ lãnh thọ thực hành theo.”

Phật bảo các Tỳ-kheo:

“Bảy Giác phần là bảy pháp Đạo phẩm[67]. Các Tỳ-kheo, bảy Giác phần này theo thứ lớp khởi, khi đã theo thứ lớp khởi rồi, thì sự tu tập sẽ đầy đủ”.

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

“Thế nào là bảy Giác phần theo thứ lớp mà khởi. Sau khi theo thứ lớp khởi, sự tu tập được đầy đủ?”

“Nếu Tỳ-kheo an trụ chánh niệm quán thân trên thân. Vị ấy sau khi an trụ chánh niệm quán thân trên thân, chuyên tâm cột niệm không quên, lúc bấy giờ tinh cần phương tiện tu Niệm giác phần. Sau khi tinh cần phương tiện tu Niệm giác phần, sự tu tập được đầy đủ. Nghĩa là khi đã tu Niệm giác phần rồi, thì tuyển trạch pháp, lúc bấy giờ tinh cần phương tiện tu tập Trạch pháp giác phần. Sau khi tinh cần phương tiện tu Trạch pháp giác phần rồi, sự tu tập được đầy đủ. Cũng vậy, đối với Tinh tấn, Hỷ, Khinh an, Định và Xả giác phần cũng nói như vậy. Như nội thân, cũng vậy an trụ chánh niệm quán ngoại thân, nội ngoại thân, thọ, tâm, pháp trên pháp, chuyên tâm, cột niệm, không quên lúc bấy giờ tinh cần phương tiện tu Niệm giác phần. Sau khi tinh cần phương tiện tu Niệm giác phần, sự tu tập được đầy đủ. Cho đến Xả giác phần cũng nói như vậy. Đó gọi là Tỳ-kheo đối với bảy Giác phần theo thứ lớp khởi; khi đã theo thứ lớp khởi rồi, sự tu tập đầy đủ.”

Sau khi Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì Phật đã dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

KINH 738. QUẢ BÁO (3)[68]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp cô độc, cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

Như đã nói ở trên, nhưng có một vài sai biệt.

“Tu tập bảy Giác phần này, tu tập nhiều, sẽ được hai quả: Hiện tại chứng trí; hoặc còn hữu dư y, chứng quả A-na-hàm[69].”

Sau khi Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì Phật đã dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

KINH 739. QUẢ BÁO (4)[70]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp cô độc, cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

Như đã nói ở trên, nhưng có một vài sai biệt.

“Nếu Tỳ-kheo tu tập bảy Giác phần, tu tập nhiều, sẽ được bốn quả. Những gì là bốn? Đó là quả Tu-đà-hoàn, quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm và quả A-la-hán.”

Sau khi Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì Phật đã dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

KINH 740. QUẢ BÁO (5)[71]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp cô độc, cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ.

Như đã nói ở trên, nhưng có sự sai biệt:

“Nếu Tỳ-kheo tu tập bảy Giác phần, tu tập nhiều, sẽ được bảy quả. Những gì là bảy? Đó là hiện tại chánh trí hữu dư Niết-bàn. Cho đến khi qua đời, nếu không vậy[72]. Nếu không như vậy, năm hạ phần kết hết, đạt được Trung Bát-niết-bàn. Nếu không như vậy, sẽ được Sanh Bát-niết-bàn. Nếu không như vậy, sẽ được Vô hành Bát-niết-bàn. Nếu không như vậy, sẽ được Hữu hành Bát-niết-bàn. Nếu không như vậy, sẽ được Thượng lưu Bát-niết-bàn.”

Sau khi Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì Phật đã dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

KINH 741. BẤT TỊNH QUÁN[73]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp cô độc, cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Nên tu Bất tịnh quán. Sau khi tu tập nhiều rồi, sẽ được quả lớn, phước lợi lớn. Thế nào là tu Bất tịnh quán và khi tu tập nhiều rồi, sẽ được quả lớn, phước lợi lớn? Tỳ-kheo ấy tu Bất tịnh quán song hành với Niệm giác phần, y viễn ly, y vô dục, y diệt, hướng đến xả. Tu Trạch pháp, Tinh tấn, Hỷ, Khinh an, Định, Xả giác phần, y viễn ly, y vô dục, y diệt, hướng đến xả.”

Sau khi Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì Phật đã dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

KINH 742. NIỆM TỬ TƯỚNG[74]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp cô độc, cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Nếu Tỳ-kheo nào tu tập niệm tưởng về sự chết, tu tập nhiều, sẽ được quả lớn, phước lợi lớn. Thế nào là Tỳ-kheo tu tập niệm tưởng về sự chết, tu tập nhiều, sẽ được quả lớn, phước lợi lớn? Tỳ-kheo tu tập niệm tưởng về sự chết cùng Niệm giác phần, y viễn ly, y vô dục, y diệt, hướng đến xả,… cho đến Xả giác phần.”

Sau khi Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì Phật đã dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

KINH 743. TỪ (1)[75]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại ấp Hoàng chẩm[76] của dòng họ Thích. Bấy giờ, buổi sáng sớm, số đông các Tỳ-kheo đắp y mang bát vào ấp Hoàng chẩm khất thực. Lúc ấy số đông các Tỳ-kheo nghĩ: ‘Nay còn rất sớm, chưa đến giờ khất thực. Chúng ta có thể ghé vào tinh xá ngoại đạo.’ Sau đó số đông các Tỳ-kheo liền vào tinh xá ngoại đạo, cùng các xuất gia ngoại đạo chào hỏi khích lệ nhau, rồi ngồi đối diện một bên. Các xuất gia ngoại đạo hỏi:

“Sa-môn Cù-đàm vì các đệ tử nói pháp như vầy: ‘Không đoạn trừ năm triền cái vốn làm phiền não tâm, tuệ lực suy yếu, là phần chướng ngại, không đưa đến Niết-bàn. Nếu khéo nhiếp tâm mình, an trụ bốn Niệm xứ, tâm câu hữu với Từ, không oán hận, không tật đố, cũng không sân nhuế, rộng lớn vô lượng, khéo tu tập sung mãn, bốn phương, bốn duy, phương trên, phương dưới, tất cả thế gian. Tâm câu hữu với Từ, không oán hận, không tật đố, cũng không sân nhuế, rộng lớn vô lượng, khéo tu tập sung mãn. Cũng vậy, tu tập tâm hợp với Bi, Hỷ, Xả cũng nói như vậy.’ Chúng tôi cũng vì các đệ tử nói như vậy. Vậy chúng tôi cùng với Sa-môn Cù-đàm kia có những gì khác nhau? Nghĩa là cả hai đều nói pháp!”

Khi các Tỳ-kheo nghe những lời của các xuất gia ngoại đạo nói lòng không vui, im lặng, không chỉ trích, từ chỗ ngồi đứng dậy, đi vào ấp Hoàng chẩm khất thực. Khất thực xong rồi trở về lại tinh xá, cất y bát, rửa chân xong, đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ dưới chân, rồi ngồi lui qua một bên, đem những lời của các xuất gia ngoại đạo kia trình lại đầy đủ lên Thế Tôn. Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Theo những lời nói của các xuất gia ngoại đạo kia, các ông nên hỏi lại là: Tu tập Từ tâm lấy gì làm chỗ tối thắng?[77] Tu tập Bi, Hỷ, Xả tâm lấy gì làm tối thắng? Khi được hỏi như vậy, của các xuất gia ngoại đạo kia trong lòng giật mình kinh hãi, hoặc nói quàng sang chuyện khác, hoặc nổi giận, khinh mạn, chê bai, phản đối, không nhẫn thọ, hoặc im lặng, buồn hiu, cúi đầu không nói lời nào, lặng lẽ tư duy. Vì sao? Vì Ta không thấy ai trong chúng chư Thiên, Ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn, Trời, Người nghe những điều Ta nói mà tùy thuận ưa thích, chỉ trừ Như Lai và chúng Thanh văn.

“Tỳ-kheo, tâm câu hữu với Từ, tu tập nhiều, tịnh là tối thắng[78]; Bi tâm tu tập, tu tập nhiều, Không nhập xứ là tối thắng[79]; Hỷ tâm tu tập, tu tập nhiều, Thức nhập xứ là tối thắng; Xả tâm tu tập, tu tập nhiều, Vô hữu nhập xứ là tối thắng.”

Sau khi Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì Phật đã dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

KINH 744. TỪ (2)[80]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp cô độc, cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Nếu Tỳ-kheo tu tập Từ tâm, tu tập nhiều, sẽ được quả lớn, phước lợi lớn. Thế nào là Tỳ-kheo tu tập Từ tâm sẽ được quả lớn, phước lợi lớn? Tỳ-kheo, tâm câu hữu với Từ, tu Niệm giác phần, y viễn ly, y vô dục, y diệt, hướng đến xả. Cho đến tu tập Xả giác phần, y vào viễn ly, y vào vô dục, y vào diệt hướng đến xả.”

Sau khi Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì Phật đã dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

KINH 745. KHÔNG[81]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp cô độc, cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Nếu Tỳ-kheo tu Không nhập xứ, tu tập nhiều, sẽ được quả lớn, phước lợi lớn. Thế nào là Tỳ-kheo tu Không nhập xứ, khi tu tập nhiều rồi sẽ được quả lớn, phước lợi lớn? Tỳ-kheo tâm câu hữu với Không nhập xứ, tu Niệm giác phần, y viễn ly, y vô dục, y diệt, hướng đến xả. Cho đến tu tập Xả giác phần, y viễn ly, y vô dục, y diệt, hướng đến xả.”

Sau khi Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì Phật đã dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

Như tu Không nhập xứ, cũng vậy ba kinh Thức nhập xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng nhập xứ cũng nói như trên.

KINH 746. AN-NA-BAN-NA NIỆM (1)[82]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp cô độc, cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Nếu Tỳ-kheo tu tập A-na-ban-na niệm[83], tu tập nhiều, sẽ được quả lớn, phước lợi lớn. Thế nào là tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, sẽ được quả lớn, phước lợi lớn? Tỳ-kheo tâm câu hữu với An-na-ban-na niệm, tu Niệm giác phần, y viễn ly, y vô dục, y diệt hướng đến xả,… cho đến tu Xả giác phần, y viễn ly, y vô dục, y diệt hướng đến xả.”

Sau khi Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì Phật đã dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

KINH 747. VÔ THƯỜNG

[84]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp cô độc, cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Nếu Tỳ-kheo tu Vô thường tưởng, tu tập nhiều, sẽ được quả lớn, phước lợi lớn. Thế nào là Tỳ-kheo tu Vô thường tưởng, tu tập nhiều, sẽ được quả lớn, phước lợi lớn? Tỳ-kheo tâm[85] câu hữu với Vô thường tưởng, tu Niệm giác phần, y viễn ly, y vô dục, y diệt hướng đến xả,… cho đến tu Xả giác phần, y viễn ly, y vô dục, y diệt hướng đến xả.”

Sau khi Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì Phật đã dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

Như Vô thường tưởng, cũng vậy hai mươi kinh: Vô thường khổ tưởng, Khổ vô ngã tưởng, Quán thực tưởng, Tất cả thế gian không khả lạc tưởng, Tận tưởng, Đoạn tưởng, Vô dục tưởng, Diệt tưởng, Hoạn tưởng, Tư tưởng,[86] Bất tịnh tưởng, Thanh ứ tưởng, Nùng nội tưởng, Phùng trướng tưởng, Hoại tưởng, Thực bất tận tưởng, Huyết tưởng, Phân ly tưởng, Cốt tưởng, Không tưởng, mỗi một kinh cũng nói như trên.




CHÚ THÍCH

[1]. Đại Chánh quyển 27. Phật Quang quyển 27. Quốc Dịch quyển 24. Pāli, S.46.56 Abhya.

[2]. Bản Pāli, quan điểm của Puraṇa Kassapa: natthi hetu natthi paccayo aññāya adassanāya ahetu apaccayo aññānaṃ adassanaṃ hoti không có nhân, không duyên cho sự vô trí và vô kiến; vì vậy, vô trí, vô kiến là vô nhân vô duyên. Xem thuyết vô tác(akiriya), D.ii. Smāññaphala-sutta.

[3]. Pāli, S.46.52 Pariyāya.

[4]. Hán: phản a mạ 反呵罵. Bản Pāli: neva abhinandiṃsu nappaṭikkosiṃsu, không hoan hỷ cũng không chỉ trích.

[5]. Hán: thuyết ngoại đạo pháp 説外道法. Tống-Nguyên-Minh: dư chữ . Xem đoạn văn tương đương ở kinh 714.thuyết

[6]. Bản Pāli: nāhaṃ... yo imesaṃ pañhānaṃ veyyākaraṇena cittaṃ ārādheyya aññatra tathāgatena vā tathāgatasāvakena vā ito vā sutvā, Ta... không ai có thể làm hài lòng với sự trả lời cho những câu hỏi này, trừ Như Lai hay đệ tử của Như Lai đã nghe từ đây.

[7]. Bản Pāli: ajjhattaṃ vyāpādo, bahiddhā vyāpādo, nội sân, ngoại sân.

[8]. Hữu thụy, hữu miên. Bản Pāli: thinaṃ nīvaraṇaṃ, middhaṃ nīvaraṇaṃ, hôn trầm là triền cái; thụy miên là triền cái.

[9]. Trạo (điệu) hối 掉悔. Pāli: uddhacca-kukkucca, bồn chồn và hối tiếc.

[10]. Bản Pāli: ajjhattaṃ dhammesu vicikicchā, bahiddhā dhammesu vicikicchā, hoài nghi các pháp bên trong, hoài nghi các pháp bên ngoài.

[11]. Bản Pāli: yadapi... ajjhattaṃ dhammesu sati tadapi satibojjhaṅgo, có chánh niệm nơi các pháp bên trong, đó là niệm giác chi.

[12]. Bản Pāli: ajjhattaṃ dhammesu paññāya pavicinati pavicarati... bahidhā dhammesu..., bằng trí tuệ mà khảo sát (tư trạch) và khảo nghiệm (tư sát) các pháp bên trong... các pháp bên ngoài.

[13]. Bản Pāli: kāyikaṃ vīriyaṃ... cetasikaṃ vīriyaṃ, thân tinh tấn, tâm tinh tấn.

[14]. Bản Pāli: savitakkavicārā pītī... avitakkāvicarā pītī, hỷ đồng hành với tầm tứ, hỷ không đồng hành với tầm tứ.

[15]. Nguyên Hán: thân ỷ tức, tâm y tức 身猗息,心猗息. Pāli : kāyapassaddhi, cittapassaddhi.

[16]. Bản Pāli: savitakko savicāro samādhi, avitakkao avicāro samādhi, định có tầm có tứ, định không tầm không tứ.

[17]. Bản Pāli: ajjhattaṃ dhammesu upekkhā, bahidhā dhammesu upekkhā, xả nơi các pháp bên trong, xả nơi các pháp bên ngoài.

[18]. Pāli, S.46.53 Aggi.

[19]. Bản Pāli:... līnaṃ cittaṃ hoti, katamesaṃ tasmiṃ samaye bojjhaṅgānaṃ akālo bhāvanāya... kālo bhāvanāya, khi tâm co rút, lúc ấy là hợp thời để tu tập những giác chi nào, không hợp thời cho sự tu tập những giác chi nào.

[20]. Xem cht.8 kinh 713.

[21]. Xem cht.6 kinh 713.

[22]. Hán: tiêu thán 燋炭. Bản Pāli:...allāni ceva tiṇāni,... allāni ca gomayāni, ...allāni ca kaṭṭhāni pakkhipeyya, bỏ vào những cỏ ướt, phân bò ướt, củi ướt.

[23]. Cf. S.46.2 Kāya; 46.51 Āhāra.

[24]. Hán: xúc tướng 觸相. Bản Pāli: subhanimitta, tịnh tướng.

[25]. Bản Pāli: ayonisomanasikārabahulīkāro, tu tập nhiều (với tịnh tướng) mà không tác ý một cách như lý.

[26]. Dục ái 欲愛. Pāli: kāmachanda.

[27]. Chướng ngại tướng 障礙相. Pāli: paṭighanimittaṃ, tướng đối nghịch hay đối ngại. Trong Pāli, paṭigha, có nghĩa là sân, cũng có nghĩa là đối nghịch (chướng ngại).

[28]. Bản Pāli: cetaso avūpasamo, tâm không an tĩnh.

[29]. Bản Pāli: mettācetovimutti, từ tâm giải thoát.

[30]. Hán: minh chiếu. Bản Pāli: atthi ārambhadhātu nikkamadhātu parakkamadhātu, có phát cần giới, tinh cần giới, dũng mãnh giới.

[31]. Pāli, S.45.83 Yoniso; 46.29 Ekadhamma.

[32]. Pāli, S.46.4 Vatta.

[33]. Hán: giác phần chánh thọ 覺分正受.

[34]. Pāli, S.46.8 Upavāṇa.

[35]. Ưu-ba-ma 優波摩. Pāli: Upavāṇa.

[36]. A-đề-mục-đa 阿提目多. Pāli: Adhimutta.

[37]. Thất giác phần phương tiện 七覺分方便. Pāli: susamāraddhā satta bojjhaṅgā, bảy Giác chi được khéo nỗ lực.

[38]. Lạc trú chánh thọ 樂住正受. Pāli: phāsuvihārāya saṃvattanti, chúng tác dụng để dẫn đến an trú lạc.

[39]. Hán: tri tư duy 知思惟. Ấn Thuận thêm từ bất 不, không biết tư duy.

[40]. Pāli, 46.42 Cakkavatti.

[41]. Bản Hán, văn đột ngột; có thể nhảy sót một đoạn. Xem kinh 722 dưới.

[42]. Pāli, S.46.42 Cakkavatti. Tham chiếu, N125(39.7), D.17 0Mahāsudassana-suttanta.

[43]. Hán: thất chi trụ địa 七支[14]拄地. Pāli: sattappatiṭṭhito. Bảy chỗ.

[44]. Bản Cao-ly: tận thời 盡時. Bản Tống-Nguyên-Minh: trú thời 住時, (ngay ban ngày).

[45]. Cf. S. 46.3. Sīla (phần đầu).

[46]. Nguyên bản: tăng, 僧. Theo Tống bản: y, 依

[47]. S.46.3 Sīla (phần đầu).

[48]. S. 46.24 Ayoniso.

[49]. S. 45. 2 Upaḍḍha.

[50]. Giáp cốc tinh xá 夾谷精舍.

[51]. Pāli: sakalam evidaṃ brahmacariyaṃ yadidṃ kalyaṇāmittā kalyāṇasahāyatā, chính toàn bộ đời sống phạm hạnh này là thiện tri thức, thiện đồng hành...

[52]. S. 46.16 Gilāna. Cf. D.16 Mahāparinibbāna-suttanta.

[53]. S. 46.22 Desanā.

[54]. S. 46.27 Nirodha.

[55]. S. 46.41 Vidhā.

[56]. S. 46.9-10 Uppannā; 46. 49 Aṅga.

[57]. Hán: trừ Phật điều phục giáo thọ 除佛調伏教授. Pāli: ...bojjhaīgā bhāvitā bahulīkatā uppannā uppajjanti nāññatra tathāgatassa pātubhāvā, giác chi được tu tập, được sung mãn, nếu chưa sanh thì sanh, trừ phi không có Như Lai xuất hiện.

[58]. S. 46.9-10 Uppannā. Xem kinh 731 trên.

[59]. S. 46.5 Bhikkhu.

[60]. Đạo phẩm pháp 道品法. Pāli: bodhāya saṃvattantī ‘ti ... bojjhaṅgā’ ti vuccanti, chúng tư trợ cho sự giác ngộ, nên chúng được gọi là giác chi.

[61]. S. 48.65 Dve phalā.

[62]. S. 48.12 Saṅkhita.

[63]. S. 46.3. Sīla.

[64]. Hán: đắc hiện pháp trí chứng lạc 得現法智證樂. Pāli: diṭṭhidhamme paṭikacca aññam ārādheti, ngay trong đời hiện tại nhất định chứng đắc chánh trí. Bản Hán hiểu ārādheti: vui thích; cũng có nghĩa là thành đạt.

[65]. Pāli: no ce diṭṭheva dhamme paṭikacca aññam ārādheti atha maraṇakāle aññam ārādheti, nếu hiện pháp không nhất định chứng đắc chánh trí, khi lâm chung sẽ chứng đắc chánh trí. Đây là kết quả thứ hai.

[66]. S. 46.5 Bhikkhu.

[67]. Xem kinh 733.

[68]. S. 48.65 Dve phalā.

[69]. Bản Hán: đắc hiện pháp trí hữu dư Niết-bàn cập a-na-hàm quả 得現法智有餘涅槃及阿那含果. Có sự nhầm lẫn. Pāli:diṭṭhiva dhamme aññā, sati vā upādisesa anāgamitā’ti.

[70]. Xem kinh 735.

[71]. Xem kinh 746.

[72]. Hán: cập mạng chung thời, nhược bất nhĩ giả 及命終時, 若不爾者. Tối nghĩa. Được hiểu như sau: Nếu không như vậy (không Chánh trí tức chứng quả A-la-hán trong đời hiện tại), thì kịp khi mạng chung (sẽ chứng Chánh trí lúc đó). Xem cht.69 kinh 738.

[73]. S. 46.67 Asubha.

[74]. S.46.68 Maraṇa.

[75]. S. 46.54 Mettaṃ.

[76]. Hoàng chẩm ấp 黃枕邑. Pāli: Koliyesu viharati haliddavasanaṃ nāma koliyānaṃ nigamo, trú ở Koliya, tại Haliddavasana, một thị trấn của người Koliya.

[77]. Bản Pāli:... bhāvitā... mettācetovimutti kiṃgatikā hoti kiṃparamā kiṃphalā kiṃpariyosanā, tu tập từ tâm giải thoát, hướng về đâu, cái gì là tối thắng, cái gì là kết quả, cái gì là cứu cánh?

[78]. Pāli: subhaparamā mettācetovimutti.

[79]. Pāli: ākāsānañcāyatanaparamā kuruṇācetovimutti, bi tâm giải thoát, Không vô biên xứ là tối thắng.

[80]. S. 46.62 Mettā.

[81]. S. 46.76 Nirodha.

[82]. S. 46.66 Anāpāna.

[83]. An-na-ban-na niệm 安那般那念. Pāli ; anāpānassati, niệm hơi thở ra vào.

[84]. S. 46.57-61 Aṭṭhika v.v.

[85]. Trong bản: tâm khẩu 心口, dư chữ khẩu.

[86]. Ấn Thuận y theo luận Du-già Sư Địa mà thêm vào.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567