ĐẠI LUẬN VỀ
GIAI TRÌNH CỦA ĐẠO GIÁC NGỘ
Tập 3
(Bồ-đề Đạo Thứ Đệ Đại Luận – Quyển Hạ)
Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
༄༅༎ བྱང་ཆུབ་ལམ་རིམ་ཆེན་མོ་། །།ཀ།།
རྗེ་ཙོང་ཁ་པ་བློ་བཟང་གྲགས་པ༎
Phần II: Tuệ Giác
Chương 24: Các Đối Tượng Thiếu Vắng Tự Tính
(3)) Làm thế nào để áp dụng những dòng lý luậntrênvào cáchiện tượng khác
(b)) Làm thế nào để xác định rằng các pháp cũng không có ngã
[(1)) Bác bỏ sinh khởi từ tự nó]
[(2)) Bác bỏ sinh khởi từ sự vật khác]
[(3)) Bác bỏ sinh khởi từ cả hai tự nó và từ sự vật khác]
[(4)) Bác bỏ sinh khởi không nguyên nhân]
[(5)) Làm thế nào để suy luận rằngsựsinh khởi tự tính không tồn tại]
(c)) Làm thế nào để loại bỏ những che chướng bằng cách trở nênquenthuộc với những quan điểmđó.
–––––––\––––––
3)) Làm thế nào để áp dụng những lốilý luậntrênvào cáchiện tượng khác
Cácluậnđiểm trêncũng áp dụng cho các phápkhác. Cũng như các phân tích vềtự ngã và các uẩn theo sau dạngthứccủa phân tích vềcỗ xe, các ngươi phảinhận thấyrằng điều này cũng xảy ra với những thứ như ấm đựng và vải. Khi lý luận tìm kiếm bản chất cố hữu trong bảy cách qua việcphân tích xem ấm đựngvà v.v... là một hay làkhác nhau vớicác sắc tướng,v.v...của chúng, thì chúngkhông được tìm thấy qua bất kỳ cách nào trong bảy cách trong khuôn khổcủa cả Chân Đế lẫn Tục Đế. Thay vào đó, chúngđược thừa nhận từ quan điểm của một thứcthường tục không phân tích. [752] Điều này là bởi vì Đức Phật áp dụngcác lập thuyết không dùng đếnlý lẽđể bác bỏ những gì thế gian biết, như được thể hiện bằng tuyên thuyếtcủa ngàitrong Tam Giới Giải Chương Kinh(Tri-saṃvara-nirdeúa-parivarta-mahâyânâ-sûtra):[1]
Thế giantranh luận với ta,
Ta không tranh luận với thế gian.
Bất kể điều gì được cho là tồn tại hay không tồn tại trongthế gian,
Ta cũngbảo lưu {y}như thế.
Theo đó, Nhập Trung Luận của Nguyệt Xứng cho biết:[2]
Bất cứ điều gì–ấm đựng, vảivóc, lềuchõng, quân đội, rừng cây, tràng hạt,cây cỏ,
Nhà cửa, tiểu xa {cỗ xe nhỏ}, nhà trọ, hay pháp bất kỳ như thế–
Các ngươi nên biếtcác ước lệ đượcsử dụng bởi những chúng sinhtục giới này.
Tại sao? Vì bậc Thánh Sưkhông tranh luận vớithế gian.
Bộ phận, phẩm chất,sự bám chấp, đặc tínhđịnh danh, nhiên liệu, v.v...
Cũng như, toàn thể,định phẩm, [cá nhân] bám chấp, sự định danh,sựcháy,v.v... –
Những đối tượng này không tồn tại trong bảy cách quaphân tíchnhư đượcáp dụng lêncỗ xe.
Mặt khác, chúng cótồn tại trong khuôn khổcủa những gì quen thuộcvới thế gian.
Bất kể các phápcó thể là gì, thì các ướclệđược sử dụng bởi những chúng sinhphàm giới này nên được biết đến như là tồn tạimà khôngcósự phân tích. Các ướclệ nàylà gì? Chúnglà các bộ phận và các toàn thể, v.v... Hãylấycái ấmlàmví dụ: ấmlà toàn thể, đã đủ đặc tính, và đã định danh; các chi tiết của ấm vàv.v...là những bộ phận; màu xanh và v.v... là những đặc tính; và hình dạng bầu bĩnh, tính chứanước, cổ dài, v.v... là những đặc tínhxác định. Các ví dụ khác, chẳng hạn như vải, được tiến hànhtrong cùng một cách.
Trong đoạn đó, “bám chấp”định nghĩa là sự bám víu và chấpthủmãnh liệt; "[người] bám chấp" là cơ sở của sự bám chấp đó, bởi vìtác phẩmNhập Trung Luận Chú Giảicủa Thắng Hỷ viết rằng: “[người] bám chấp” là một người có sự bám chấp. “Lửa” là tác nhân của việc đốt cháy, và “nhiên liệu” là đối tượng bị cháy.
Các toàn thểđược quy gán trong sự phụ thuộc vào các bộ phận và các bộ phậnđược quy gán trong sự phụ thuộc vào các toàn thể, và tương tự thế chomỗi thành phần trongcác cặp [phạm trù] kianhư đặc tính/định phẩm,v.v... cho đến và bao gồmcả nhiên liệu vàlửa. Nhiên liệu được quy gán trong sự phụ thuộc vào lửa, và lửađượcquy gán dựa vào nhiên liệu. Căn Bản Trung Quán Luậncủa ngài Long Thọ khẳng định:[3]
Các tác nhân khởi sinhtrong sự phụ thuộc vào các đối tượng,
Và các đối tượng khởi sinhtrong sự phụ thuộc vàochínhcác tác nhân này.
Ngoài điềunàyra, chúng tathấy không có cách nào
Để cho cáctác nhân và các đối tượng tồn tại. [753]
Và:
Tất cả những phápkhác nên được hiểu
Bằng cách của những gì ta đã giải thích về các tác nhân và các đối tượng.
Vì vậy, pháp được sinh khởi vàphápsinh khởi, lộ trìnhvà người du hành, vật được xem vàngườixem, nhận thức hiệu quả và đối tượng của sự nắm bắt, v.v... mọi pháp, nên được hiểu không phải là tồntại một cách nền tảngmà chỉ như là tồntại trong sự phụ thuộc lẫn nhau.
Theo đó, hãy tìm hiểu cách thức để tiếp nhậnhai chân lý{Nhị Đế}sao chomột sự vật –chẳng hạn như tự ngã – là thiếu vắng về tự tính qua phép phântích như thế, nhưng vẫn có thể tác độngvà bị tác độngtrong sự thiếu vắng về tự tính. Nếu các ngươi làm được điều này, thì bằng cách mở rộng hiểu biếtđócho tất cả các hiện tượng, các ngươi có thể dễ dàng thấy biếtđượcsự thiếu vắng tự tínhcủa chúng. Vì vậy, hãy nắm thật chắc ví dụ về cỗ xe và ý nghĩa của nó như ta đã giải thích bên trên.[4]NhưĐịnh Vương Kinhcho biết:[5]
Như nhận thức của các ngươi về tự ngã,
Hãy mở rộng loạihiểu biếtđólênmọi pháp.
Bản chất của mọi pháplà tinh khiết, tựakhông gian.
Các ngươi có thể biết tất cả chúng bằng cách biết một pháp;
Các ngươi có thể thấy tất cảchúngbằng cáchthấy mộtpháp.
Bất kể bao nhiêu sự vật các người đều có thể giải thích
Hãy đừng kiêu mạnvề điều đó.
(b)) Làm thế nào để xác định rằng không có tự ngã trong các pháp.
Các cơ sở màvới chúng cá nhânđược quy gán bao gồm năm uẩn, sáu đại – như thành tố đất–và sáu căn– gồm mắt và v.v... Đây là những đối tượng.Sự thiếu vắng về tồn tại nền tảng hay tự tính của chúng là sự vắng mặt của một tự ngã khách quan. Có nhiều cách để xác địnhrằng các đối tượng thiếu vắng một tựngãkhách quan. Tuy nhiên, Nhập Trung Luận của Nguyệt Xứng xác định rằng các phápthiếu vắng tự tính qua việcbác bỏ bốn loại sinh khởi. Vì Nhập Trung Luận Thíchcho rằng sự xácđịnh này là một xác định về sự vắng mặt của một tự ngã khách quan, nên giờ ta sẽ đưa ra một lời giải thích lược yếuvề phản bácđócủa bốn loại sinh khởi. Căn Bản Trung Quán Luậncủa ngài Long Thọ cho biết:[6]
Không có ý nghĩatrong đó bất cứ thứgì
Đã từng được sinh khởi
Hoặcbởichính nó, bởiđiều chikhác,
Bởicả hai, hoặc không có một nguyên nhân. [754]
Điều này có nghĩalà, trong vế: "Không bao giờ có một pháp bên trong hay bên ngoài bằng bất kỳ cách nào được sinh khởi từ chính nó”.Ba vếcòn lạicó thể được kiến lậptheocùng một cách.
Các luận điểm quy mậusẽ bác bỏ luận điệurằng một pháp nàođó có thể được sinh khởi từ chính nó. Vì thế, các luận thuyết {quy mậu} nàykhông cung cấp các ví dụ hoặc các lý lẽ để chứngminh, nhưng đưa ra một phê phán củacác lập thuyết tráingược.
Ở đây, nếu một sự vật nào đó đượcsinh khởimột cách tự tính,thìsự sinh khởi đóbịgiới hạn trong hai khả năng: hoặc là nó phụ thuộc vào một nguyên nhânhoặclànó không phụ thuộc vào mộtnguyên nhânnào. Do đó, nếu nó phụ thuộcvàomộtnguyên nhân, thì nguyên nhân và hậu quảnàylại bịgiới hạn tronghai khả năng: hoặc chúnglàmộtmột cách tự tínhhoặc chúng làkhác nhaumột cách tự tính. Sự sinh khởi, trong đó nhân và quả là một một cách tự tínhđược gọi làsựsinh khởi từ tựngã; sinh khởi, trong đó nhân và quả là khác nhaumột cách tự tínhđược gọi là sinh khởi từmột vậtkhác. Sự sinh khởi phụ thuộc vàomột nguyên nhân thìchắc chắn hoặclà sự sinh khởi từ tự ngã hoặclà sinh khởi từ một vật khác – vốn có thể được xem xét một cách riêng lẻ – hay trường hợp khác là sự sinh khởi kết hợp cả từ tự ngã lẫn từ vật khác. Một cách riêng lẻ, có hai trường hợp – sự sinh khởi từ tự ngã và sự sinh khởi từ vật khác. Do đó,đây là cách chúng tôi loại trừ các khả năng khác trong khi chỉ bác bỏ bốn loại có thể có của sinh khởi.
[(l)) Bác bỏ sinh khởi từ tựngã][7]
Nếumộtchồi nonđược sinh khởi từ tự nó, thì sự sinh khởi của nósẽ là vô nghĩa bởi vì sinh khởi có nghĩa là điều {vừa}được sinh rađãhình thành {từ trước đó}. Nếu nó được sinh ratừ chính nó,thìmột chồi nonđã hình thành {từ trước đó} –như trường hợp của một chồi nonđượcbiểu hiện rõ ràng.Sựsinh khởi cũng sẽ là vô tận bởi vì nếu một hạt giống đã đượcphát sinh {từ trước đó}, lạiphát khởithêmnữa, thì chính cùnghạt giốngđósẽ phải phát khởinhiều lần. Trong trường hợp đó, cósựsai lầm vì chính hạt giống tự nóđang phát khởi một cách liên tục, sẽ không bao giờ có một cơ hội cho sự sinh khởi của các chồi non và v.v... Căn Bản Trung Quán Luậncủa ngài Long Thọ cho biết:[8]
Nếu nhân quả là cùng một {vật},
Thì, vật được sinh khởi và vậtsinh khởi sẽ là cùng một {vật}.
Ngoài ra, Nhập Trung Luận của Nguyệt Xứng cho biết:[9]
Không có sự tiến triểntrong phát sinh từ chính nó;
Không có lý do gì để một pháp vốn đã được sinh khởi lại sinh khởi một lần nữa.
Nếu ngươi giả thiếtmột phápđã sinh khởilạiđược sinh khởinữa,
Thì việc sinh khởicủacác chồi nonvà v.v... sẽ không được tìm thấy trong thế giannày. [755]
Và:
Do đó, sựquy gán rằngcác phápkhởi lêntừ tự chúng
Làkhônghợp lý cả trong khuôn khổthực tạilẫn trong khuôn khổthế gian.
[(2)) Bác bỏ sự sinh khởi từmột vậtkhác]
Phản biện:Đức Phật dạyrằng cáchậu quả được sinh khởi từ bốn điều kiện {duyên} vốnlà sự vật khác.[10]Do đó, các phápđược sinh khởi từ một vật khác.
Đáp:Nếu các hậu quả đã được sinh khởi từ các nguyên nhân khác{với chúng} một cách tự tính, thì bóng tối dàyđặccó thể phát sinh thậm chí từ một ngọn lửa, vìcảhai là khácnhau {về tự tính}.
Hơn nữa, tất cả các pháp –bất kể chúngcó phải hoặc khôngphảilà các quả –sẽ được sinh khởi từ tất cả các pháp –bất kểchúng có là hoặc không là cácnhân–bởi vì chúng{đóng vai trò}như nhau trong sự khác biệt của chúng. Điều này có nghĩa lànếu các ngươi khẳng định rằng hạt giống và chồi nontồn tại một cách một cách nền tảng hay tự tính, thì thật rõ ràng là phương thức một chồi lúa non khác nhau một cách tự tính hay nền tảng với các sự vật vốn không thể sinh khởi ra nó, chẳng hạn như lửa, sẽ hoàn toàn có cùng một phương thức mà một chồi lúa non khác nhau một cách tự tính với nguyên nhân của nó, tức một hạt lúa. Đó là, khi một chồi non trình hiện khác nhau một cách tự tính với một sự vật nào đó, vốn không thể sinh khởi ra nó, thì một chồi non dường như khác trong ý nghĩa là tự tồn và độc lập, và chồi non đó sẽ dường như khác nhau theo cùng một cách thức khi nó trình hiện khác với hạt giống của chính nó. Nếu cách thức mà chúng dường như khác nhau là ở chỗ chúng trình hiện khác nhau một cách tự tính hay nền tảng, thì thật hoàn toàn không thể tạo ra sự phân biệt rằng chồi lúa non không được sinh khởi từ lửa và v.v..., mà được sinh khởi từ một hạt lúa.
Phản biện:Chúng tôi phân biệt pháp vốnsinh khởi một chồi nonvớiphápvốnkhông{sinh khởi ra nó}. Chúng tôi tạo sự khác biệt này trong khuôn khổ về việc liệu một vật nàođó khác với chồi non hay khôngtrong ý nghĩavề việckhác nhau một cách tự tính.
Đáp:Điều này đã thể hiện một mâu thuẫn. [756] Nhập Trung Luận Thíchcủa Nguyệt Xứng khẳng định điều này một cách rõ ràng:[11]
Cũng như một hạt lúa sinh khởilà khác với mầmlúanonvốnlà hậu quả của nó, do đó, những thứ như lửa, than, và hạt lúa mạch– vốnkhông sinh khởira nó–thì cũng khác nhau so vớimầm nonđó. Tuy nhiên, tương tựnhư một mầmlúa phát sinh từ mộthạt lúagiống vốnlàvậtkhác{về tự tính với nó}, mầm lúa đócũng sẽ phát sinh từ lửa, than đá, hạt lúa mạch, v.v...{cũng khác về tự tính với nó}.Và cũng giống như từ một hạtlúa giống ở đóphát sinh một mầm lúanonvốnlàvậtkhác, cho nênnhững thứ như ấm đựng vàvải cũng sẽ phát sinh từ một hạtlúagiống. Tuy nhiên, các ngươi không bao giờ thấy điều này. Do đó, điều này không đúng.
Vì thế,sự khẳng định [bởingười Tây Tạng trước đây] rằngcác dẫn xuất về luận lý đã được chứng minh qua rất nhiều các trường hợp riêng biệt [nghĩa là qua quy nạp] không phải là nhữngđiềuNguyệt Xứng quan niệm. Ta đã giải thích các luận điểm mâu thuẫn với luận điệu kể trên,trong phần về sựphản bác của lập thuyết vốnkhông được xác lập rằng, trong một nhà bếp, sự hiện diệnđơn thuầncủa khói đưa đếnsự hiện diện đơn thuần của lửa.[12]
Căn Bản Trung Quán Luậncủa ngài Long Thọ cho biết:[13]
Nếu nhânvàquả làkhácnhau,
Thì, các nguyên nhân và không phảinguyên nhân sẽ là giốngnhau.
Ngoài ra, Nhập Trung Luận của Nguyệt Xứng cho biết:[14]
Nếu các phápkhởi lêntrong sự phụ thuộc vào điều gì đókhác,
Thì, bóng tối dày đặc sẽ phát sinh thậm chí từ ngọn lửa.
Tất cả mọi thứ sẽ phát sinh từ tất cả mọi thứ.
Tại sao?
Bởi vì, với trạngthái là vật khác, tất cả cácvật vốn không sinh ra một vật nào đó {cũng} sẽ giống như các vật vốn là vật sản sinh của nó.
Các ngươi không thể trả lời cho các luận điểm quy mậu như thế bằng việc phân biệt điều gì sinh ra một sự vật với điều gì không {sinh ra sự vật đó} trong điều kiện nhưlàliệu rằng mộtsự vật nào đó có được bao gồm trong cùng một dòng tương tục với hậu quả hay không. Vì, như được giải thích ở trên, nếu các sự vật làvật khác trongý tưởng chúng khác nhau một cách tự tính, thì việc bao hàm chúng vào trong cùng một dòng tương tục không thể được xác lập.[15]Ngoài ra, thậtlà không đầy đủ để trả lời rằng chúng ta có thểtìmthấy một quy tắcxácđịnh như là với điều gì thì sinh khởi ra một hậu quả chắc chắn và điều gì thì lại không. Đâylà vì điềuchúng ta hiệnđang phân tích là liệurằng một quy tắc như thế có thể đứng vững hay không nếu sự khác nhau giữa một nhân và quả của nó là nền tảng đối với các đối tượng {là} tự chính chúng, thay vì được thừa nhận bởi tâmthức.
[(3)) Bác bỏ sinh khởi từ cả tự ngã và từ vật khác]
Những người ủng hộ sự sinh khởi từ cả tựngãlẫn từ một vật kháccho rằngsựsinh khởi một ấm đất từ đất sét làsựsinh khởi từ tự ngã và sự sinh khởi một ấm đất bởi mộtthợ gốm, v.v... là sinh khởitừ sự vậtkhác. [757] Ngay cả trong số các Phật tử có những người biện hộ cho sự sinh khởi của cả hai như sau: Vì Đề-bà-đạt-đa sinhratrong những kiếpkhác chỉ bằng cách của một nền tảngsống,nênĐề-bà-đạt-đa và nền tảngsống của ông talà một. Do đó, ôngtađược sinh khởi từ tựngã. Đồng thời,việcĐề-bà-đạt-đa được sinh khởi từcáccha mẹ và từ nghiệpthiện và bất thiệncủa mình tạo nênsựsinh khởi từsự vậtkhác.
Vì không có cả sựsinh khởi từ riêng một mình tự ngã màcũng khôngcó sựsinh khởi từ sự vật khác riêng rẽ,nên không có sinh khởi từcảhai với nhau. Cùng các luận điểm được nêu ở trên bác bỏ điều này.Nội trong sựsinh khởi từ cả hai, yếu tốcủa sựsinh khởi từ tựngãbị bác bỏ bởi những luận điểmvốn bác bỏ sinh khởi từ tựngã, và yếu tố sinh khởi từsự vậtkhác bịbác bỏ bởi những luận điểmvốn bác bỏ sự sinh khởitừ sự vậtkhác. Nhập Trung Luận của Nguyệt Xứng cho biết:[16]
Sinh khởi từcả hai cũng không hợp lý.
Tại sao?
Bởi vì các sai lạc đã được giải thíchxảy đến cho nó.
Sinh khởi từ cả hai cùng nhau không tồn tại cả trong khuôn khổcủathế gian lẫn trong khuôn khổ củathực tại,
Bởi vì, một cách riêng lẻ,thì sựsinh khởi từ tựngãvà từsự vậtkháckhông được xác lập.
[(4)) Bác bỏ sinh khởi không nguyên nhân]
Người ủng hộ Lokâyata vềnguồn gốctự pháttranh luậnrằng việc sinh khởi các phápchỉ là một vấn đề của nguồn gốctự phát, vìkhông ai được thấy việc vận hành để làm cho các rễ sen thô cứng hay để làm cho lá sen mềm mại, cũng không ai được thấy việc bắt những con công và v.v... để đặt các hình dáng và màu sắc lên chúng.[17]
Điều này là không chính xác. Vì nếu sự sinh khởi không có nguyên nhân, thì sự sinh khởichẳng hạn hiện hữu tại một thời điểm và một nơi sẽ phải hiện hữu tại tất cả các nơi và mọi thời điểm,hay nếu không, sự sinh khởi sẽ phải không bao giờ tồn tại ở bất kỳ nơi nào. Điều này là bởi vì các pháp khởi lêntại một địa điểm và thời gian, và không tại lúc khácchỗ khác, do sự hiện diệnhay vắng mặt củacác nguyên nhân của chúng – vốn là điều các ngươi không chấp nhận. Những “con mắt” trên lông đuôi của các con công cũng sẽ hiện hữu trên các con quạ và tương tự.
Tóm lược, nếu một sự vậtnàođó đã được sinh khởi không có nguyên nhân, thì nó sẽ phải được sinh khởi từ tất cả mọi thứ, hoặc nếu không,nó sẽ không bao giờ được sinh khởi. Chúng sinhtrong thế gian, để có được mộtquả mong muốn, sẽ không phải làm việc để tạo ra những nhâncủaquả đó, và mọi thứ sẽ là vô nghĩa. Nhập Trung Luận của Nguyệt Xứng nói:[18]
Nếu đúnglà các phápđược sinh khởi mà không có nguyên nhân, thì những chúng sinh thế gian này sẽ không đi qua hàng trăm gian khổđể thu thậpcáchạt giống và v.v... để nuôi lớncây trồng. [758]
[(5)) Làm thế nào để suy luận rằng sinh khởi nội tạikhông tồn tại]
Như vậy, bằng cách nhìn thấy các luận điểm mâu thuẫn vớibốn loạikhả năngsinh khởi, các ngươi xác lập rằng sựsinh khởi từ bốn cựcđoan nàykhông tồn tại. Điều này kéo theosự không tồn tại của sự sinh khởi tự tính, như đã được chứng minh trong phần vềviệcloại trừ các khả năng khác ngoài bốn khả năng này.[19]Do đó, các ngươi có thể sử dụng các điều [luậnđiểm] nàyđể trở nênchắc chắn rằng mọi thứ không tồn tạimột cách tự tính.
Khi các ngươi tạo ra các luận điểm quy mậu này, sự suy diễn do đó được hình thành; tại thời điểm đó không cómệnh đề của phép lập luận nào trực tiếp chứng minh luận thuyết. Nhập Trung Luận của Nguyệt Xứng chỉ ra một cách chính xác về các luận điểm mâu thuẫn vớibốn loại khả dĩnày của sự sinh khởi:[20]
Bởi vì các pháp không được sinh khởi từ tựngã, từ sự vật khác,từcả hai.
Hoặc không dựa vào các nguyên nhân,nênchúngthiếu vắng sự tồn tại tự tính.
Điều này cho thấy cách thức,mànhư một hậu quả của việc các luận điểm quy mậu đã khẳng định, để các ngươi có thể phát triển một suy diễndựa trên một lý lẽcủa phép lậpluận. Điều đó không có nghĩalà các ngươi bắt đầu bằng cách tuyên thuyết vớiđối phương rằng loại suy luậnnày dựa trên những gì phía khácchấp nhận.[21]
Bởi việc bác bỏ sự sinh khởi có tự tínhtheo cách này, các ngươi trở nên chắc chắn rằng mọi thứ không tồn tạimột cách tự tính;sau đó, thậtdễ dàng để chắc chắn rằngcác pháp vô vi [các hiện tượng thường hằng] cũng thiếu vắng sự tồn tại tự tính. Các ngươi qua đó tìm thấy quan điểm của Trung Đạo- có nghĩa là, sự hiểu biết rằng tất cả các hiện tượng là trống rỗng về tự tính.
Hơn nữa, Căn Bản Trung Luậncủa ngài Long Thọ nói:[22]
Rằng điều chi khởi sinh phụ thuộc [duyên khởi].
Thì một cách bản chất là thanh tịnh
Nhập Trung Luận của Nguyệt Xứng nói:[23]
Bởi vì các pháp sinh khởi phụthuộc.
Các quan niệm sai lầm này không thể chịunổisự sáthạch.
Do đó, lậpluận vềduyên khởi
Cắtđứttất cả các dínhmắc của cáctà kiến.
Theo đó, các ngươi sử dụng duyên khởinhư là một lý do đểtrở nên chắc chắnrằng các mầm nonvà v.v... làthiếu vắng về tự tính.Khi các ngươi làm điều này, sựxóa bỏ của bất kỳkhả năngsơ suấtnàolà rất rõ ràng trong tâm trí của các ngươi. Do đó, chúng tasẽ nói một chút về điều này. [759]
Trong trường hợp này, các ngươi sử dụng một luận điểm dựa trên những gì người khác chấp nhận: "Một mầm nonkhông tồn tại tự tính bởi vì việc sinh khởiphụ thuộc vào cácnhân và duyêncủa nó, như một ảnhphản chiếu".Ví dụ, khi ảnh phản chiếu của một gương mặt trình hiện, các trẻ nhỏ không nhìn thấy nó[gương mặt]và {không} nghĩ rằng:"Sự trìnhhiện của mắt, mũi, v.v... {trong gương} là như thế này từ cái nhìn của một tâm thức chẳng hạn như là của mình {khi đứa trẻ tự soi gương}, nhưng cách mà nó trình hiện thì lại không phải là cách mà nó tồn tại". Đúng hơn là, chúng {các đứa trẻ}xem những gì trình hiệnlà cách mà các phápthực sự tồn tại,làcách mà chúngđang là. Tương tự, khi các chúng sinhtrải nghiệm hay nhìn thấy một hiện tượng, họ không thấu hiểuđược nó như được thiết lập bởinănglựccủa tâm tới vậttrìnhhiện. Thay vào đó, họ nắm bắt nó ở vai trò tồn tạigiống như nó trìnhhiện, nghĩa là, như sự tồntại ở một cáchthức khách quan nền tảng. Đây là cách thức mà tự tính được gán đặt thêm. Sự hiện diện của một bản chất như thế trong đối tượng là điều được hàm ý qua bản chất nội tại hay nền tảng, và sự tự tồn. Vì vậy,nếu một bản chấtnhư thếđã có mặt,thìđiều này sẽ mâu thuẫn với sự phụ thuộc vào cácnhân và duyên khác. Nếu điều này không phải là một mâu thuẫn, thì sẽ không thể nào cho rằng một ấm đựng đã tồn tạithìkhông cần thiết phải được sinh khởi lần nữatừcác nhân và duyên. Theo đó, Tứ Bách Kệ Tụngcủa Thánh Thiêndạy:[24]
Điều vốn phát sinh một cách tùy thuộc
Không tồn tại tự nó;
Tất cả các pháp này đều thiếu vắng sự tự tồn.
Vì vậy, chúng không có ngã.
Và Tứ Bách Kệ Tụng Luận Thíchcủa Nguyệt Xứng đánh giá về đoạn kệ đó:[25]
Điều vốn có nền tảng tự tính, nội tại, tự tồn của riêng nó, hoặc độc lập với các pháp khác là tồn tại tự ngã và do đó không phải là một khởi sinh phụ thuộc. Tất cả các pháp cấu hợp đều là các sinh khởi phụ thuộc. Bất kỳ vật gì là một việc sinh khởi phụ thuộc thì không là tự tồn vì nó được sinh thành trong sự phụ thuộc vào các nhân và duyên. Tất cả các pháp này đều thiếu vắng tự tồn. Vì vậy, không có pháp nào có tự ngã, nghĩa là, tự tính. [760]
"Tự tồn" có nghĩa là một điều gì đó trình hiện một cách tự tính, và khi như vậy (1) nó trìnhhiện trước các thức cùng loại đó như là không phụ thuộc vào các pháp khác, và (2) nó tồn tại như là nó trình hiện. Tuy nhiên, nếu các ngươi xem sự tự tồn có nghĩa là không phụ thuộc vào các nhân và duyên khác, và bác bỏ loại tự tồn đó, thì sẽ không cần thiết để chứng minh sự thiếu vắng của loại tự tồn như thế cho các trường phái Phật giáo của chúng ta. Tuy nhiên, mặc dù bác bỏ điều đó, nhưng các ngươisẽ không thể tiếp nhậnquan điểm của trung đạo Trung Quán. Do đó, chúng ta xem sự tự tồn có nghĩa là một điều nào đó tồn tại trong phương cách sao cho nó có khả năng một cách nền tảng tự xác lập chính nó một cách khách quan.
Dovậy, vì tính Không {sự trống rỗng}vềtự tínhnói đến sự thiếu vắng về sự tự tồn vừa được miêu tả hơn là sự không tồn tại của các pháp đang hoạt hóa, nên các ngươi có thể dùng duyên khởi như là một lý lẽ để bác bỏ tự tính. Trích dẫn trước của Nguyệt Xứng trong Tứ Bách Kệ Tụng Luận Thíchtiếp tục:[26]
Do đó, vì trong hệ thống Trung Quánnày, duyên khởi nghĩa là thiếu vắng tính tự tồn, nên thiếu vắng sự tự tồn là ý nghĩa của tính Không; tính Không không có nghĩa là không có gì tồn tại.
Hậu quả là, quan điểm rằng các pháp đang hoạt hóakhông tồn tại là một phủ nhận sai lầm về sự tồn tại củacác pháp sinh khởi phụ thuộc {duyên khởi} tựa như ảo ảnh, kể cả thanh tịnh lẫn phiền não; do vậy, quan điểm đó là không chính xác. Quan điểm cho rằng các pháp tồn tại một cách tự tính cũng không chính xác vì bản chất nội tại như thế không hiện hữu trong bất kỳ sự vật nào. Do đó Tứ Bách Kệ Tụng Luận Thíchcủa Nguyệt Xứng tiếptục[27]:
Do đó, theo hệ thống Trung Quán này,quan điểm rằng cácpháp đanghoạt hóa đó không tồn tại là không chính xác trong mức độ mà nó phủ nhận một cách sai lạc sự hoạt hóa của duyên khởi và của các nguyên nhân tựa ảo ảnh, kể cả thanh tịnh lẫn phiền não.Bởi vì chúngkhông tồn tạimột cách tự tính,nênquan điểmrằng các pháptồn tạitự tínhcũng không chính xác. Vì vậy, đối với những ai cho rằng các pháp có tự tính, thì duyên khởikhông hiện hữuvà những sai lạc của các quan điểm thường hằng và hư vô xảy ra từ đó.
Do đó, những người muốnthoát khỏi các quanđiểmthường hằng và hư vô nên khẳng định cả việc thiếuvắng tự tính lẫnkhẳng định tính duyên khởi tựa ảo ảnh của cả các pháp dù thanh tịnh hay phiền não. [761]
Phản biện:Nếu Ngàisử dụngduyên khởi hoạt hóa để bác bỏ sự tự tồn, và bảo rằng việc thiếu vắng tự tồn nghĩa là đang là một sự sinh khởi phụ thuộc, thì làm thế nào Ngài bác bỏ chúng tôi? Vì chúng tôi [thuộc các trường phái Phật giáo khác] cũng khẳng định duyên khởi. Do đó, không có sự khác nhau nào giữa Ngài và chúng tôi.
Đáp:Mặc dù các ngươi khẳng địnhcác nhân và quả khởi sinh phụ thuộc, các ngươi lại giống như một đứa trẻ nắm bắt một ảnh phản chiếu của khuôn mặt như là hiện trạng một khuôn mặt thật. Các ngươi thật chất hóa sự sinh khởi phụ thuộc như là tự tính và sau đó gọi đó là bản chất của các pháp.Vì vậy, các ngươi không biết chính xác ý nghĩa của duyên khởi và các ngươi bày tỏý nghĩa của nó không chính xác. Vì chúng tôi cho rằng các việc khởi sinh phụ thuộc là thiếu vắng tự tính và tuyên thuyết như thế, đó là sự khác biệt giữa các ngươi và chúng tôi. Theo đó, Tứ Bách Kệ Tụng Luận Thíchcủa Nguyệt Xứng tiếp tục:[28]
Nghi ngại:Nếu việc thiếuvắngtự tồnnghĩa làmột sự khởi sinh phụ thuộc, thì làm thế nào Ngàibác bỏ chúng tôi? Điều gì khác biệt giữa Ngài và chúng tôi?
Đáp:Ta sẽ giải thích điều này. Các ngươi không hiểu làm thế nào để hiểu biết haybiểulộý nghĩa của duyên khởimột cách chính xác. Đó là sự khác biệt. Qua việc thật chất hóamột ảnh phản chiếu như là một sự thật, mộtđứa trẻ, ngườichưa biết nóingăn xóabảntánhthực,là tính Không;khi đứa trẻ nghĩ về ảnh phản chiếu và bản chất của nó,thìnhững ý tưởng đó về ảnh phản chiếulà các hiểu biết sai lạc {vô minh}. Tương tự, các ngươi khẳng định duyên khởi, nhưng trong lúccác việc khởi sinh phụ thuộc, như những ảnh phản chiếu,là thiếu vắngbảnchất nội tại, thì các ngươi không hiểu bản chất của chúngmột cách chính xác. Việcnày là bởi vì các ngươi không nắm bắtđiều gì thiếu vắng tự tính đúngnhư là việc thiếu vắng tự tính. [762] Các ngươi thật chất hóamột nền tảng vốnkhông tồn tạithànhmột nền tảngvốntồn tại. Các ngươi cũng không hiểu làm thế nào để thể hiện ý nghĩa của duyên khởibởi vì các ngươi không nói rằng đó là sự vắng mặt của tự tính, và bởi vì các ngươi gọi nó là nền tảngcủa các pháp.
Trong khi chúng tôivà họ là như nhau trong việc khẳng định duyên khởi của cácnhân và quả, thì sự khác biệt là chúng tôi hiểu, và họ thì không, rằng làm thế nào để biết và để bày tỏ duyên khởimột cách chính xác trong khuôn khổ về tự tínhvà sự vắng mặt của nó.
Những người ủng hộ về tự tính gọi một pháp là "thậtsự tồn tại" nếu nó có thể được chấp nhận như là một sự vật đang hoạt hóa, và trong số họcó vàingười[29]kết luận rằng sự tranh luận về việccác pháp cótồn tạithật sự hay khôngchỉ là mộttranh luận vềngữ nghĩa. Tương tự, họ nói rằng thật chỉlà ngữ nghĩa khi chúng tatranh luận với các nhà Y Tự Khởi- vìngay cả nhữngnhàY Tự Khởi cũng cho rằng các pháptồn tại bằng đặc tính tự tính của nó – rằng liệu một pháp nào đó vốn hoạt hóa một cách thường tục thì có một bản chất vốn tồn tại bằng tự tính của nó một cách thường tục hay không. Lời dạy này của Nguyệt Xứng rõ ràng bác bỏ các ý kiến này. Ví dụ, thậtsẽ là một người lố bịch nếu chorằng vì các nhà Số Luận {sâṃkhya}bảo rằngpháp vốnđược biết đến nhưlà đối tượng của nhĩthức làthường hằng, nên nhữngPhật tử chỉ đang ngụy biệnvề ngữ nghĩa khi họ bác bỏ sự vĩnh cửu của âm thanh trong khichấp nhận một phápđược biết đến như là đối tượng của nhĩthức.
Khi các chúng sinh khác nhìn thấy một điềugì đó đượcsinh khởi trong sự phụ thuộc vào các nhân và duyên, họ thấyđó như làtồn tại tự tínhhoặc nền tảng, và do đó họ bịtróibuộc trongluân hồi;nhưngvớicác thánh giả,thì sựsinh khởi phụ thuộc vào cácnhân và duyênlà lý do đủ để bác bỏ tự tínhvà phát triểnsựchắc chắn về việc thiếu vắng tự tính. Bởi vì nó cắt bỏ các nối kết vớicác quan điểm cực đoan, nên việc sử dụng duyên khởi như là một lý lẽđể chứng minh rằng không có tự tínhlà một phương pháp tuyệt vời và rất thiện xảo.
Sau khi Thế Tônthấy sức mạnh củađiểm này, ngàidạy[trong Vô Nhiệt Trì Long Vương Vấn Kinh]:[30]
Sự vật nào được sinh khởi từ các duyên thìkhông được sinh khởi;
Đókhông phải là sinh khởimột cách tự tính.
Bất kỳ sự vật nàophụ thuộc vào các duyên, Ta xem xétlà Không;
Kẻnào hiểu đượctánh Không là mẫn tiệp. [763]
Hai dòng đầu tiên có nghĩa là sự sinh khởi từ các duyênbuộc dẫn đến rằng đókhông là sinh khởitự tính. Dòng thứ bakhẳng định việc sinh khởi phụ thuộc vốn nương dựa vào các duyên, là ý nghĩa của sự thiếu vắng về tự tính. Dòng thứ tư cho thấy lợi ích của việc thấu hiểu tính Không theo cách này.Tương tự như vậy, bộ kinhđódạyrằng bằng cách hiểu biết duyên khởi, các ngươi đoạn tuyệt với cácquan niệm cựcđoan:[31]
Các thiện tri thứcsẽ hiểu biết các phápsinh khởi phụ thuộc,
Và tránh khỏi các quan điểm cực đoan.
Hơn nữa, nếucác pháp tồn tại một cách tự tính hay nền tảng, thì Đấng Chiến Thắngvà các đệ tử của ngàiđãphải thấybiếtchúng theo cách đó, nhưng họ đã khônghề thấy thế. Và vì những gì tồn tại một cách tự tính thì sẽ không hoạt hóa được theo bất kỳ cách thức nào thông qua các duyên, nên nó không thể cắt đứt mạng lưới các diễn tưởng, nghĩa là các danh định của các biểu tướng; do đó, sẽ không cósự giải thoát. Như Trang Nghiêm Tượng Kinh(Hasti-kaksya-sutra) cho biết:[32]
Nếu các pháptồn tạimột cách tự tính,
Thì, Đấng Chiến Thắngvà các đệ tử của ngàisẽ biết điều đó.
Với các pháptĩnhlặng, thì không aisẽvượt qua khỏi khổ đau.
Thiện tri thức sẽkhông bao giờ được miễn trừ khỏi các diễn tưởng.
Trongcácchương thứ ba, thứ tư và thứ năm [của tác phẩm Căn Bản Trung Quán Luậncủa Long Thọ], có các luận điểm bác bỏ tự tính của các căn, các uẩn, và các thành tố {đại}. Trongviệcchứng minh rằng các đối tượng thiếuvắngtựngã, cũng thậtlà tuyệt vời để sử dụng các luận điểm đó. Tuy nhiên, ta đang thận trọng trong để không trở nên dàihơivà sẽ khôngchi tiết hóa thêm.
(c))Làm thế nào để loại bỏ những chướngngạibằng cách trở nênquenthuộcvới những quan điểmđó
Sau khi các ngươi đã thấy rằng ngãvà các ngã sởthiếu vắng ngay cả một hạt tửnhỏ nhất về bản chất nội tại, thì các ngươi có thể tự làm cho quenthuộc với những thực tế này, từ đó ngừngquan điểm thật chất hóavềcáchoạiuẩn như là tự ngãvà các thuộctínhcủatự ngã. Khi các ngươi ngưng quan điểm đó,thìcác ngươi cũng sẽ ngừng bốn loại chấp thủ, bám chấp vàonhững gì các ngươi muốn, v.v...–đã được giải thích trước đây.[33]Khi các ngươi ngừngnhững điềunày, thì sự tồn tại được tạo duyên bởi tham chấpsẽ khôngcònxảy ra;vì vậy, sẽ cómột chấm dứtcho sự táisinh của các uẩn được tạo duyênbởi sự tồn tại;các ngươi sẽ đạt được giải thoát. CănBảnTrung QuánLuận[764] của ngài Long Thọdạy:[34]
Bởi vì sựdẹp yêncủa tự ngãvà điều mà ngã sở hữu,
Quan niệm "Ta" và "của ta" sẽ bị tiêu tan.
Và:
Khi các ý tưởngvềngãvà các ngã sở
Bịdập tắt trong khuôn khổcác pháp bên trong và bên ngoài,
Sự bám chấp sẽ dừng lại;
Thông qua sự diệt độcủa nó, sinh sẽ bịdập tắt.
Theo đó, vì việc nắm được việc chấp thủ là một phiền nãovà sựtồn tại tiềm năng là nghiệp, nên các ngươi được giải thoát quaviệcdập tắt những nguyên nhân của sự sinh khởi, tức là nghiệp và phiền não. Căn Bản Trung Quán Luậncủa ngài Long Thọ nói:
Qua việc dậptắtnghiệp và các phiền não, nên có sự giải thoát.
Đối với sự tiệt trừmà qua đó nghiệp và phiền não bịdập tắt, cùng một đoạnkệtiếp tục:
Nghiệpvà phiền não khởi sinh từ các quan niệm sai lầm{vô minh};
Vô minhphát sinh từ các diễn tưởng;
Cácdiễn tưởngbị ngừngbởi tánh Không.
Đó là, dòng chảyluân hồi của sinh và tửphát sinh từ nghiệp. Chỉ có hành vi cấu hợp {hữu lậu}về thể chất, lời nói, và tinh thần{thân, khẩu, và ý} liên kết với một tâm thức phiền nãokiến tạo nên nghiệp vốnxác lập luân hồi, do đó, nghiệp phát sinh từcácphiền não. Các phiền não vốn có gốc rễtừ quan điểm thật chất hóavềcác hoại uẩn thì không phát khởimà không có sựvận hànhcủa các quan niệm sai lầm vốngán đặt các biểu tướng nhưlà cảm xúcdễ chịu và khó chịulêncác đối tượng. Vìvậy, các phiền não như tham chấp và thù địch, bắt rễtừ quan điểm thật chất hóavềcác hoại uẩn, được sinh khởi từ những quan niệm sai lầm như thế. Những quan niệmsai lầmnày vận hành một cách sai lạc chỉ bởi việcbám chấp vào ý tưởng:"Điều này có thật",trong mối liên hệ đến tám mối quan tâm{Bát Phong}của thế gian,[35]hoặc quan hệ đến trai gái, hoặc ấmđựng, vảivóc, sắc tướng, hoặc cảm xúc. Vì chínhlà những quan niệm sai lầmnàycưu mang các đối tượng đó,nên chúngđược tạo ra từ sựdiễn tưởng của cácquan niệm về sự tồn tại thực sự. Nguyệt Xứng nói trongMinh Cú Luận:[36]
Tính Không– việc xem tất cả các pháp như làsự thiếu vắng {tự tính} –làm ngừng tất cả các diễn tưởngthế gian. Tại sao? Bởi vì khi các ngươi nhìn thấy một cái gì đó như thật, thì sẽ cócác diễn tưởngnhư nhữngđiều đãgiải thíchtrên. [765]Trong mức độ như là việc không thể thấy được đứa con gái của người phụ nữkhông con, niềm vui thú sẽ không khởi tác trong các diễn tưởng của bà như là đối tượng. Khi các diễn tưởng không hoạt động, thì đối tượng của chúng sẽ không bị quan niệm sai lạc. Khi các quan niệm sai lạc không vận hành, các phiền não bắt nguồn từ quan điểm thật chất hóa về các uẩn hoại diệt sẽ không được phát khởi thông qua việc bám chấp vào “ta” và “của ta”. Khi các phiền não bắt rễ từ quan điểm thật chất hóa về các hoại uẩn không được phát khởi, thì các hành vi sẽ không được tiến hành. Những ai không tiến hành các hành vi sẽ không trải nghiệm luân hồi, vốn được gọi là “sinh, lão, và tử”.
Minh Cú Luận của Nguyệt Xứng cũng nói rất rõ làm thế nàoviệcbiết tính Không làm ngưng các diễn tưởng vàcácquan niệm sai lầmđó:[37]
Tại sao? Là như thế này: Tính Khôngkhôngđược diễn tưởng ở mức độ nó có đặc tính về sự diễn tưởng bị ngăn triệt một cách xuyên suốt. Vì nó không được diễn tưởng, nên nó ngừng các quan điểm sai lạc; thông qua việc ngưng các quan điểm sai lạc, nó ngưng các phiền não. Việc ngừng các phiền não và nghiệp cũng làm ngừng [tái] sinh. Do đó, vì chỉ có tính Không có đặc tính về việc làm ngưng tất cả các diễn tưởng, nên nó được gọi là “Niết-bàn”.
Đoạn văn nàychứng minh rằngquan điểm vềtính Không cắtbỏđược gốc rễ của luân hồi và là trọng tâmcủa lộ trình giảithoát.Do đó, các ngươi phải đạt được sự chắc chắn[chứng ngộ]về việc này.
Theo đó, các giáo phápcủa thánh giảLong Thọ nêu rõ rằng ngay cả các bậc Thanh Vănvà Bích Chi Phật có thể biết rằng tất cả các pháp đềuthiếuvắngtự tính. Vì, họ nói rằng giải thoát khỏi cõi luân hồi đạt được thông qua quan điểm về thiếu vắngvềtự tính. Các Thanh Vănvà Bích Chi Phậtvẫnthiền định lên quan điểm đókhi mà phiền não của họ vẫn còn. [766] Khi phiền não của họ bịdập tắt, họ hài lòng và không trì giữ trong thiền định;vì vậy họ không thể loại bỏ những chướngngạitư tưởng. Các Bồ-tát, không chỉ hài lòngvới giải thoátđơn thuần khỏiluân hồi thông qua sự đoạntrừcủa các phiền nãođơn thuần,mà còntìm kiếm Phậtquả, vì lợi ích của tất cả chúng sinh;vì vậy họ thiền để dập tắt hoàn toàn các che chướng tư tưởng {sở tri chướng}. Cho nên, họ hành thiền trong một thời gian rất dài và được trang bịbằng sự tích lũyvô hạn của các tư lương về công đức và trí tuệ.
Theo đó, trong khi phương thuốc chữa vốn thanh lọc những hạt giống của cả hai chướng ngại {sở tri chướng và phiền não chướng} là quan điểm về tánh Không, như đã được giải thích ở trên, vì khoảng thời gian hạn chế về thiền định của các bậc Thanh Văn và Bích Chi Phật, nên họ chỉ có thể loại bỏ phiền não chướng, họ không loại trừ được các sở tri chướng. Ví dụ, cùng một trikiếnvềsự thiếuvắngtựngãlà biện pháp đối trịcho cả các đối tượng vốnđược loại bỏ trên lộ trìnhtri kiếnlẫncác đối tượng vốn được loại bỏ trên lộ trìnhthiền định. Tuy nhiên, việc chỉ đơn thuầntrực tiếp thấyđượcsự thiếuvắng củatự ngã có thể loại bỏ các đối tượng vốn được loại trừtronglộ trình tri kiến, nhưng vẫn không thể loại bỏ các đối tượngđược loại trừ tronglộ trìnhthiền định. Vì vậy, các ngươi phải hành thiền trong một thời gian dài để loại bỏ các đối tượngvốn {sẽ}được loại trừtronglộ trìnhthiền định. Điều đótương tự như trường hợp này.
Tuy nhiên, sự loại bỏ các sở tri chướngsẽ không thể được hoàn tấtnếu chỉ riêng dùngcách thiền định trong một thời gian dài;nó cũng liên quan đến việctu tậptrong nhiều hoạt động siêu phàm khác. Vì các Thanh Vănvà Bích Chi Phật không nuôi dưỡngbiện pháp đối trịsở tri chướng, màchỉrèn luyệnphương tiện để loại trừ phiền não chướng, nênThanh Văn và Bích Chi Phậtđược chorằng thiếu tri kiến đầy đủ và viên mãnvề pháp vô ngã. Nhập Trung LuậnThích của Nguyệt Xứng nói:[38]
Mặc dù ngay cả Thanh Văn và Bích Chi Phật nhìn thấy cùng một điều kiện này về duyên khởi, nhưng họ vẫn thiếu một sự rèn luyệnđầy đủ và hoàn toàn về pháp vô ngã;họ chỉ có một phương tiện để loại bỏ những phiền não về hành vi của ba cõi.
Vì vậy điều gì mà nhàTrung Quán tông khác xem xétlà một quanniệm về tự ngã của các hiện tượng, thìvị đại sư này xem làvô minh phiền não. Mặc dù Thanh Văn và Bích Chi Phật thiềnvề sự thiếuvắngtựngã trongcác phápđến mức hoàn toàn loại trừ vô minh phiền não, nhưng họ thiếu mộtsựthiền quánđầy đủ về pháp vô ngã. [767] Những mệnh đềnày nên được hiểu như ta đã giải thíchchúngcả ở đây và bên trên.[39]
Những sở tri chướngtrong hệ thống [Cụ Duyên] nàylà gì? Một số khuynh hướngtiềm tàng {tập khí}vốn được thiết lậpvững chắc trong dòngtâmthức qua trạng thái tràn ngập từ vô thủy bởi sự bám chấp mạnh mẽ vào các pháp như là tồn tại một cách tự tính; các tập khí này làm khởi sinh những sai lầm về sự trình hiện nhị nguyên, sao cho các pháp trình hiện ở trạng huống tồn tại tự tính mà thật ra chúng không hề như thế. Các sai lạc này là những sở tri chướng. Như Nguyệt Xứng dạy trong Nhập Trung Luận Thích:[40]
Các Thanh Văn, Bích Chi Phật, và Bồ-tát đã loại bỏ vô minh phiền não nhìn thấy các phápcấuhợp{hữu vi}như một cái gì đó vốnchỉlà tồn tạiđơn thuần, chẳng hạn nhưmột ảnhphản chiếu. Đối vớihọ, bởi vì họthiếu vắng sự phóngtưởng về sự tồn tại thực sự, các hiện tượngcấuhợp đều có các bản chất thêu dệt và không phải là những sự thật. Những thêu dệt này đánhlừa trẻ con. Đối với nhữngngườikhác, chúng chỉ là các ước lệ, tựa như các ảo ảnh và v.v... vì chúng chỉ là duyên khởi mà thôi. Cũng thế, vì ba loại thánh chúngnàycùng chia sẻ vô minh đơn thuần vốn có đặc tính của tình trạng một sở tri chướng, nên các thường tục đơn thuần này trình hiện trước các thánh giả mà vốn các lãnh vực hoạt động của họ được liên hệ với sự trình hiện, nhưng lại không xảy ra như thế cho những ai có lãnh vực hoạt động không có sự trình hiện.
"Bồ-tát là những ai đã loại trừ vô minh phiền não" nói đếnnhững ai đã đạt đến tầngthứ tám{Bất động địa Bồ-tát}, bởi vì Nguyệt Xứng trongTứ Bách Kệ TụngThích, như được trích dẫn trước đó,[41]đã khẳng định rằnghọ làcácBồ-tát đã thành tựuhành trì liên quan đến hạnh vô sinh. Do đó, các Bồ-tát và các A-la-hán Tiểu thừa {Hînayâna} vốn đã đạt đến tầng thứ tám này chấm dứt hoàn toàn sự tạo thành của các tập khí mới do các sai sót về sự trình hiện nhị nguyên, nhưng vì có nhiều khuynh hướng tiềm tàng đã xác lập từ rất lâu về sự trình hiện nhị nguyên chưa được gột sạch, nên họ vẫn phải tu tập trong một thời gian dài. Khi họ gột sạch các khuynh hướng này – tức là ngưng hết tất cả các tập khí do sự sai lạc – họ trở thành các vị Phật.[768]
Thánh giả Long Thọ và các vịtheo chânngàiđã dạy rằng Tiểu thừa và Đại thừa đều giống nhau trong quan điểm về ý nghĩa xác định {liễu nghĩa};lời dạy nàyhàm ý hai sựchắc chắn tuyệt vời. Sau khi các ngươi đã phát triển sựchắc chắn rằng không có cách nào để đạt được thậm chísựgiải thoátđơn thuầnkhỏi luân hồi– chứ chưa nói đến quả vị Phật – mà không có quan điểm thấy biết rằng tất cả các pháp đều thiếu vắng tự tính, thì các ngươi tìm thấy được một quan điểm thuần khiết qua nỗ lực to tát từ nhiều phương tiện. Sau khi các ngươi đã phát triển được sự chắc chắn từ tận đáy lòng mình rằng các tính năng tạo sự khác biệt giữa Đại thừa và Tiểu thừa là Bồ-đề tâm cao quý và các hành vi Bồ-tát siêu việt, thì các ngươi sẽ tiếp nhận các giáo huấn về các phương diện ứng xử của sự tu tập như là lời khuyên tối hậu nhất. Sau khi đã tiến hành thệ nguyện làm đứa con của Đấng Chiến Thắng {tức là nhận Bồ-tát giới}, thì các ngươi tu tập các hành vi đó.
Tạiđây ta tuyên thuyết:
Điđếnnúi tráng lệnhấtkia,
"ĐỉnhLinh Thứu",vị vua các núi,
Trong sáu hướng,chấn động hoàn vũ
Và diệu kỳ tỏa sáng mọi nơi
Soi rực rỡ trăm miền thanh tịnh,
Thánh nhân phát từ cổ họng diệu minh
Từ mẹ vĩ đại sinh ra đó
Tất cả con sinh thành tôn giả,
Trí Bát-nhã biện tài khó sánh
Là trái tim chánh đạo quang minh
Gồm thâu kinh thừa lẫn chú thừa,
Được tiên tri, Long Thọ anh dũng
Cho luận giải vô cùng chính xác
Tối hảo tác trên mọi giáo pháp
Lời chỉ dạy bất khả sánh lường
Ngời sáng như vầng dương chiếu rạng
Là tuyệt tác Căn Bản Trung Quán
Các giảng luận thật uyên thâm ấy
Được chú giải với đầy chi tiết
Bởi Phật tử Phật Hộ trác việt
Được biết sâu và được trải xa
Qua chú giải từ ngài Nguyệt Xứng
Làm sáng tỏ ý nghĩa ngôn từ.[769]
Sử dụng đến nhữnglời dễ hiểu,
Ta khởi dạy hệ thống các ngài
Vốn không hề vướng trược, nhiễm ô
Cách mà các tác nhân, đối tượng
Phụ thuộc nhau theo đường duyên khởi
Nên luân hồi Niết-bàn khả dĩ
Các pháp đều chỉ như ảo ảnh
Đều thiếu vắng tồn tại tự tánh,
Pháp hữu ơi! thành tâm tu học
Pháp Trung đạo diệu vợi thâm sâu
Với các ngươi dẫu rằng thật khó
Để tiếp nhận: khởi sinh phụ thuộc
Của các nhân và các quả kia
Trong chân lý vốn không tự tánh
Đó là cách tiếp cận hay hơn,
“Thế này là hệ thống Trung Đạo”
Bằng không, sai sót khôn tránh khỏi
Điều mà ngươi thuyết nói cho người
Ngươi sẽ thấy tự mình bị kéo
Vào nơi không hệ thống khéo truyền
Thế ngươi phải chuyên tâm tu hạnh
Giáo pháp ngài Long Thọ thánh tôn
Cùng các vị theo chân, môn đệ
Đã cho ngươi lời giải ân cần
Dẫn đúng hướng tìm ra chánh kiến
Và cũng để dưỡng tồn giáo Pháp
Của Đấng Chiến Thắng được dài lâu
[1]BA622 Tri-saṃvara-nirdeúa-parivarta-mahâyânâ-sûtra{Tam Giới Giải Chương Đại Thừa Kinh} Phẩm đầu của Bảo Hằng Kinh{Ratna-kûṭa}.
[2]BA623 MAV: 6.166-167, La Vallee Poussin 1970b: 288-89; D3861: Ha 212a7-b2.
[3]BA624 MMK: 8.12, 8.13cd, de Jong 1977:12; D3824: Tsa 6a6.
[4]BA625 LRCM: 719-751.
[5]BA626 SR, D127: Da 44a2-3.
[6]BA627 MMK: 1.1, trích dẫn ở LRCM: 672.
[7]BA628 Việc đánh số đề mục này và các đề mục tiếp sau trong phần này đã được người hiệu đính {Bản Anh ngữ} thêm vào và nó không có trong chánh văn.
[8]BA629 MMK: 20.20ab, de Jong 1977: 28; D3824: Tsa 12a4.
[9]BA630 MAV: 6.8cd-6.9ab, 6.12cd, La Vallee Poussin 1970b: 82-83; D3861: Ha 204a6-7.
[10]BA631 Bốn duyên là (1) điều kiện nhân quả, (2) điều kiện đối tượng được quan sát, (3) điều kiện liền ngay trước đó, (4) điều kiện chủ yếu. “sự vật khác” nghĩa là chúng là khác hơn kết quả chúng gây ra.
[11]BA632 MAVbh ở MAV: 6.14, La Vallee Poussin 1970b: 89; P5263:121.3.8-121.4.3.
[12]BA633 LRCM: 673,679-680; Hopkins 1983:145-47.
[13]BA634 MMK: 20.20cd, de Jong 1977:28; D3824: Tsa 12a4-5.
[14]BA635 MAV: 6.14, La Vallee Poussin 1970b: 89; D3861: Ha 204b4-5.
[15]BA636 LRCM: 735-736.
[16]BA637 MAV: 6.98, La Vallee Poussin 1970b: 202-05; D3861: Ha 209al-2.
[17]BA638 Xem LRCM: 602, chú thích 311. Các nhà Cârvâka {tên khác của Lokâyata theo chủ trương hoài nghi đa dạng triết học} chấp nhận nhân quả trong trường hợp các đối tượng được làm ra một cách nhân tạo như ấm đựng. Tuy nhiên, họ tranh cãi rằng các đối tượng tự nhiên như là các gai nhọn khởi lên một cách tự động.
[18]BA639 MAV: 6.99, La Vallee Poussin 1970b: 206; D3861: Ha 209a2.
[19]BA640 Cf. LRCM: 754, khi mà sinh khởi tự tính giới hạn trong bốn khả năng.
[20]BA641 MAV: 6.104ab, La Vallee Poussin 1970b: 215; D3861: Ha 209a6.
[21]BA642 'Jam-dbyangs-bzhad-pa (mChan: 700.6-702.2) chú giải rằng những người với các khả năng nhạy bén sẽ phát khởi sự suy diễn dựa trên quy mậu khởi đầu một mình, trong khi phép suy luận sau đó được thêm vào để hướng dẫn những ai có các khả năng yếu kém.
[22]BA643 MMK: 7.16ab, de Jong 1977:9; D3824: Tsa 5a5.
[23]BA644 MAV: 6.115, LaValleePoussin 1970b: 228;D3861:Ha209b7-210al.MAV: 6.114 tái khẳng định sự bác bỏ của bốn loại cực đoan về sinh khởi và liên quan đến duyên khởi: “Vì các pháp không sinh khởi một cách không có nguyên do cũng như là không từ Iśvara {Đấng Tối Cao}, không từ tự ngã, từ vật khác, hay từ cả hai, nên chúng sinh khởi một các phụ thuộc”.
[24]BA645 Cśṭ 14.23, Lang 1986:134-135.
[25]BA646 Cśṭ P5266: 270.3.6-4.1.
[26]BA647 Cśṭ P5266: 270.4.1-2.
[27]BA648 Cśṭ P5266: 270.4.2-4.
[28]BA649 Cśṭ P5266: 270.4.4-7.
[29]BA650 Theo 'Jam-dbyangs-bzhad-pa (mChan: 710.6) là: “những người Tạng trước đây và người khác”.
[30]BA651 Anavatapta-nâga-râja-paripṛcchâ-sûtra {Vô Nhiệt Trì Long Vương Vấn Kinh – Nghĩa là Long Vương ở hồ Vô nhiệt hỏi kinh}LRCM: 636, chú thích 379.
[31]BA652 Ibid., P823:139.3.5-6.
[32]BA653 Hasti-kaksya-sutra {Tượng Nghiêm Kinh}, trích từ PPs: 388.1 (Wayman 1978:477 n. 386); D3796: Ha 17U4-5.
[33]BA654 LRCM: 251 (Great Treatise 2000: 318) Ba loại chấp thủ còn lại là: (1) chấp vào quan điểm, (2) chấp vào giới luật và đạo đức và (3) chấp vào khẳng định về ngã.
[34]BA655 MMK: 18.2cd, 18.4-5, de Jong 1977:24; D3824: Tsa 10b6,10b7. Giải thích chi tiết về tiến trình của duyên khởi và hoại diệt, xem LRCM: 248-257 (Great Treatise 2000: 315-25).
[35]BA656 Tám mối lo bao gồm: (1) Lợi {được những cái lợi ích cho bản thân}, (2) Suy {suy hao, mất mát, tổn hại thất thoát}, (3) Hủy {bị hủy nhục, khinh rẻ}, (4) Dự {là đề cao, tán dương danh dự hay địa vị}, (5) Xưng {là xưng tụng, khen ngợi}, (6) Cơ {là chỉ trích, bị đem bêu xấu}, (7) Khổ {gặp những điều bất hạnh, những hoàn cảnh trái ngược} và {8} Lạc {là vui mừng, hỷ hả} (Rinchen 2001:47).
[36]BA657 PPs: 350.10-351.4, ở MMK: 18.5; D3796: Ha 113b7-114a3.
[37]BA658 PPs: 351.8-10, ở MMK: 18.5; D3796: Ha 114a3-5.
[38]BA659 MAVbh trên MAV: 6.179, La Vallee Poussin 1970b: 302; P5263:150.5.2-3.
[39]BA660 LRCM: 576-579.
[40]BA661 MAVbh ở MAV: 6.28, La Vallee Poussin 1970b: 107-08; P5263: 124.1.4-7.
[41]BA662 LRCM: 655, ghi chú 422.