ĐẠI LUẬN VỀ
GIAI TRÌNH CỦA ĐẠO GIÁC NGỘ
Tập 3
(Bồ-đề Đạo Thứ Đệ Đại Luận – Quyển Hạ)
Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
༄༅༎ བྱང་ཆུབ་ལམ་རིམ་ཆེན་མོ་། །།ཀ།།
རྗེ་ཙོང་ཁ་པ་བློ་བཟང་གྲགས་པ༎
Phần II: Tuệ Giác
Chương 23: Cá NhânThiếu Bản Chất Cố Hữu{nhân vô ngã}
(b')) Chỉ ra ví dụ minh họađiều gì
(1')) Ví dụ minh họa cách thức mà cá nhânthiếuvắngtự tính
(a")) Bác bỏ lập thuyết chotự ngã là một với các uẩn
(b")) Bác bỏ lập thuyết chotự ngã là khác nhau với uẩn
(c")) Làm thế nàocác luận điểm đócũng bác bỏ từng điều trong những luận cứ còn lại
(d")) Làm thế nào cá nhântrìnhhiện như một ảo ảnh dựa trên bác bỏđó
(2’)) Ví dụ minh họa cách cá nhânđó được xác lập dưới tên gọi khác nhau
(2)) Giảng dạy rằng tự ngã tự nó cũng được xác lập như thiếuvắng tự tính
–––––––\––––––
(b')) Chỉ ra cácví dụ minh họađiều gì?
Phầnnày thảo luận về điều mà ví dụ vềcỗ xeminh họa,có hai tiểu phần:
1. Ví dụ minh họa cách thức của nhân vô ngã
2. Ví dụ minh họa cách cá nhânđược xác lập dưới các tênkhác nhau
(1')) Ví dụ minh họa cách thức của nhân vô ngã
Phần này có bốn phân mục:
1. Phản bác của lập thuyết cho rằng tự ngã là một với các uẩn.
2. Bác bỏ lập thuyết chotự ngã là khác nhau vớicác uẩn
3. Làm thế nàocác luận cứ đó cũng bác bỏ từng điềutrong các lập thuyết còn lại.
4. Làm thế nào cá nhântrìnhhiện như một ảo ảnh dựa trên phản bácđó
(a")) Bác bỏ lập thuyết chotự ngã là một với các uẩn
Trong trường hợp tổng quát, chúng tôi thấy trong tụcgiới rằng khi một hiện tượng được phân loại trong suy tưởng là có mặt đồng thời,thìnó bị loại trừ khỏi trạng thái không có mặt đồng thời, và khi nó được phân loại là không có mặt đồng thời thì nó bị ngăn trừ khỏi trạng thái có mặt đồng thời.Một cách tổng quát, do đó, là mộtvà khác nhau, cũng như đơn nhấtvà nhiều, có tính loại bỏ lựa chọn còn lại vì việc không đi cùng nhauvà việc đi cùng nhaumột cách tương ứng là đơn nhất và nhiều.[731] Khi các ngươi phân tích rằng nói chungđiều gì đó phải là một hay khôngphải là một, thì sau đócác ngươi cũng sẽ phân tíchrằng trong trường hợp cụ thể của điềugì tồn tại nền tảng,thìnó phảilàmột một cách nền tảnghoặclà khác nhau một cách nền tảng.
Vì vậy, nếu một tự ngã hoặc một cá nhân tồn tại một cách nền tảnghoặc bản chất, thì nó chỉ có thể là mộtvớicácuẩn của nóhoặclàkhác nhauvớicác uẩncủa nó. Do đó, một thiền giả phân tích, suy nghĩ:"Có phải tự ngãnày là mộtmột cách nền tảngvới các uẩn? Hay là khác nhaumột cách nền tảng?" Banđầu, hành giả sẽ tìm một điềugì đó mà có thể mâu thuẫn với lập thuyết về việc là một, bằng cách suy nghĩ, "Nếu tự ngã và các uẩnđược xác lập như là mộtpháp tự tính,thìđiều gìcó thể mâu thuẫnvới việcnày?" PhậtHộđưa ra ba luận điểm mâu thuẫn với lập thuyếtđó: (1) Sẽ là vô nghĩa khiđề xuấtmột tự ngã, (2) sẽ có nhiều tự ngã, và (3) tự ngã sẽ lệ thuộc vào sựsinh khởi và tan rã. Nói rõ chi tiết:
1. Nếu tự ngã và các uẩn được xem là mộtmột cách tự tính,thì sẽ không có ý nghĩa gì trong việc khẳng định một tự ngã bởi vì nó sẽđồng nhấtvới các uẩn, giống như cung trăng và nơi cưu mang ngọc thố {thỏ ngọc}.[1]
Trung Luậncủangài Long Thọ cũng làm rõđiểm này:[2]
Khi không có tự ngã
Ngoại trừ các uẩn được chiếm hữu,
Thì các uẩn được chiếm hữulà tự ngã.
Trong trường hợp đó, tự ngã mà các ngươi đề nghị không tồn tại.
2. Nếu cá nhânvà các uẩn làmộtmột cách tự tính, thì cũngnhư người có nhiều uẩn, một người cũng sẽ cónhiều tự ngã. Hoặc, cũng giống như không có nhiều hơn một tự ngã, nên cũng sẽ chỉ có một uẩn. Đây là những sai lầm được đưa ra trongNhập Trung Luận của Nguyệt Xứng:[3]
Nếu các uẩn là tự ngã, thì vì
Có nhiều uẩn, cũng sẽ cónhiềutự ngã.
3. Căn Bản Trung Quán Luậncủa ngài Long Thọ khẳng định:[4]
Nếu các uẩn là tự ngã,
Thì, tự ngã sẽ lệ thuộc vào sự sinh khởi và tan rã.
Và:[5][732]
Vật gì bị chiếm hữu thìkhông là tựngã;
Chúng sinhkhởivà tan rã.
Các ngươi nên hiểu rằng "Vậtgì bịchiếm hữu" ở đây chỉđến các uẩn.
Nghi ngại:Có sai lầm gì khi cho rằng tự ngã là đối tượng chịu sự sinh khởi và tan rãmột cách chóng vánh?
Đáp:Nhập Trung Luậnvà Nhập Trung Luận Thíchcủa Nguyệt Xứng cho thấy ba sai sót trong luận điểm này: (1) trí nhớ về các kiếp sống trong quá khứ sẽ không vững chắc, (2) các hành vi đã làm rồi sẽ trở nên lụi tàn, và (3) các ngươi sẽ gặp phải những hậu quảcủacáchành vimà các ngươi đã không làm.
Giải thích chi tiết:
1. Nếu tự ngã đã khởi lênvà tan rã trong từng thời điểm, thì, vì tự ngã sẽ được phát khởivà tiêuhủymột cách nền tảng, nên các tự ngã trước và sau sẽ khác biệt nhau về đặc tính tự tínhcủa chúng. Trong trường hợp đó, Đức Phật đã không dạy, "Trong kiếpsống đó, vào thời điểm tađã làvua Mândhâtṛ{Trì Đạo}..."[6]vì tự ngã của vua Mândhâtṛ và tự ngã của Thế Tônsẽ khác biệt về đặc tính tự tínhcủa họ. Ví dụ, sẽ giống như Đề-bà-đạt-đa đang cố gắng nhớ lại những kiếpsống quá khứ của mình và nhớ nhầm, "ta đã trở thành Yajñadatta{Tế Thí}". Nếu không, khicác ngươi tranh luậnrằng thậtkhông cómâu thuẫn với kinh nghiệm trước đó được nhớ lại bởi một tự ngãsau đó,mặc dù tự ngã trước và sau là khác nhau về đặc tính tự tínhcủa chúng, thì các ngươi phải giải thích lý do tại sao tình trạng này là khác với kinh nghiệm của Đề-bà-đạt-đaqua việc không nhớđến Yajñadatta. Tuy nhiên, các ngươi không thể tìm thấy một lý lẽcho việc này. Điều này cũng tương tự nhưluận điểmbác bỏ sựsinh khởi từ {chủ thể} khác. Vềkhẳng định rằng hạt giống và mầmnon có tồn tại một cách tự tính hoặc nền tảng, nhưng vẫn khác nhau như nhân và quả, chúng tôi trả lời, "Nếu các phápkhác nhau một cách tự tính như vậy đã có thể lànhânvàquả, thì ngay cả một ngọn lửa sẽsinh khởira bóng tối".Điều này{tuy vậy vẫn}không xóa bỏ khẳng định rằng hạt giống và mầm nonlà khác nhaumột cách đơn thuần.
Có phải bản kinhđódạy rằng Thế Tônvà Mândhâtṛ là một? Đoạnvăn đó bác bỏsựkhác biệt của dòng tươngtục, nhưng không dạy rằng họlà một. [733] Theo Nguyệt Xứng, đây là lý do tại sao kinh kết thúc bằng câu nói, "Các ngươi có nghĩ rằng người trong kiếp sống đóđã làngười nào khác?Chớ nên thấy nó theo cách đó"
Một số người,nhầm lẫn về các tuyên thuyếttrong kinhđiển nhưthế,bảo thủlập thuyết sau: Đức Phật và những chúng sinh từ những cuộc sống trước đây của ngàilà một. Khi nóirằng: "Ta, trong một kiếpsống trước,đãtrở thành chúng sinh này", bản Kinh có ý là hai kiếp nhân sinh đó, đức Phật và tiền kiếp, là một và như nhau. Ngoài ra, vì bất cứ pháp cấu hợp nào đều tan rã trong từng thời điểm chóng vánh, và do đó không thể là như nhau, cả đức Phật lẫn các tiền kiếp đều thường tồn.
Trong số bốn tà kiếndựa trên các lý thuyết về quá khứ, đây là quan điểm đầu tiên.[7]Căn Bản Trung Quán Luậncủa tổ Long Thọ đã bác bỏnó:[8]
"Ta đã sinhratrong quá khứ"
Là một luận điểmkhông đứng vững.
Không phải chính người này
Vốn đãsinh ra trong những kiếpsống trước đó.
Nếu đúng như những người tuyên bố như thế, thì một sự tái sinh sẽ trở thành tất cả sáu tái sinh[9]bởi vì các chúng sinh tiếp nhận các thân tương ứng của mình trong sáu loại và thân trước và các thân sau sẽ là thân thường tồn.
Long Thọ cũng bác bỏ khẳng định rằng các cá nhântrướcvà sau là khác biệtnền tảng. Nếu tự ngã đã có một tự tính, thìcáctự ngã trước và sau sẽhoặc là một tự ngã nền tảng, vốn dẫn đến chủ trương thường tồn; hoặc chúng sẽ khác nhau một cách nền tảng, vốn dẫn đến chủ trương hư vô. Vì vậy,người tu tậpkhông nên khẳng định rằng tự ngã cótự tính.
2. Các nghiệp đãthực hiện sẽ bị tiêu hoại. Một số cho rằng nếu tự ngã đã sinh khởi và hủy diệt trong từng thời điểm bằng cáchcủa đặc tính tự tínhcủa chính nó, thìcáctự ngã sau vẫn sẽ được hưởng những hậu quảcủa các hành vicủacáctự ngã trước đó. Tabác bỏ khẳng định này trong ({điều} 3) dưới đây, nênở đây tacho rằng nếu trường hợpnày xảy ra, thì sẽ không có sự trảinghiệm về hậu quảcủa nghiệp trước đây đã tích lũy vì tự ngã vốnlà tác nhân của một hành visẽ tan rã trước khi trảinghiệm về hậu quả của nó, và sẽ không có tự ngã khácđểcó trảinghiệmnhư thế. Vìcác pháp trước và sau không khác nhaumột cách nền tảng, nên sẽ không có tự ngã sau vốn khác một cách nền tảng với tự ngã trước đó. Nếu các hậu quả không được trảinghiệm bởitự ngã trước, thì các hậu quả này phảikhông được trảinghiệm. [734] Tabác bỏ dưới đâycâutrả lờichorằngcáctự ngã trước và sau như thếlà trong cùng một dòng tương tục;[10]do đó, các ngươi không thể thoát khỏi ảo tưởng rằng các hành viđã được thực hiện sẽ bị hư hoại.
3. Các ngươi sẽ gặp phải những hậu quảcủa các hành vimà các ngươi đã không làm. Một số cho rằng mặc dù tự ngã trước phân hủy, nhưng tự ngã sau hưởngnhậnhậu quả;vì vậy, sự sai sótcủanhững hành vitiêu tan dầnvốn đã được thực hiện sẽ không phát khởi. Nếu trường hợpnày xảy ra, thì một người có thể tận hưởng hậu quảcủa nghiệp tích lũy bởingười khác, thậm chí không cóviệctích lũy ngay cả nghiệp nhỏnhất vốncó khả năng gây hậu quả đượctrảinghiệm. Điều này là bởi vì, theo các ngươi, các hậu quảcủa nghiệp tích lũybởimột con người tồn tạimột cách nền tảngđượctrảinghiệm bởingười khác, vốn là một cá nhân khác nhau một cách nền tảng. Như Nguyệt Xứngtrong Nhập Trung Luận khẳng định:[11]
Trước khi nhập Niết-bàn sẽ không có cácnghiệpquả,
Bởi vì các tác nhân phát khởivà phân hủy trong từng thời điểm của một hành vi sẽ không tồn tại để trảinghiệm hậu quảcủa nó.
Mỗi người sẽ có được những gìmàngười khác tích lũy.
Nguyệt Xứngđề cập đến ba sai lầm khác, nhưng dường như chúng chỉ bác bỏ những nhận định của các Phật tử{phái}khác. Vì tađang phát triểnmột phản bác tổng quát, nên tasẽ không đưa rachúngở đây.
Căn Bản Trung Luậncủa ngài Long Thọ cũng chothấyhai luận điểmđó:[12]
Nếu tự ngã này khác với một kiếpsống trước đó,
Nó sẽ khởisinh mà không cần {tự ngã}khác đãtồn tại.
Tương tự, tự ngã trước có thể vẫn còn lạiđó trong kiếpsốngđó;
Không có tự ngã đã chếtđó, tự ngã này có thể được sinh ra.
Sẽ cónhững hậu quả vô lý
Chẳng hạn nhưviệccắt đứtdòng tươngtục, việchao mòn của các hành vi,
Và việc trải nghiệm của mỗi cá nhân đối vớicáchậu quả
Của cáchành vi đã đượcthực hiện bởi những người khác
Điều này cho phép Nguyệt Xứng khai tháchai sai sót, sự hao mòncủa các hành vivà việc trảinghiệm vềcáchậu quả của các hành vithực hiện bởi những người khác. Cụm từ, "Nếu tự ngãnàykhác”có nghĩa là "Nếu tự ngãcủa một kiếp sốngtrước đó và tự ngã hiện tạikhác nhau một cách nền tảng".Nếu đây là trường hợp{xảy ra}, thì vì bằng bất cứ cách nào, tự ngã hiện tạisẽ không dựa trên tự ngã của kiếp trước, nó sẽ phát khởimà không phụ thuộc vào tự ngã cũ. [735] Ngoài ra, cũng giống như một miếng vải không bị phân hủy khicáiấm được tạo ra, tự ngã đầusẽ vẫn không phân hủy khi tự ngã sau sinh ra. Chúng tacó thể được sinh ra ở đây trong cuộc sống này mà chưachết trong cuộc sống trước đây củamình. Đây ýnghĩa của đoạn luận đó.
Phản biện:Các tự ngã của các đời trước và sau khácbiệtmột cách tự tính, nhưng những sai lầmnày – bao gồm các hành vi sẽ bị hoại diệtvà các ngươi sẽ gặp phải những hậu quả của các hành vi không được thực hiện– sẽ không phát sinh bởi vì có một dòngtươngtục duy nhấtkết nối cáctự ngã củanhữngkiếp sống khác nhau.
Đáp:Thậtlà không xác lậpđượcrằng cáctự ngã trongmột dòngtươngtụclà khác biệt vềđặc tính tự tínhcủa chúng, do vậy, có vẻ như các ngươi sẽ phải chứng minh điều đó. Thậtkhông biện hộ được cho việc các phápkhác nhaumột cách nền tảngcấu trúc thành một thể tươngtục duy nhất. Ví dụ, cũng giống như Phật Di-lặcvà Upagupta{Ưu-ba-cúc-đa}. Nhưtrong Nhập Trung Luận củaNguyệt Xứng khẳng định:[13]
Nếu ngươi cho rằng không có sai sót trong một dòng tươngtục tồn tại trongthực tại,
Thì tađã giải thích các sai lạc củamột dòng tươngtục như vậy khi ta phân tích điều này bên trên.
Về việc điều đó được phân tíchra sao,cùngmột văn bảnkhẳng định:[14]
Bởi vì các pháp[uẩn] liên kết với Phật Di-lặcvà Ưu-ba-cúc-đa
Là khác nhau, nên họ không được bao gồm trong một dòng tương tục.
Thậtkhông hợp lý rằng điềugì khác biệt trong đặc tính tự tínhcủa nó
Phảiđược bao gồm trong một dòng tươngtục duy nhất.
Nếu các phápkhác biệt về đặc tính tự tínhcủa chúng, thì như các dòng tương tục khác nhau, chúngkhôngthể được thừa nhận như một dòngliên tục duy nhất. Ngoài ra, chương 27trongCăn Bản Trung QuánLuậncủa Long Thọ dạy:[15]
Nếu một con người và một thiên nhânkhác nhau,
Thìsẽ không thể biện hộđể họở mộtdòng tươngtục duy nhất.
Nói ngắn gọn, bất cứ điều gìlà vật khácmột cách nền tảng phải được khẳng định để đứng vững trướcphân tích bằng việc lậpluận vốn giải trìnhcách thức mà nó tồn tại. Không có vật gì, ngay cả hạt tử nhỏnhất,vốn đứng vữngtrướcphân tích khi lý luận như vậy phân tích chitiết. Do đó, nếu một tự ngã sau trải nghiệm các hậu quả vềnghiệp tích lũy bởi một tự ngã trước đó và khác nhau một cách tự tính trong cùng một dòng tương tục, thì điều này không thể được phân biệt với trường hợp hoàn toàn song song của các tự ngã trong các dòng tương tục khác nhau. Các ngươi phải nhận ra rằng lập luận này áp dụng cho tất cả các trường hợp như thế!
Nghi ngại:Vì một ngườitrải nghiệm trong một tiền kiếpvà mộtngười ghi nhớ trong cuộc sống sau nàykhông làmột, nên hồi ức của các trải nghiệm trước đó vàsựthụhưởngnhững hậu quả củanghiệp trước đây đã tích lũy đượclàkhông đứng vững ngay cả trongchínhhệ thống của chúng ta, cũng giống như trong trường hợp về những người của các dòng tương tụckhác nhau.
Đáp:Chúng takhông mắc phảisai lầmđó. [736] Vì, trongcác hệ thống của những phía khác vốnkhôngkhẳng định sự tồn tại nền tảng thì nókhông thể vận hànhsao cho việcngười trải nghiệmvà người nhớở cùng dòng tươngtục,nhưng tronghệ thống của chúng tathật không mâu thuẫn cho việc họởtrong cùng một dòng tươngtục. Ví dụ, nếu một chim bồ câu đã ởtrên mái tranh của một ngôi nhàmàtrong đó có một hộp sữa chua, thì người ta có thể nhìn thấy dấu chân của nó có trong sữa chua mặc dù bàn chân của nó đã không bướcvào hộp đựngsữa chua.[16]Tương tự như vậy, cá nhâncủa kiếpsống này đã không quay trở lại kiếpsống trước đó, nhưng không phải là mâu thuẫn rằngmột cá nhân như thếnhớ được các trải nghiệmởđó. Tứ Bách LuậnThíchcủa Nguyệt Xứng khẳng định:[17]
Chúng tôi loại bỏbất kỳ quan điểmnàocho rằngcácnguyên nhân và hậu quả là giốnghoặc là khác nhau. Nếu chỉ có một dòngtương tụcvô thường của các yếu tốduyên khởi được mang đếnbởi các nguyên nhân cụ thể củachúng {các yếu tố đó}, thì thậtcólý khi nói rằng cái tự ngã tồn tại một cách quy gán vốn tương thích với dòng các yếu tố nhớ lại các kiếp sống của nó.Các phápkhông tồn tại bằng đặc điểm tự tính;điều đóđứngvữngtrênlý lẽvề việcchúngtương tác với nhiềuđiều kiện khác nhau và bịthay đổi. Vì vậy, các ngươi nên cẩn thận kiểm tra thực tế đáng kinh ngạc là các pháp có các nguyên nhân không tồn tại bằng đặc tínhtự tính của chúng. Bên trong một ngôi nhà, các ngươi có thể thấymột hộp đựng sữa chua, như thể nó là trênđất sét ướt,dấu chân của chim bồ câu đã đượcin rõ trên mái che nóc nhà. Nhưng chân của con bồ câu chưa hề bước vào hộp này.
Hãy đọctrong Nhập Trung Luận của Nguyệt Xứng vềmột luận bàn mở rộng vềđiểm này.
Hiệngiờ, chúng tôi sẽ giải thíchcáchàm ý trong ngôn ngữ bình thường. Tuyên bố rằng tự ngã là một với các uẩn hoàn toàn bị đánh đổbởi thách đố của Long Thọlà, "Làm thế nào có thể bị sở hữutrở thành sở hữu chủ?"[18]Vì chúng tôi sử dụng biểu thức thường tục, "Người này đã lấythân thểnày", nên các uẩn làvậtbị sở hữuvà tự ngã là sở hữu chủ. [737] Nếu các ngươi nói rằng hai điều đó là một, thì đối tượng và tác nhân sẽ là một; vì vậy, máy cắt và những gì được cắt, cái ấm và người thợ gốm, lửa và nhiên liệu, v.v… cũng sẽ là một. Căn Bản Trung Quán Luậncủa ngài Long Thọ khẳng định:[19]
Nếu nhiên liệu đã là lửa,
Thì, tác nhân và đối tượng sẽ là một...
Toàn bộ quá trình được giải thích
Cho tự ngã và cácuẩnbị chiếm hữu.
Việcsử dụng lửa và gỗ là tương tự,
Cũng nhưcái ấmvà vải và v.v….
Ngoài ra, trong Nhập Trung Luận của Nguyệt Xứng khẳng định:[20]
Thậtrõ ràng là không phù hợp đểcác sở hữu chủ làmột với những gì nósở hữu;
Nếuthậtđược như vậy, thì đối tượng và tác nhân cũng sẽ là một.
Dovậy, nếu tự ngã đã làmột với các uẩn, thì sẽ có sáu sai lạc: thậtlà vô nghĩa để khẳng định một tự ngã;sẽ có nhiều tự ngã;đối tượng và tác nhân sẽ là một; các hành vi đã được thực hiện sẽ bị tiêu hủy; những hậu quảcủa các hành vi không được thực hiện sẽ xảy ra;và các tuyên thuyếtcủa Đức Phật vềviệcnhớ các kiếpquá khứ sẽ là không hợp lệ. Vì vậy, đừngkhẳng định rằng tự ngãvà các uẩn là một.
(b")) Bác bỏ lập thuyết rằngtự ngã là khác nhau vớicác uẩn
Vấn:Tự ngãvà các uẩn không phải làmột một cáchtự tính, nhưngđiều sai lạc nào có trong khẳng định rằng chúngkhác nhaumột cách tự tính?
Đáp:Căn Bản Trung Quán Luậncủa ngài Long Thọ khẳng địnhsai lầmtrongđiềunày:[21]
Nếu tự ngã đã khác với các uẩn,
Nó sẽ không có các đặc tính của các uẩn.
Nếu tự ngã đã khác một cách nền tảngvới các uẩn, thì nó sẽ không có những đặc điểm của các uẩnvề việcsinh, trụ, và hoại diệt. Ví dụ, một con ngựa là điều gì đókhác hẳn một con bò, và vì vậy không có các đặc tính của một con bò. [738] Nếu ai đó vẫn nghĩ ngợi điều này, hãy lấytừ Minh Cú Luận của Nguyệt Xứng phép suy diễn này dựa trên những gì người khác chấp nhận: "Các uẩn không thể là cơ sở cho sự quy gán thường tục của một tự ngãvà không thể là các đối tượng đượchiểunhư là một tự ngã, bởi vì tự ngã là phi cấu hợp {pháp vô vi} – như hoa đốm giữa bầu trời hay Niết-bàn".[22]Nếu tự ngã không khởisinh và hủydiệt, thì nó sẽ là vĩnh viễn. Vì không có cách nào để tránh sự hàm ý rằng tự ngã sẽ là thường hằng, nên thậtlà vô nghĩa khigán đặt mộttự ngã bởi vì, như Phật Hộ đã chỉ ra, sẽ không thể tiến hành thiện đức hay quay lưng khỏi bất thiện.[23]Hơn nữa, nếu tự ngã có một tự tínhkhác nhau với các đặc tính định nghĩa của năm uẩn – chẳng hạn, là tương thích với sắc –thì điều này phải là hiển nhiên, cũng như là sắc và tâm, chẳng hạn, là khác nhau một cách hiển hiện. Vì tự ngã không được nắm bắttheo cáchthứcđó, nênnó không có ý nghĩa nàokhác ngoài những đặc điểm của các uẩn. Căn BảnTrung Quán Luậncủa ngài Long Thọ cho biết:[24]
Thật đơn thuầnkhông chính xác rằngtự ngã
Là khácvớicác uẩnbịchiếm hữu.
Nếu nó là khác, nó có thể đượcnắmbắt
Mà không có các uẩn bị chiếm hữu, nhưng không phảivậy.
Và Nhập Trung Luận của Nguyệt Xứng cho biết:[25]
Vì vậy, không có tự ngã nào khác hơn làcác uẩn
Bởi vì nếu không có các uẩn, nó không đượcnắm bắt.
Các triết gia phi Phật giáo, không nhận ra rằng tự ngã chỉ là một têngọivà lạithấy rằng thậtlà không thể biện hộđể nó làmột với các uẩn, gán đặt thêm một tự ngã vốnlà một cái gì đó kháchơnvới các uẩn như một vấn đềvềnguyên lý. Tuy nhiên, các thức ước lệbình thường trongcác dòngtâm thức của họ không thấy được nó theo cách ấy.
Các ngươi nênthực hànhnhiều lần để đạt được sự chắc chắn mạnh mẽ rằng các luận điểm như thế này mâu thuẫn với sự tồn tại của một tự ngã mà vốn khác nhau một cách nền tảng với các uẩn. Vì,nếu các ngươi khôngphát triển sự chắc chắn chân thậtvề sự phê phán của các lập thuyết về việc là một và là khác nhau, thì mặc dù các ngươi có thể quyết định rằng cá nhân thiếu vắng sự tồn tại tự tính, nhưng đó sẽ chỉ là một đề xuất chưa đươc chứng minh; do đó, các ngươi sẽ chưa thuđược quanđiểm đích thực.
Khi truy cứu để phân tích xem một cá nhâncó tồn tại trong thực tại, các ngươi nên phân tích xem cá nhân này, nếu tồn tại trong thực tại, sẽ là một hay làkhác với các uẩn. [739] Nếu người nàyđã làmột với các uẩn, thì sẽ có các phê phán thuyết phục, chẳng hạn như hàmý rằng tác nhân và đối tượng–ví dụ nhưlửa và nhiên liệu – sẽ là một. Nếu lửa và nhiên liệu được cho là một, các ngươi phải sử dụngnhận thứchiệu quảthế tụcđể bác bỏ lập thuyết đó;một nguyên lývốnkhông được chia sẻ bởi cả hai bên thì không phải là một phê phán có hiệu quả. Tương tự như vậy, có luận điểm –nhắm đến lập thuyết rằng tự ngã và các uẩn là khác nhau– cho rằng nếu chúngđã khác nhaumột cách nền tảng, thì giống như sắc và tâm, chúngsẽ phải được xem như là riêng biệt, nhưng chúngkhôngthế. Điều này được trình bày trong khuôn khổcủa sự không nắm bắt vềmộtkhác biệt như vậy bởi các thứcbình thường. Các tôn chỉriêng biệtkhông phải làmộtphê phán có hiệu quả.
Vì vậy, ngay cả khi các ngươi phân tích thực tại, cơ sở cuối cùng cho sự phê phánbất kỳ dẫn xuất từcácthứcthường tục không khiếm khuyếttrongcácdòng tâm thức của cả hai bên. Đoạnvăntừ Nhập Trung Luậncủa Nguyệt Xứng:[26]"Thế gian không có sự phê phántrong bối cảnh thực tại",cho thấy, nhưđãđược giải thích ở trên, rằng các thức thế gian khônglà cácnhận thức hiệu quả vềthực tại, nhưng điều này không phải là để phủ nhận rằng các thức thường tục không khiếm khuyết có thể đưa ra bằng chứng về sự mâu thuẫn trong bối cảnh nơi mà thực tại đang được phân tích. Vì, nếu chúng {các thức thường tục} khôngthể, thì sẽ không có cơ sở mà từ đó để phê pháncác tuyên bố riêng biệtcủacác phíakhác.
Có nhiềulập thuyết khác nhau về việc sử dụng Kinh điển trong tranh luận, một số chấp nhận nó và một số không;trong số những người chấp nhận nó, có bất đồng về những gì cần diễn dịch. Do đó, các ngươi phải sử dụng lý luận để chứng minh mọi thứ. Và loại lậpluậnnàokhác các ngươi có thể sử dụng? Đối vớicác khẳng địnhcủa phía khác, các ngươi có thể nóirằng:"Nếu các ngươi khẳng định điều này, thì các ngươi cũng phải khẳng định điều kia",và, "Nếu các ngươi không khẳng định điều này, thì liệucác ngươi cũng không khẳng định điều kia?" Nhưng làm thế nào có thể có sự chắc chắn mà không có một lý lẽvốndẫn xuấttừ sựtrải nghiệm thường tục được chia sẻ chung? Vì vậy, khi các ngươi truy nguyêntất cả các gốc rễ của các luận điểm để chứng minh và phê phánđến tậnnguồn của chúng, thì các ngươi đạt đến các thức thường tục không khiếm khuyếtcủacảhai bên. Nếu người nàokhẳng định một điều chitrái ngược với các thứcđó, thì cả hai bên sẽ thấy rằng trải nghiệm của họ bác bỏ nó. Như thế, hệ thống của tất cả các nhà Trung Quán và các prâmâṇika {người thật chứng}không đi xa hơn đều này. [740]
Tuy nhiên, chúng tôi tránh khỏi được những sai lầm mà các thức thường tục sẽ xác lập sự thiếu vắng về tồn tạitự tính và v.v... Nó tương tự như trường hợp về sựnhận thức xác lập rằng âm thanh là một sản phẩm sinh khởi, nhưng chưanhất thiết xác lập rằng âm thanh là vô thường. Tóm lược lại, gốc rễ tối hậu của điều muốn chứng minh và luận điểm phê phán dẫn xuất từ cảm nhận, nhưng nó không kéo theo rằng cảm nhận phải xác lập các điều gốc muốn chứng minh.[27]
(c"))Làmthế nào những luận cứđó cũng bác bỏtừnglập thuyết còn lại
Nếu tự ngã và các uẩn khác nhaumột cách tự tính, thì sẽ có hai cáchthức, trong đó chúngcó thể là cơ sở và phụ thuộc, như sữa chua trongmột cái bát. Hoặc là tự ngã có thể tồn tại trong sự phụ thuộc vào các uẩn,hoặc là các uẩn có thể tồn tại trong sự phụ thuộc vào tự ngã. Tuy nhiên, như trong lời giải thích vềcỗ xe,[28]vì chúngkhông khác nhaumột cách tự tính, nên chúngkhông tồn tại nhưlàcơ sở và phụ thuộc. Nhập Trung Luận của Nguyệt Xứng khẳng định:[29]
Tự ngã không phụ thuộcmột cách tự tínhvào các uẩn
Và các uẩn không phụ thuộc vào tự ngãmột cách tự tính.
Trong khicácquan niệm như thế có thểlàđúng nếu chúngđã khác nhaumột cách tự tính,
{Nhưng} vì chúngkhông khác nhaumột cách tự tính, nên đólà cácquan niệm sai lầm{về ngã}.
Lập thuyếtchorằng tự ngã sở hữu các uẩn cũng tương tự như những gì đã được giải thích đối với cỗ xe, do đó nó nênđược hiểumột cáchtương ứng. Nhập Trung Luận của Nguyệt Xứng khẳng định:[30]
Chúng tôi khôngcho rằng tự ngãsở hữu sắc uẩn.
Tại sao?
Vì tự ngãkhông tồn tại, nên sự sở hữu bởitự ngã là vô nghĩa.
Nếu chúng khác nhau, thì nó cũng giống nhưviệccó gia súc;nếu không, thì điều đó giống như việc có sắc.
Tuy nhiên, tự ngã thìkhông giống cũng không khác nhau với sắc.
Chẳng hạn,việc "có gia súc", là việc có con bò của Đề-bà-đạt-đa. Việc "có sắc" là, chẳng hạn,làviệc có sắccủa Đề-bà-đạt-đa.
Phải chăng chỉ một nhóm cácuẩn là tự ngã? Điều nàycũng sai vì tự ngã được cho là bị quy gán trong sự phụ thuộc vào ngũ uẩn và thật không biện hộ được đểcơ sở của sự quy gánlà đối tượng bị quy gán. Trong Nhập Trung Luận:[31]
Thuyết giảng của Đức Phậtkhẳng địnhrằngtự ngã tùy thuộc vàocác uẩn.
Do đó, một nhóm đơn thuầncủacácuẩn không phải là tự ngã. [741]
Hơn nữa, Nhập Trung Luậnvà Nhập Trung Luận Thích của Nguyệt Xứng khẳng định sự sai lạc nàyrằng nếu mộttập hợp các uẩn đơn thuầnlàtự ngã,thìtác nhân và đối tượng sẽ là một. Điều này là bởi vì bất kỳ ai tuyên bố rằng tự ngã sởhữucác uẩnriêng lẻ,thìphải chấp nhận rằng nó sởhữutất cả năm uẩn;vì vậy, nó cũng sẽ sở hữutập hợp của các uẩn. Đoạnnày từ Nhập Trung Luận có nghĩa là tập hợp {các uẩn}này là cơ sở để mà tự ngã được quy gán cho, nhưng {tập hợp này} không phải là tự ngã;điều này chothấyrõ ràng là các ngươi cũng phải khẳng định như thếđối với dòng tương tục của các uẩn.
Phản biện:Những thứ đókhông phải là tự ngã; mà đúng hơn, tôithừa nhậntự ngã như hình dạng đặc biệt của tập hợp các sắcvà v.v... Ví dụ, khi cácbánh xe, trục xe, v.v… của một cỗ xeđược lắp ráp, thì điều này được xem là một cỗ xe nếu hình dạng đặc biệt của một cỗ xe được tìm thấy.
Đáp:Chỉ có những gì có sắc tướng mới có thể có hình dạng, do đó, các thức, v.v… không thể được thừa nhận như là tự ngã. Trong Nhập Trung Luận:[32]
Nó có một hình dạnghay không?
Vì chỉ những gì có sắc tướng thì mớicó hình dạng,
Vớicác ngươi, riêng điều đó sẽ được gọi là "tự ngã".
Tập hợp của thức và v.v…
Sẽ không làtự ngã vì chúng không có hình dạng.
Cũng giống như một cỗ xe không tồn tại một cách tự tính trong bất kỳ cách nào củabảy cách, nhưng vẫnđượcthừa nhận trong sự phụ thuộc vào các bộ phận của nó, tự ngã khôngtồn tại một cách tự tính theo bất kỳcách nào trong bảy cách–là một với các uẩn, là khác với các uẩn, và v.v… – nhưng vẫn đượcquy gán trong sự phụ thuộc vào các uẩn.
Điều này chứng tỏ những gì Đức Phật đã dạy một cách ngắn gọn súc tích, bằng cách xem cỗ xe và tự ngã như là ví dụ và minh họa.
(d")) Làm thế nào cá nhân trìnhhiện như một ảo ảnh dựa trên phản bác đó
“Ảo ảnh" được cho là có hai nghĩa:{1} Các mệnh đềrằng Chân Đếgiống như một ảo ảnh,chẳng hạn, có nghĩa là mặc dù nó được xác lập như là chỉ tồn tạiđơn thuần, nhưng sự tồn tạithật sựcủa nó bịphủ nhận. {2} Các mệnh đềrằng các sắctướng và v.v…là các ảo ảnhcó nghĩa là những gì trìnhhiện như một sắc tướng, trong khi trống rỗng về sự tồn tại tự tính, cũng giống như một ảo ảnh. [742] Mệnh đềthứ hai về các điều này {các ảo ảnh} là điềumà taquan tâm ở đây. Mệnh đề thứ haicũng mang ý nghĩa của "ảo ảnh" trong ý nghĩa ban đầu;không phải luôn luôn chắc chắn rằng việc sử dụng ban đầumang ý nghĩa của "ảo ảnh" theo nghĩa thứ hai của nó.
Làm thế nào để các ngươi xác lập ý nghĩa thứ hai này của "ảo ảnh"? Các ngươi sử dụng hai loại nhận biết – một là nắm bắt một sự trình hiện và hai là chắc chắn về tính Không. Ví dụ, làm thế nào các ngươi có thể biết rằng một trìnhhiện của một con ngựa hay con voi là một trình hiện huyễn ảo hay sai lạc?Các ngươi cần cả một nhãn thức nhìn thấy một con ngựa hoặc con voihuyễnảolẫn mộtý thức thấybiết rằng con ngựa hay con voi không tồn tại như nó trìnhhiện. Tương tự như vậy, đểchắc chắn được rằng một người, chẳng hạn,là một sự trìnhhiện huyễnảohoặc sailạc, các ngươi cần cả sự xuất hiện không thể phủ nhận của ngườiđólênmột ý thức thường tục lẫnsự chắc chắn có bởi tri kiến lập luận rằng người đó là thiếu vắng tồn tại tự tính hay nền tảng. Kiến thức lý luận không xác lập rằngsự trình hiệntồn tại, trong khinhận thức hiệu quả thường tục không xác lập rằngnó thiếu vắng sự tồn tại của tự tính. Do đó, các ngươi cần cả tri kiến lậpluận tìm kiếm để xem liệu các pháp có tồn tại tự tính và các nhận biếtthường tục vốn nắm bắtcác sắc tướng và v.v…như là tồn tại.
Trong khi một sốngườinói rằng có rất nhiều cách để làm cho sắc tướngtrìnhhiện như một ảo ảnh, thậtlà không cần thiết để tự ngươi áp dụngcáckỹ năngcho việc làm phát khởi như thế, vì cáctrìnhhiện nhưthế, tự chúng có mặt một cách tự nhiên lên các thức thường tục vốn nắm bắt các sắc tướng đó. Qua việcphân tích chúng thường xuyên với lý luận kiểm tra xemliệu chúngcó tồn tạimột cách tự tính, các ngươi phát triển một điều chắc chắn mạnh mẽ rằng sự tồn tại tự tính bị bác bỏ. Sau đó, khi các ngươi thấymột sựtrìnhhiện phát khởi, thì nó trìnhhiện như một ảo ảnh. Không có cách riêng biệt nào để thiết lập một tính Không tựa-ảo-ảnh.
Các sư phụ trước đây[33]đãsử dụngthuật ngữ "Tính Không tựa không gian"{sự trống rỗng tựa không gian}để chỉ một tính Khôngvốnlà sựloạibỏ đơn thuần, bằng kiến thức lý luận, về tự tính của sự sinh khởi, của sự đoạn diệtvàv.v… trong chủ thể đang trình hiện. Họ sử dụng thuật ngữ "tính Không tựa ảo ảnh" để chỉ sự trìnhhiện hậu quả củacác sắcvà v.v…vốn có vẻ như là tồn tạimột cách tự tínhtrong khi được biết đến như là sự tồn tại thực sự trống rỗng về tự tính. [743] Do đó, ngay cả khi các ngươi đang tham gia vào các phương diệnứng xửcủa các tu tập –hạ bái,đinhiễu, và trì tụngv.v…– trước tiên các ngươi nên sử dụng lý lẽđể phân tích xem liệu rằng những tu tập đó có tồn tại về tự tínhhay không,và bác bỏ sự tồn tại tự tính của chúng. Bằng cách tham gia vào những tu tập nàydưới sự khống chếcủa sự chắc chắn rằng các tutập nàyvề bản chấtlàkhông tồn tại, các ngươi tu học để khởi lênsự trìnhhiệntựaảo giác và để thực hiệnnhững tu tập đó nội trong sự trình hiệnđó. Nếu các ngươi hiểu điều quan trọngnày, các ngươi sẽ có một hiểu biết vững chắc về cách thứcmà năng lực của việc nuôi dưỡng tính Không tựa không gian trong cân bằng thiền làm phát khởi tính Không tựa không gian trong trạng thái hậu cân bằng.
Ngoài ra, như giải thích ở trên,[34]nếu các ngươi thất bại trong việcgiới hạn đối tượng của sự phủ định khi các ngươi sử dụng lý lẽđể điều tra xem liệu tự ngã và các uẩn có là một, là khác nhau và v.v… hay không,thìkhi các ngươi nhìn thấy các luận điểm mâu thuẫn với những lập thuyếtđó, các ngươi sẽ nghĩ, "con người {các cá nhân}và v.v…không tồn tại gìcả", hoặc, "các phápnhư con người là các phi pháp, thiếu vắng tất cả mọi chức năng, như các sừng của một con thỏ và v.v…”.Đây là một quan điểm hư vô. Do đó, các ngươi cần phải nhận biếtrằng đây là một điểm mà các ngươi có thể bị trượt trong khuôn khổ của chínhkiến. Tứ Bách Kệ Tụng của Thánh Thiên nói:
Nếu điều này lànhư thế, thì làm sao có thể nói
Sự tồn tại đó tựanhư một ảo ảnh?
Tứ Bách LuậnThíchcủa Nguyệt Xứng cho ý kiến:[35]
Khi các ngươi nhìn thấy các sinh khởi phụ thuộc {duyên khởi}như chúng đang là, thì chúngtựanhư các sáng tạo của một nhà ảo thuật, không giống như con trai của một người phụ nữ hiếm muộn.
Nghi ngại: Vì phân tích này hoàn toàn bác bỏsựsinh khởi, nó dạy rằng các pháp cấu hợplà khôngđượcsinh khởi.
Đáp:Nếu làvậy, thì chúngsẽ không như các ảo ảnh. Nếu các ngươi có thể hiểu các phápvới các ví dụ như là con trai của một người phụ nữ hiếm muộn, thì nó sẽ kéo theo rằng các sự phụ thuộc duyên khởi làkhông tồn tại. Ta đang thận trọngvề điều này, nên ta không làm một sự so sánh; mà đúng hơn, ta so sánh chúng với những ảo ảnh và v.v…,các ví dụ vốnkhông mâu thuẫn với các duyên khởiđó. [744]
Như vậy, sẽ cómột sai lầm nếu tri kiến lậpluận vốn truy tầmđể xem liệu các phápcó tồn tạitự tính hay không, là đểnắm bắtảo ảnhđơn thuần như là tồn tại;nhưng các ngươi chắc chắn phải phát triển– trong vị thế sự tồn tại tự tính bị bác bỏ bởi phân tích luận lý – một sự nắm bắt về sự tồn tại của các pháp vốn chỉ là ảo ảnh.[36]Vì vậy, không có sự sai sót. Vì, Tứ Bách Kệ Tụng Luận Thíchcủa Nguyệt Xứng nói rằng một đối tượng ảo phải được chừa ra như một phần còn lại:[37]
Vì vậy, khi các ngươi phân tích theo cách này, các phápkhông được xác lập như là tồn tạitự tính;do đó, ảo ảnhvề các pháp cá thểđược chừa ranhưmộtphần còn lại.
Khi các ngươi bác bỏ sự tồn tại tự tính hoặc nền tảng của một chồi non, miễn là hiệu quả của việclập luậnkhông bị thoái hóa, thì lý lẽ phân tíchrằng liệusự tồn tại tự tính có khả biện không. Các ngươi không phát triển một hiểu biết vềchồi nonnhư tồn tạimột cách bản chất. Tuy nhiên, nếu các ngươi nghĩ rằng sự thiếu vắng về tồn tại tự tính của chồi non là tồn tại thật sự, hoặc là sự trìnhhiệntựaảo ảnhcủa điều vốn trống rỗng về sự tồn tại tự tính là tự nó thật sự tồn tại, thì đây là một lầm lạc mà ngươi phải bác bỏ qua sử dụng lập luận.Đi xa hơn điều này,một số người nghĩ rằng, ngay cả việcnắm bắtvềảo ảnh như là tồn tại,dính líu đếnviệc bám chấp vàosự nắm bắt của ảo ảnh,và do đó phải được loại bỏ. Đừng quan tâm đến ý niệm này, nếu không các ngươi sẽ phạm phải một sai lầm lớn; cụ thể là, bất kỳ sự chắc chắn nào về duyên khởi sẽ không thể xảy đến. Ta đã giải thích điềunày nhiều lần.[38]Đây không còn gì để nghi ngờ là một trường hợp về sự thất bại trong việc phân biệt giữa sự tồn tại của đối tượng ảo ảnh và sự tồn tại thật sự của đối tượng ảo ảnh.
Khi sự phân tích của các ngươi vềmột đối tượng sử dụng lý do để xóabỏ nó, trước tiên các ngươi nghĩ rằng, "Nókhông có ở đó".Sau đó, như là các ngươi cũng thấy người phân tích {chính mình}theocùng một cách, thì không cóaithậm chí biết chắc được sự không tồn tại đó. Nên, không có cách nào để xác địnhđược một pháp nào đó là hay không là điều gì, nó bắt đầu có vẻ là những gì xuất hiện đã trở nên mơ hồ và không rõ ràng. Điều này xuất phát dựa trên lý lẽ bác bỏ mọi thứ, mà thiếu đi việc phân biệt giữa sự tồn tại với tự tính với sự thiếu vắng của tự tính trong sự tồn tại đơn thuần, cũng như là với sự vắng mặt của nó {sự tồn tại}.Vìvậy, loại trống rỗngnày là một sựtrống rỗngvốnphá hủy duyên khởi. Cho nên, ảo ảnhnhư thuật ngữ mà chúng ta sử dụng chắc chắn không chỉđến các phát khởicủa một sự trình hiện mơ hồ không rõ ràng gây ra bởi loại nhận thức này. [745]
Vì vậy, khi phân tích lý luận, các ngươi đi đến chỗnghĩlà, "Người này thậm chí thiếu vắng hoàn toàn sự tồn tại khách quanhaynền tảng".Trên cơ sở đó, thật không khó khăn để đơn giản cóđượcnhững trìnhhiện có vẻ mơ hồ và không rõ ràng này. Loại trải nghiệm đó đếnvớitất cả những ai mongước một hiểu biết vềgiáo lý Trung Quán và nghe thấy một ít về giáo phápvốn cho thấy cách thứcmà các phápthiếuvắngtự tính. Tuy nhiên, thậtlà khó khăn để phát triển sự chắc chắn về cả hai: (1) sự bác bỏ hoàn toàn bản chất nền tảnghoặc nội tại và (2) sự hiển lộcủa chính các cá nhân thiếu vắng tự tính như là các cá nhân tích lũy nghiệp, những người trải nghiệm các hậu quả của nghiệp, và v.v...Thậthiếm khi xảy ra rằng một ai đó kết hợpđượccácnănglựcđể thừa nhận đượccả haiđiều này, nênrất khó để thấy ra quanđiểm Trung Quán.
Nếu không có sự kết hợp đó, thì không thể phủ nhậnrằng {1} như là sự chắc chắn về quan điểm triết lý tăng cường, như là sự chắc chắn về các phương diện ứng xử của việc thực hành giảm thiểu; cho đến mức {2} như là sự chắc chắn về các phương diện ứng xử tăng cường, như là sự chắc chắn về quan điểm {triết lý} giảm thiểu. Không có cách nào để phát triển sự chắc chắn mạnh mẽtương đươngchocả hai. Vì vậy, các ngươi chắc chắn sẽ rơi vào một cực đoan – {một là} sự gán đặt thêm việc nuôi dưỡng tri kiến về sự tồn tại tự tính, tức là quan điểm thường hằng, quan điểm thấy các pháp như là tồn tại tự tính – hay {hai là} cực đoan kia – việc phủ nhận một cách sai lầm cho rằng các pháp không có khả năng hoạt hóa, tức là quan điểm hư vô, quan điểm xem các sự vật như hoàn toàn không tồn tại. Vì vậy, Định Vương Kinhcho biết:[39]
Sau đó, đấng Chiến Thắng, người không còntộilỗivà đã thành tựu
Mười quyềnnăng [thập lực][40], đã giải thích sự cô đọngtối caonày:
Các trạng tháiluân hồi tựa một giấc mơ;
Ở đây không có sinh cũng không có diệt.
Chúng sinh, con người, vàthậm chísựsống không được tìmthấy.
Các pháp này tựa như bọt nước, như thânchuối,
Như ảo ảnh, ánhchớpcơn giông,
Như bóng trăng trênnước, như ảo giác sa mạc.
Chẳng ai chết trong thế gian này
Và qua đihoặc di chuyểnnhậpvề nơikhác.
Tuy nhiên, các hành vi đãthực hiện sẽ không bao giờ mất,
Vàcácquả của nghiệp thiện và bất thiện vẫn chín muồi trongthế gian. [746]
Không thường hằngcũng chẳng rơi vào đoạndiệt,
Cáchành vi không tích lũyvà cũng chẳng kéo dài.
Tuy nhiên, ngươi không thể tạo nghiệpmà không gặp nghiệp quảcủa chúng.
Ngươicũng khôngtrải nghiệm các nghiệpquả của nhữnghành vi từkẻkhác.
Vì vậy, mặc dù lý lẽkhông tìm thấy cá nhânvốn trải qua lúc sinhthànhvà chết đi, nhưng các hậu quả thiệnvà bất thiện có xảy ra trong cácpháp vốntựa như ảo ảnh. Vậy, các ngươi nên chắc chắn về những gì kinh điển dạy, rằng những người đã thực hiện các hành vi sẽ không trượt ra khỏi tiếp xúc hay trải nghiệm những hậu quả của các hành vi đó vàsẽ không gặp phải những hậu quả của các hành vi họ không làm, những hậu quả đóđược cảm xúchoặc trải nghiệm bởi những người nào khác đã làm các hành vi đó.
Hãy tìm kiếm điềuchắc chắnnày theo cách thức sau đây: Như đã giải thíchtừ trước, hãy tạodựngmột khái niệm rõ ràng về đối tượng mà lý lẽđó sẽ bác bỏ. Quán chiếumột cách cẩn thận, các ngươi phải nhận diệnđược người tồn tạimột cách tự tính {nhân ngã}nhưlànó đượcquy gán do sự thiếu hiểu biết{vô minh}trong dòng tâm thứccủa các ngươi. Sau đó, tập trung vào cách thức làm thế nào,mànếu có được sự tồn tại nhân ngã, thì cá nhân đóchỉ có thể là một hoặc khác với các uẩncủa nó, và cách thức làm thế nào lập luận mâu thuẫn vớicả hai lập thuyếtđó. Hãy phát triểntính chắc chắn trong việcphê phánnày. Cuối cùng, củng cố sự chắc chắn của các ngươi rằngcá nhânthậm chí không tồn tại một chút nào về tự tính. Trong thời kỳthiền về tính Không, hãy thực hànhđiều nàythường xuyên.
Sau đó, hãy giữ trongtâm trí{mình} rằng người thường tục là sự hiển hiện không thể chối cãi. Hãy chuyểnhướng tâm trí của các ngươi đến duyên khởi, trong đó cá nhânấy được thừa nhận như là người tích lũy nghiệp và là người trải nghiệmcác hậu quả, và trở nên chắc chắn về việc bằng cách nào duyên khởi là khả thi mà không cần sự tồn tại tự tính. Khi chúngcó vẻ mâu thuẫn, hãy suy nghĩ về cách thức mà chúng không mâu thuẫn,hãylấy một ví dụ như là mộtảnh phản chiếu. [747] Một ảnhphản chiếu của khuôn mặt là một liên kết không thể phủ nhận giữa(1) trạng thái trống rỗng của nhãn, nhĩ, và v.v…vốn trình hiệntrong {ảnh} đó và (2) trạng thái đượcsinh khởi trong sự phụ thuộc vào một tấm gương và một khuôn mặt, trong khiviệctan rã {xảy ra} khi một số duyên nào đó của các điều này đã mất đi. Tương tự như vậy, cá nhânthiếu thậm chí chỉ là một hạttửcủabản chấtnội tại, nhưng lại là kẻ tích lũynghiệp và là người trải nghiệmcác hậu quả, và được sinh khởi trong sự phụ thuộc vào nghiệp và cácphiền nãotrước đó. Đó không phải làmộtmâu thuẫn. Hãy tu tậptư tưởng nàyvà hiểu rằng nó là như thế trong tất cả các trường hợp như vậy.
Nghi ngại:Có phảichắc chắn rằng các ảnh phản chiếu đóvàv.v…là sự trống rỗng{tánh Không}củanhững gì dường nhưcấuthành tri kiến rằngchúng thiếuvắng tự tính? Nếu vậy, thìcáccảm nhận của chúng sinh bình thường sẽ cấu thànhtri kiến về tánh Không;vì vậy, họ sẽ là cácthánh giả. Nếu không, thì làm sao các ảnh phản chiếucó thể có chức năngnhư lànhữngví dụ của việc thiếu vắng tự tính trong những cá nhânđó và v.v…? Nếu Ngài phải vậndụng một lý lẽđể chứng minhsự thiếu vắng của tự tính ngay cả để hiểu các ví dụ, thì sẽ phải có một sự hồi quy vô tận khi Ngài xem xét các vấn đề đó như là những gì có thể được tiếp nhận như là những ví dụ của các ví dụ đó.
Trả lời bởi một học giả trước đây: Mặc dù chúng sinh bình thường có tri kiến nhậnthứcrằng cácphản chiếu và v.v… thiếu sựtồn tại tự tính, nhưng họ không phải là các thánh giảvì họ chỉ biết được sự trống rỗng của một chủ thểhạn chế. Để trở thành một thánh giả, người ta phải có tri kiến nhận thức rằng mọi hiện tượng thiếuvắngsự tồn tại tự tính.
Lập thuyết của chúng tôi: Trả lời đó là không đúng bởi vì Tứ Bách Kệ Tụngcủa Thánh Thiên nói rằng một người hiểu biết tánh Không– tức làhiểu biết việcthiếu vắng tự tính –của một sự việc thìcó thể biết được tính Không của mọi hiện tượng:[41]
Ai thấy được một điều
Là thấytất cảpháp.
Tính Khôngcủa một vật
Làtính Khôngcủa vạn pháp.
Do đó,ngườinàobiết rằng một ảnhphản chiếu là sự trống rỗng về thực trạng của một khuôn mặt sẽ không nắm bắt nó {ảnh phản chiếu} như một khuôn mặt thật sự, nhưng lại nắm bắt nó như là một ảnh phản chiếu tồn tại thật sự.Có mâu thuẫngìtrong đó?
Khi còn trẻ, các em chưa biết nói nhìn thấy các ảnh phản chiếu của gương mặt chúng, các em chơi với chúng và v.v…;do đó, các emnắm bắt chúngnhưlà các khuôn mặt thực sự. [748] Trưởng thành hơn, ngườibiếtnói chắc chắn được rằng,trongmột mức độ, các ảnh phản chiếu đó không phải là các khuôn mặt, chúng thiếu vắng về thực trạng các khuôn mặt;nhưng họ lại nắm bắtchính các ảnh phản chiếu đó, vốn có vẻ là các khuôn mặt, như là tồn tại theo tự tính. Sự nắm bắt đó là một quan niệm về sự tồn tại thật sự. Kinh nghiệm trong dòng tâm thức của chúng ta chứng minh rằng điều này là cách mà chúng ta nhìn thấy các ảnh phản chiếu.
Tuy nhiên, các ảnhphản chiếuvà v.v…là những ví dụ thích hợp cho việc thiếu vắng sự tồn tại tự tính. Tại sao? Chúng tôi sử dụng những ví dụđóbởi vì nhận thức xác lập rằng chúng thiếu đi thực thể mà chúng trình hiện như là, và do đó chúng không thật sự là những gì mà chúng trình hiện ra. Khi nhận thức hiệu quả xác lập “sự thiếu vắng về thực trạng mà nó trình hiện ra” này trong sự liên hệ đến các mầm non và v.v...,thì nhận thức đó biết được sự thiếu vắng tồn tại tự tính của các mầm non; theo cách thức này, các mầm non và v.v... khác với các ảnh phản chiếu và v.v...
Nhập Trung Luậncủa Nguyệt Xứng dạy:[42]
Cũng như các phápchẳng hạn cácấm đựngkhông tồn tại trong thực tại,
Tuy thế,[chúng]vẫn tồn tại trong khuôn khổcủa những gì quen thuộc với thế gian ...
Như là một ví dụ về việc thiếu vắng tự tính, ngàithuyết về"những thứ như các ấm đựng"vớinhững người ủng hộ tự tính. Tuy nhiên, như trong trường hợpảnhphảnchiếuvà v.v..., ngàichỉđến một sự thiếu vắnggiới hạn và không phải chỉ đến sự thiếu vắng về tự tính của chúng. Điều này là bởi vì, như đã giải thích trước đây, nhiều chứng minh vềviệc thiếuvắng của tự tính sử dụngcỗ xe vàv.v... như làcác ví dụ. Tương tự vậy, trong trường hợp vềảo cảnhcủa một nhà ảo thuật, các khán giả nắm bắtnó như là một con ngựa haymộtcon voithật sự; sự hiểu biết của ảo thuật gia rằng con ngựa hay con voi kia là giảchính là một hiểu biếtvềmột sự thiếu vắnghạn chế.
Trong mơ, các ngươi thấy một khung cảnhvà các nhân vậtcủa khung cảnh đó. Khi thức dậy, các ngươi hiểu rằng chúng sai lạc ở chỗ chúng trống rỗng vềnhững gì chúng trìnhhiện thành. Ngay cả trong khi ngủ các ngươi có thể nắm bắt chúng theo cách đó. Trong cả hai trường hợp, các ngươi hiểu được rằng những gì dường như là các nhân vậtnamvà nữ trong một giấc mơ không lànhững thực trạng của những ngườinamvà nữđó ngoài thực tế.Tuy nhiên, điều này không cấu thànhmột tri kiến rằnggiấc mơthiếu vắng về tự tính. Điều đócó thể so sánhđượcvới việc chắc chắn không có khuôn mặt trong một điều gì như là một ảnh phản chiếu.
Như trích dẫn trước đây, Nhập Trung Luận của Nguyệt Xứng cho biết, "Các pháp được quy gánlà cácảo ảnhsa mạc, các trò huyễn của nhà ảo thuật, và v.v... không tồn tại ngay cả đối vớithế gian".[43][749] Điều này có nghĩa là nhận thức hiệu quảước lệthông thườngkhông tin tưởng vào các thức vốn nắm bắtnhững thứ như nước, những con ngựa, voi, nam, nữ và v.v... là hiện hữu trong các ảo ảnh sa mạc, trò ảo thuật, và giấc mơ. Do đó, sự hiểu biết rằng các đối tượng được hàm chứa bởi các thức đó không tồn tại thì không phải là quan điểm vốn thấy biết được sự thiếu vắng về tự tính.
Vì vậy, các ngươi nên quán chiếuý nghĩa của ảo tưởngđược giải thíchbêntrên, bằng cách tụng cácbài kệtrong tạng kinh thâm diệu.Hãytiếp lấymệnh đề sau đâytừ Định Vương Kinh:[44]
Tựanhư một ảo ảnhsa mạc, một thành phố hão huyền, hay một huyễntưởng, hãy thiền liên kết đếncác biểu tướnglà thiếu vắng nền tảng. Hãy thấy biết tất cảcác pháptheo cách này.
Ánhtrăng chiếusáng quabầu trời đêmtrongvắtvà ảnh của trăng hiện rõ trên mặt hồ, song le trăng vẫn không chuyển vào trong nước. Hãy hiểu rõ đặc tính của các pháp đều như thế.
Người trong núi rừng trùng điệp nghe thấy những âm ba vang vọng từ bài ca, lời nói, giọng cười, và ngay cả tiếng khóc, nhưng điều gì tưởng chừng như ở đó thì lại không ở đó. Hãy thấy biết tất cảcác pháptheo cách này.
Dẫu cho các tiếng vang vọng kia phát khởi từ bài ca, điệu nhạc, và ngay cả tiếng khóc, thì cácâm điệu của những bài cađó v.v... đó sẽ không bao giờ có ở trong âm thanhcủatiếng vọng. Hãy thấy biết tất cảcác pháptheo cách này.
Ai có được các điều mong ước trong mộng khi tỉnh giấc và không còn thấy chúng, họ hẳn là khờ dại nếu vẫn thèm khát và bám víu vào chúng. Hãy thấy biết tất cảcác pháptheo cách này.
Những ảo thuật gia biến hóa các cảnh sắc nào ngựa, nào voi, nào các cỗ xe, những gì trình hiện kia hẳn đều không tồn tại. Hãy thấy biết tất cảcác pháptheo cách này.
Một bà mẹ trẻ thấy cảnh sinh và tử của con mình trong một giấc mơ, bà vui sướng khi sanh nở nhưng lại không mong lúc con lìa đời. Hãy thấy biết tất cảcác pháptheo cách này.[750]
Cácảnh phản chiếucủa trăng trìnhhiện vàođêm quang đãng,trên mặt nướctrong; chúng thật là rỗng tuếch và ảo huyền, không thể nắm bắt. Hãy thấy biết tất cảcác pháptheo cách này.
Một ngườibịdày vò bởi cơn khát, bộ hànhgiữatrưa hè,nhìn thấy ảo ảnhlà các vũngnước. Hãy thấy biết tất cảcác pháptheo cách này.
Dẫu nước không hề có trong ảo cảnh sa mạc, trạng thái bị đánh lừa muốn uống nước từ trong ảo cảnh đó. Đó là giả và không thể uống. Hãy thấy biết tất cảcác pháptheo cách này.
Một ai đó có thể lột đi thânmọng đầy nướccủa một cây chuối để tìm kiếmlõi cây, nhưng cả trong lẫn ngoài đều không có một lõi cây nào cả. Hãy thấy biết tất cảcác pháptheo cách này.
(2')) Ví dụ minh họa cách cá nhânđược xác lập dưới những tên gọi khác nhau
Khi một cỗ xe được quy gán trong sự phụ thuộc vào những thứ như bánh xe, các bộ phận đó là vật được chiếm hữu và cỗ xe là sở hữu chủ.Tương tự, khi tự ngãđược quy gán trong sự phụ thuộc vào năm uẩn, sáu đại, và sáu căn, thì chúnglà những đối tượng bịchiếm hữu{sở hữu} và tự ngãlà sở hữu chủ. Cũngthế,giống như một cỗ xe và các bộ phận của nó được thừa nhận là tác nhân và các đối tượng, tự ngãlà các tác nhân vì nó tóm giữcác uẩn và v.v...; các uẩn và v.v... là cácđối tượng, vì chúnglà những gì nó {tự ngã} tiếp nhận. Nhập Trung Luận của Nguyệt Xứng nói:[45]
Tương tự, trong khuôn khổ những gì quen thuộc củathế gian,
Tự ngãđược cholà sở hữu chủ
Trong sự phụ thuộc vào các uẩn,cácđại, và sáucăn.
Vật bị chiếm hữu là cácđối tượng và tự ngãnày là tác nhân.
Ngoài ra, như trong trường hợp cỗ xe, khi các ngươi phân tích thực tại thì mộttự ngãkhông được tìm thấyquabất kỳcách nàotrong bảy cách. Vìvậy, trong khi nó thiếu vắng hoàn toàn không chút dấu vết của sự tồn tại tự tính, mà khôngcó phân tích thì nó tồn tạimột cáchthường tục. [751]
(2)) Giáo phápvềcác ngã sởcũng qua đó được xác lập nhưviệcthiếuvắng tự tính
Khi lý luậntruy cứu để xem liệu tự ngãcó tồn tạimột cách tự tính hay không, thì lý luậnkhông tìm thấy nó trong bất kỳ cách nào củabảy cách. Vì vậy, khi lý luận đóđã phủ nhận sự tồn tại tự tínhcủa tự ngã,thìlàm saolý lẽcó thể tìm thấy "mắt thuộc về tự ngã", v.v...? Theo đó, những gì tự ngãsở hữu cũng thiếu vắng tự tính. Khi các thiền giảkhông thấy bất kỳ sự tồn tại tự tính nàotrong tự ngãhoặc trong những gì tự ngãsở hữu, thì họ được giải thoát khỏi luân hồi. Ta sẽ giải thích điều này dưới đây[46]. Căn BảnTrung Quán Luậncủa ngài Long Thọ nói:[47]
Nếu tự ngãkhông tồn tại,
Làm thế nào có thể có một điềugì đó thuộc về ngãsở?
Và Nhập Trung Luận của Nguyệt Xứng cho biết:[48]
Vì các đối tượng không tồn tại nếuthiếucác tác nhân,
Những gì tự ngãsở hữu không tồn tại nếu thiếu tự ngã.
Do đó, các thiền giảđược giải thoát qua việc thấy đượcrằng tự ngãvà những gì nó sở hữuđềulà trống rỗng.
Nhờ sức mạnhcủa việc hiểubiết rằngtự ngãthiếu vắngtự tính, các ngươi hiểuđượcrằng những ngãsở cũng thiếu tự tính. Các ngươi nêncó khả năng hiểuđược điều này, và cách thứcđể loại bỏ các quan ngạivề điểm này, dựa trên những gì ta đã giảngở trên.
[1]BA576 “người đàn ông trên cung trăng” {chú cuội?} trông như ngọc thố in bóng đối với người Ấn và Tạng.
[2]BA577 MMK: 27.5, dejong 1977: 41; D3824: Tsa 18al.
[3]BA578 MAV: 6.127ab, La Valine Poussin 1970b: 245; D3861: Ha 210M-2.
[4]BA579 MMK: 18.1ab, de Jong 1977: 24; D3824: Tsa 10b6.
[5]BA580 MMK: 27.6ab, de Jong 1977: 41; D3824: Tsa 18al-2.
[6]BA581 Laṅkâvatâra Sûtra {Lăng Già Kinh}, Suzuki 1932:122 {Theo truyền thuyết Bà-la-môn thì đây là một vị vua thuộc triều đại Ikshvaku được xem là tổ tiên cùa dòng họ Maurya, ông có 3 con trai và 50 con gái. Mândhâtṛ. Wikipdedia.org. Truy cập: 19/05/2012.
< http://en.wikipedia.org/wiki/Mandhatri>}.
[7]BA582 Trong Phạm Võng Kinh{skt. Mahâyâna-brahma-jâla-sûtra} (phần đầu của Digha Nikâya{là tên Pali của Trường Bộ Kinh}), 62 tà kiến được giải thích. Trong số này, 18 điều dựa trên các thuyết về quá khứ và bốn trong số đó là các quan điểm thường hằng. Quan điểm đầu trong số này là một kết luận khổ hạnh rằng tự ngã và thế giới là vĩnh hằng dựa trên các ký ức về các trải nghiệm trong quá khứ.
[8]BA583 MMK: 27.3, de Jong 1977: 41, D3824: Tsa 17b7.
[9]Tức là Thiên, nhân, a-tu-la, súc sinh, ngạ quỷ và địa ngục.
[10]BA584 LRCM:735ff.
[11]BA585 MAV: 6.128b-d, La Valtee Poussin 1970b: 247; D3861: Ha 210b2.
[12]BA586 MMK: 27.10-11, de Jong 1977:42; D3824: Tsa 18a3-4.
[13]BA587 MAV: 6.129ab, La Valine Poussin 1970b: 249; D3861: Ha 210b3.
[14]BA588 MAV: 6.61, La Vallee Poussin 1970b: 154; D3861: Ha 207a3-4.
[15]BA589 MMK: 27.16cd, de Jong 1977:42; D3824: Tsa 18a6-7. Tuy nhiên con người có thể tái sanh vào hàng chư thiên và vân vân.
[16]BA590 Yeshay Tapkay (đàm thoại) và Geshe Thupten Jinpa (trả lời cá nhân) giải thích rằng đó là sự tin tưởng chung tại Ấn khi điều này xảy ra. Nó không được xem như là một hiện tượng vượt quá khuôn khổ hiểu biết thông thường.
[17]BA591 Cśt ở Cś: 10.7, Lang 1986:96-97; P5266:242.5.8-243.1.4.
[18]BA592 MMK: 27.6cd, de Jong 1977:41; D3824: Tsa 18a2.
[19]BA593 MMK: lO.lab, 10.15, de Jong 1977:14-15; D3824: Tsa 6b6; 7a6.
[20]BA594 MAV: 6.137ab, La Vallee Poussin 1970b: 259; D3861: Ha 211al-2.
[21]BA595 MMK: 18.1cd, de Jong 1977: 24; D3824: Tsa 10a6.
[22]BA596 Một trích dẫn từ PPs: 343.5-6; D3796: Ha Illa7-b3.
[23]BA597 Phật Hộ trong MMK: 18.1; D3824: Tsa 240a6-7.
[24]BA598 MMK: 27.7, de Jong 1977:41; D3824: Tsa 18a2.
[25]BA599 MAV: 6.124ab, La Vallee Poussin 1970b: 242; D3861: Ha 210a6-7.
[26]BA600 MAV: 6.31b, được giải thích ở LRCM: 614ff.
[27]BA601 Đó là cảm nhận trực tiếp thông thường không nhận được tánh Không, nhưng tánh Không có thể được dẫn ra một cách luận lý bởi những điều có thể quan sát được từ một người thường.
Theo trường phái Pramāṇa {Thật Chứng} vốn mở đầu từ ngài Vực Long và Pháp Xứng, xem Dreyfus 1997.
[28]BA602 LRCM: 721.
[29]BA603 MAV: 6.142, La Vallee Poussin 1970b: 265; D3861: Ha 211a5.
[30]BA604 MAV: 6.143, La Vallee Poussin 1970b: 266; D3861: Ha 2Ua5-6.
[31]BA605 MAV: 6.135cd, La Vallee Poussin 1970b: 258; D3861: Ha 210a7; MAVbh, P5263:144.5.3-4.
[32]BA606 MAV: 6.136, La Vallee Poussin 1970b: 259; D3861: Ha 211al.
[33]BA607 'Jam-dbyangs-bzhad-pa (mChan: 657.2) chú giải điều này như là “các đại học giả và các dịch giả trong suốt thời gian {hoằng pháp} với các vua chúa và triều thần.
[34]BA608 LRCM: 579-580.
[35]BA609 Cśt ở Cś: 15.10, P5266:272.3.7-272.4.2.
[36]BA610 Thật sẽ là một sai sót khi cho rằng ấm đựng chẳng hạn được tìm thấy qua phân tích tối hậu. Ấm đựng không hề được tìm thấy bởi các thức lập luận như thế. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là ấm đựng không tồn tại. Khi ấm đựng sau đó trình hiện trước một người vốn đã chứng ngộ tánh Không, thì người đó sẽ đi đến chỗ thấu hiểu về đặc tính ảo ảnh của ấm đựng.
[37]BA611 Cśt trong Cś: 15.25, P5266:274.4.3-4.
[38]BA612 LRCM: 587-606, v.v...
[39]BA613 SR, D127: Da 96a2-5. 'Jam-dbyangs-bzhad-pa (mChan: 665.3-6) nói rằng các chúng sinh và v.v… tựa như bóng nước vì chúng trình hiện do duyên tương hợp và bị hủy diệt bởi các duyên rất nhỏ; chúng nhưcây chuối vì khi được phân tích chúng thiếu vắng nền tảng; tựa như trò huyễn thuật vì chúng trình hiện trong nhiều cách khác nhau nhưng lại trống rỗng về mọi thứ mà chúng trình hiện; như sấm chớp vì chúng xuất hiện và biến mất trong khoảnh khắc; như ánh trăng trên nước vì chúng trình hiện từ đời này sang đời khác nhưng không thật sự như thế; như ảo ảnh sa mạc vì chúng dường như tồn tại một cách tự tính nhưng lại không phải thế.
[40]Thập Lực hay mười quyền năng của một đức Phật (skt. daśabala) – Các tài liệu trình bày chi tiết có chút it khác nhau mô tả về các khả năng này – Ở đây theo từ điển mở Riga Shedra thì nội dung là: (1) biết rõ đúng và sai, (2) biết rõ nghiệp quả mọi hành vi, (3) biết nguyện vọng của chúng sinh, (4) biết tất cả các thành tố (các đại), (5) biết các khả năng khác nhau của chúng sinh, (6) biết tất cả các đạo pháp, (7) biết cách thức khác nhau để xác lập định lực từ thiền, (8) biết tiền kiếp của mình và người khác, (9) biết sự chuyển hóa chết và tái sinh tương lai và (10) biết các cấu nhiễm sẽ cạn kiệt hay biết lộ trình và kết quả. Ten Strength. Rigpa Shedra. Truy cập 05/20/2012.
<http://www.rigpawiki.org/index.php?title=Ten_strengths>
[41]BA614 Cś: 8.16, Lang 1986:82-83; D3846: Tsha 9b6.
[42]BA615 MAV: 6.113ab, La Vallee Poussin 1970b-. 223; D3861: Ha 209a6.
[43]BA616 MAV: 6.26cd; đã trích tại LRCM: 627.
[44]BA617 SR: 9.11-17 and 9.19-22, D127: Da 26a6-b4.
[45]BA618 MAV: 6.162, La Vallee Poussin 1970b: 281; D3861: Ha 212a5.
[46]BA619 LRCM: 763-768.
[47]BA620 MMK: 18.2ab, de Jong 1977: 24; D3824: Tsa 10b6.
[48]BA621 MAV: 6.165, La Vallee Poussin 1970b: 287; D3861: Ha 212a7.