Tsongkhapa
ĐẠI LUẬN VỀ
GIAI TRÌNH CỦA ĐẠO GIÁC NGỘ
Tập 3
(Bồ-đề Đạo Thứ Đệ Đại Luận – Quyển Hạ)
Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
༄༅༎ བྱང་ཆུབ་ལམ་རིམ་ཆེན་མོ་། །།ཀ།།
རྗེ་ཙོང་ཁ་པ་བློ་བཟང་གྲགས་པ༎
Phần II: Tuệ Giác
Chương 10: Nhận Diện Sai Đối Tượng Bị Phủ Định
(b") Xác định thực tế của thực
tại
(1") Nhận diện đối tượng bị phủ định bởi lập luận
(a)) Tại sao đối tượng của sự phủ định phải được nhận diện
một cách cẩn thận
(b)) Việc bác bỏ các hệ thống khác vốn chỉ bác bỏ mà thiếu
việc nhận diện đối tượng bị phủ định
(1)) Nội hàm bác bỏ sự nhận diện của đối tượng bị phủ định
quá rộng
(a')) Nêu các khẳng định của phía khác
(b')) Chỉ ra các khẳng định đó là sai lạc
(1')) Chỉ ra rằng các hệ thống đó
mâu thuẫn với tính đơn nhất của Trung Quán.
(a")) Việc nhận diện tính năng
đặc trưng của Trung Quán
–––––––––\–––––––––
(b") Xác định thực tế của thực tại
Phần xác định thực tế quan điểm về
thực tại có 3 đề mục:
1. Việc nhận diện đối tượng bị phủ
định bởi lập luận (Các chương 10-17)
2. Liệu
rằng có nên thực hiện sự phủ định đó với một thủ tục Y Tự Khởi hay với thủ tục
Cụ Duyên (Các chương 18-21)
3. Cách sử dụng thủ tục đó để tạo nên quan điểm triết lý
đúng đắn trong dòng tâm thức các ngươi (Các chương 22-24)
(1") Nhận diện đối tượng bị phủ định bởi lập luận
Phần này có 3 tiểu mục:
1. Tại sao đối tượng của sự phủ định phải được nhận diện một
cách cẩn thận
2. Việc bác bỏ các hệ thống khác vốn chỉ bác bỏ mà thiếu việc
nhận diện đối tượng bị phủ định (Các chương 10-16)
3. Cách thức hệ thống của chúng tôi nhận diện đối tượng của
sự phủ định (Chương 17)
(a)) Tại sao đối tượng của sự phủ định phải được
nhận diện một cách cẩn thận
Để chắc chắn rằng một
người nào là không hiện diện, các ngươi phải biết người vắng mặt này. Tương tự
như vậy, để chắc chắn về ý nghĩa của "vô ngã" hay "thiếu vắng tự
tính", các ngươi phải cẩn thận xác định tự ngã, hoặc bản chất cố hữu là không
tồn tại. Vì nếu không có một khái niệm rõ ràng về đối tượng bị phủ định, thì
các ngươi cũng sẽ không có kiến thức chính xác về sự phủ định của nó. Vì Nhập Bồ-đề Hành Luậncủa ngài Tịch Thiên
dạy[1]:
Nếu không có liên hệ với các thực thể được quy
gán cho
Các ngươi sẽ không thấu hiểu sự vắng mặt của
thực thể đó.
Có vô hạn phân hóa trong
số các đối tượng của phủ định, nhưng chúng đều đến cùng một gốc; khi các ngươi
bác bỏ điều này, thì các ngươi bác bỏ tất cả các đối tượng của phủ định. [580]
Hơn nữa, nếu các ngươi để chừa một số còn lại, không bác bỏ nền tảng sâu xa
nhất và tinh tế nhất của đối tượng của phủ định, thì sau đó các ngươi sẽ rơi
vào một thái cực của sự hiện hữu thật sự. Các ngươi sẽ bám chấp vào ý tưởng về
các pháp thật sự, bởi đó các ngươi sẽ không thể thoát khỏi luân hồi. Nếu các
ngươi thất bại trong việc giới hạn đối tượng của sự phủ định và mở rộng sự bác
bỏ quá mức, thì các ngươi sẽ mất niềm tin vào các tiến triển nhân quả của duyên
khởi, từ đó rơi vào cực đoan hư vô. Quan điểm hư vô này sẽ dẫn các ngươi đến sự
tái sinh trong một giới đau khổ. Vì vậy, thật là quan trọng để nhận diện đối
tượng của phủ định một cách cẩn thận, vì nếu nó không được nhận diện, thì các
ngươi chắc chắn sẽ phát triển hoặc một cái nhìn hư vô hoặc thường hằng.
(b)) Việc bác bỏ các hệ thống khác vốn chỉ bác
bỏ mà thiếu việc nhận diện đối tượng bị phủ định
Ở đây có hai phần:
1. Nội hàm bác bỏ sự nhận diện của đối tượng bị
phủ định quá rộng (Các chương 10-15)
2. Nội hàm bác bỏ sự nhận diện của đối tượng bị
phủ định quá hẹp (Chương 16)
(1)) Nội hàm bác bỏ sự nhận diện của đối tượng
bị phủ định quá rộng
Ở đây có hai phân mục:
1. Nêu ra các khẳng định của những phía khác
2. Chỉ ra rằng các khẳng định đó là sai (Các
chương 10-15)
(a')) Nêu ra các khẳng định của những phía khác
Hầu hết những ai hôm nay
tự cho là chỉ dạy về ý nghĩa của Trung Quán đều bảo rằng tất cả các pháp trải
từ sắc cho đến nhất thiết trí đều bị bác bỏ bằng cách phân tích hợp lý về việc
liệu rằng sự sinh khởi và v.v... có tồn tại như một thực tại riêng của chúng
{tự tồn} hay không. Vì khi lý lẽ phân tích bất cứ điều gì được đưa ra, thì thậm
chí không có đến một hạt tử có thể đứng vững được trước phân tích. Ngoài ra,
tất cả bốn cách khả dĩ cho một pháp nào đó có thể được sinh khởi – như là một
hậu quả hiện hữu, một hậu quả không tồn tại, và v.v... – đều bị bác bỏ, và lại
không có gì mà không được bao gồm trong bốn cách đó.
Hơn nữa, những người này
khẳng định rằng trí tuệ siêu việt của một thánh giả vốn lĩnh hội thực tại nhận
thức về sự sinh khởi, sự hoại diệt, sự trói buộc, sự giải thoát, và v.v… tối
thiểu đều như là không tồn tại. Vì vậy, vì các pháp phải đơn thuần y như là trí
huệ siêu việt này thấy biết về chúng, nên sự sinh khởi và v.v… đều không tồn
tại.
Khi chúng tôi khẳng định
rằng việc sinh khởi và v.v… có tồn tại, những người này đặt nghi vấn: "Có
phải các pháp này có khả năng đứng vững trước phân tích luận lý về thực tại của
chúng? Nếu thế, thì sẽ có những thứ có thể đứng vững được trước phân tích luận
lý, và do đó sẽ có những thứ thực sự tồn tại {thật hữu}. Nếu không, thì làm thế
nào khả dĩ cho một pháp nào đó đã bị bác bỏ một cách luận lý tồn tại được?
"
Tương tự, khi chúng tôi
cho rằng sự sinh khởi và v.v… tồn tại, thì những người này đặt câu hỏi:
"Nhận thức hiệu quả có xác lập chúng hay không?" [581] Nếu chúng ta
cho rằng có, thì họ trả lời rằng vì trí huệ siêu việt lĩnh hội thực tại nhận
thức sự sinh khởi như là không tồn tại, nên không có khả năng cho trí huệ đó
xác lập sự sinh khởi. Hơn nữa, nếu chúng ta tranh luận rằng sự sinh khởi được
xác lập bởi các thức thường tục như nhãn thức, nhĩ thức, v.v… thì họ trả lời
rằng các thức thường tục như vậy không thể nào là các nhận thức hiệu quả xác
lập sự sinh khởi, bởi vì các nguồn kinh điển bác bỏ tuyên bố rằng những thức
thường tục đó là các nhận thức hiệu quả. Định
Vương Kinhnói:[2]
Nhãn, nhĩ, tỉ thức là không hiệu quả
Thiệt, thân, và ý thức cũng không là các nhận
thức hiệu quả.
Nếu các thức thụ cảm này là các nhận thức hiệu
quả,
Thì thánh đạo sẽ là gì để cho mọi người dùng
đến?
Ngoài ra, Trung Luậncủa Nguyệt Xứng cho biết[3]:"Cả thế giới là không hiệu quả theo bất kỳ
phương cách nào". Họ tranh luận rằng chúng ta không thể nói rằng sự sinh
khởi tồn tại mà không có sự xác lập hiệu quả, vì tự chính chúng ta không khẳng
định điều này và điều đó không hợp lý.
Họ cũng tranh luận rằng
nếu chúng ta khẳng định sự sinh khởi, vì nó không thể được khẳng định một cách
tối hậu trong Trung Quán, nên chúng tôi sẽ phải khẳng định nó một cách thường
tục, nhưng điều đó là không hợp lý bởi vì Nhập
Trung Luậncủa Nguyệt Xứng cho biết:[4]
Luận điểm trong đó cho thấy rằng sự sinh khởi từ
chính nó và từ vật khác
Là không đứng vững trong bối cảnh của thực tại
tối hậu
Cũng cho thấy rằng sự sinh khởi thì không đứng
vững ngay cả một cách thường tục.
Nếu thế, luận điểm gì sẽ chứng minh cho sự sinh
khởi mà ngươi đang tin tưởng?
Vì vậy, họ nói rằng luận điểm bác bỏ sự sinh
khởi tối hậu cũng bác bỏ sự sinh khởi thường tục.
Hơn nữa, những người này
nói rằng nếu chúng ta khẳng định sự sinh khởi tồn tại bất chấp việc thiếu vắng
một hậu quả vốn được sinh khởi từ cáchbất kỳ trong bốn cách – từ chính nó, từ một vật
khác, và v.v... – thì khi chúng ta cố gắng để thực hiện việc bác bỏ Trung Quán
về sự sinh khởi thông qua việc thẩm tra bốn phương cách lựa chọn đó, chúng ta
sẽ thất bại.[5]Vì tự chính chúng ta đã cho phép một loại sinh
khởi mà vốn không thuộc về bốn cách đó.
Ngoài ra, họ nói rằng
nếu có sự sinh khởi từ cách bất kỳ trong bốn cách đó, thì nó sẽ phải là sự sinh
khởi từ một nguyên nhân vốn là một cái gì đó khác hơn là hậu quả, vì chúng ta
không chấp nhận ba cách còn lại [sinh khởi từ tự nó, từ cả hai: tự nó và vật
khác, hay không có nguyên do][6]. Tuy nhiên, điều này là không hợp lý vì Nhập Trung Luậncủa Nguyệt Xứng nói:[7]"Sự sinh khởi từ một vật khác không tồn
tại ngay cả trong thế giới này".
Do đó, những người này
nói rằng các ngươi không nên thêm vào từ ngữ đặc tính "tối hậu" khi
bác bỏ sinh khởi, vì rõ ràng Minh Cú Luậncủa Nguyệt Xứng bác bỏ việc bổ sung đặc tính này. Trong số những người tranh
luận theo cách này, có một số nói rằng họ không chấp nhận sinh khởi và v.v…
ngay cả một cách thường tục, trong khi những người khác chấp nhận rằng sự sinh
khởi và v.v… tồn tại một cách thường tục. [582] Tuy nhiên, tất cả họ đều cho ý
kiến liều lĩnh và tranh luận: "Không thể phủ nhận rằng hệ thống của đại sư
Nguyệt Xứng là một sự bác bỏ hợp lý về bản chất nền tảng hoặc tự tính, vì ngài
bác bỏ sự hiện hữu nội tại trong nội dung của cả Nhị Đế. Vì vậy, nếu một pháp
nào đó không tồn tại một cách tự tính, thì làm thế nào nó có thể tồn tại? Do
đó, việc thêm vào tiêu chí "tối hậu" lên đối tượng của sự phủ định
chỉ là thủ tục trong hệ thống Trung Quán Y Tự Khởi. "
(b')) Chỉ ra rằng các khẳng định đó là sai
Ở đây có hai phần:
1. Chỉ ra rằng các hệ thống đó mâu thuẫn với
tính đơn nhất của Trung Quán (Các chương 10-11)
2. Chỉ ra rằng phê phán Trung Quán không phá hủy
sự tồn tại ước lệ (Các chương 12-15)
(1')) Chỉ ra rằng các hệ thống đó mâu thuẫn với
tính đơn nhất của Trung Quán
Ở đây có 3 mục:
1. Nhận diện tính năng đặc trưng của Trung Quán
(Các chương 10-11)
2. Chỉ ra rằng các hệ thống đó mâu thuẫn với
tính năng đặc trưng của Trung Quán (Chương 11)
3. Làm thế nào Trung Quán trả lời cho những
người phủ nhận tính năng đặc trưng của Trung Quán (Chương 11)
(a")) Nhận diện tính năng đặc trưng của
Trung Quán
Lục Thập Tụng Như Lý Luận{Yukti-ṣaṣṭhikâ} của Long Thọ dạy:[8]
Thông qua công đức này, xin cho tất cả chúng
sinh
Tích lũy hết các tư lương công đức và trí tuệ
Rồi thành tựu hai hóa thân siêu việt
Khởi sinh từ công đức và trí tuệ đó.
Điều này có nghĩa rằng
các môn đệ là những ai tiến bộ bằng con đường Đại Thừa tối cao, khi đạt được
mục tiêu của họ, sẽ đạt được cả hai hiện thân tuyệt vời của Pháp thân và Sắc
thân. Sự thành tựu này, như đã giải thích trước đó,[9]được dựa trên việc họ đã tích lũy các bồ tư
lương không thể đo lường về công đức và trí tuệ siêu việt trên lộ trình này,
hai bồ tư lương trong phương tiện và trí huệ là bất khả phân. Điều đó, đến
lượt, chắc chắn dựa trên việc đạt đến tri kiến chắc chắn về sự phân hóa của các
pháp. Tri kiến thâm diệu này hiểu rằng
mối quan hệ giữa nhân và quả – nhân và quả thường tục – là việc các quả lợi ích
và tai hại cụ thể đều khởi lên từ các nhân cụ thể. Đồng thời, các tích lũy về
công đức và trí tuệ cũng chắc chắn dựa trên việc đạt được tri kiến chắc chắn về
bản chất thực sự của các hiện tượng. Điều này có nghĩa là đạt đến một sự chắc
chắn thâm sâu rằng tất cả các pháp đều thiếu vắng ngay cả một hạt tử nhỏ bé về
bản chất nền tảng hoặc tự tính. Trong cả phương tiện và trí tuệ, từ sâu thẳm
trái tim của các ngươi, thì tri kiến chắc chắn về cả sự phân hóa lẫn về bản chất thực
sự là cần thiết, bởi vì không có chúng thì không thể thực hành toàn bộ lộ trình
tu tập. [583]
Đây là chìa khóa cho lộ
trình dẫn đến sự thành tựu về hai thân {sắc và pháp thân} khi kết quả đạt được;
việc các ngươi làm đúng hay không phụ thuộc vào cách các ngươi xác lập quan
điểm triết lý của mình về tình huống cơ bản. Cách để xác lập quan điểm đó là
đạt đến tri kiến chắc chắn về Nhị Đế như ta vừa giải thích chúng.[10]Ngoại trừ các nhà Trung Quán, những người khác
không hiểu làm thế nào để giải thích hai chân lý này {Tục Đế và Chân Đế} là
không mâu thuẫn; họ nhìn thấy chúng như là một khối lớn của những mâu thuẫn.
Tuy nhiên, các nhà thiện xảo sở hữu về sự vi tế, trí huệ và sự thông tuệ quảng
đại – được gọi là các nhà Trung Quán – đã vận dụng sự tinh thông về kỹ năng của
họ cho việc thấy biết Nhị Đế để xác lập chúng mà thậm chí không một dấu vết nhỏ
nhất của sự mâu thuẫn. Bằng cách này, họ đạt đến ý nghĩa cuối cùng của những gì
Đấng Chiến Thắng dạy. Điều này mang lại cho họ một ý nghĩa tuyệt vời về sự tôn
kính đấng Tôn Sư và giáo pháp của ngài. Từ sự tôn kính đó, họ ngôn thuyết với
sự chân thành hoàn toàn, cất cao tiếng nói của mình lặp đi lặp lại: "Này
các ngươi, những người khôn ngoan, ý nghĩa của tánh Không – tức sự trống rỗng
về tự tính – là duyên khởi {sinh khởi phụ thuộc}; điều đó không có nghĩa rằng
các pháp không tồn tại, điều đó không có nghĩa là chúng là trống rỗng về năng
lực hoạt hóa[11]”.
Các học giả Bản Chất
Luận Phật giáo có thể có sự trui rèn tuyệt vời trong nhiều chủ đề tu học, nhưng
họ không chấp nhận quan điểm Trung Quán, và tranh luận của họ với các nhà Trung
Quán như sau: "Nếu tất cả các hiện tượng là trống rỗng, với việc thiếu bất
kỳ bản chất nền tảng hoặc tự tính, thì tất cả các giáo pháp về luân hồi và
Niết-bàn – trói buộc, tự do, và v.v… là không thể đứng vững". Căn Bản Trung Luậncủa Long Thọ tuyên
thuyết về quan điểm của họ:[12]
Nếu tất cả điều này là trống rỗng,
Sẽ không có sinh khởi và không có sự rã tan;
Nó kéo theo rằng với các ngươi
Tứ Diệu Đế sẽ không tồn tại.
Họ nói rằng nếu điều này
là trống rỗng về tự tính, thì sự sinh khởi, sự hủy diệt và Tứ Diệu Đế sẽ không
thể đứng vững được. Hồi Tránh Luận(Vigraha-vyâvartanî) của Long Thọ cũng
nói về một phản đối của nhà Bản Chất Luận:[13]
Nếu tất cả các pháp
Là hoàn toàn không có tự tính,
Thì lời của các ngươi cũng không có tự tính
Và không thể bác bỏ tự tính. [584]
Họ nói rằng nếu ngôn từ
thiếu vắng tự tính, thì họ không thể bác bỏ tự tính mà cũng không chứng minh
được sự vắng mặt của nó. Họ lập luận từ giả thiết rằng nếu không có tự tính,
thì các tác nhân và các đối tượng của sự sinh khởi là không thể đứng vững, và
cũng không là tiến trình phản bác và chứng minh. Do đó họ tranh luận với chúng
tôi trên cơ sở rằng những luận điểm bác bỏ tự tính sẽ bác bỏ luôn tất cả sự
hoạt hóa. Vì vậy, khi nhà Bản Chất Luận và Trung Quán tranh luận về các tôn chỉ
khác nhau của họ, thì họ tranh luận riêng biệt về việc liệu tất cả các giáo
pháp về luân hồi và Niết-bàn có thể phù hợp với những thứ vốn trống rỗng về tự
tính hay không.
Do đó, tính năng kỳ biệt
của Trung Quán là khả năng tiếp thu tất cả các giáo pháp về luân hồi và
Niết-bàn - của các tác nhân và các đối tượng của sự sinh khởi, sự bác bỏ, sự
chứng minh, và v.v… - trong sự vắng mặt thậm chí ở mức một hạt tử của bản chất
nền tảng hoặc tự tính. Chương 24 Căn Bản
Trung Luậncủa Long Thọ nói:[14]
Việc cho là Quy mậu tin tưởng sai lầm rằng tất
cả là không đứng vững
Là không đúng về tánh Không;
Do vậy, từ bỏ tính Không, như các ngươi có,
Thì không đúng cho ta.
Đối với những người mà tính Không là hợp lý
Thì mọi thứ là hợp lý;
Đối với những người mà tánh Không không hợp lý
Thì không có gì là hợp ý
Long Thọ nói rằng các
ngụy biện viện dẫn bởi các nhà Bản Chất Luận, chẳng hạn như, "Nếu tất cả
những điều này đều là trống rỗng, thì sẽ không có việc phát khởi và không có sự
hủy diệt ...", không áp dụng được đối với những người ủng hộ sự vắng mặt
của tự tính. Hơn nữa, ngài cũng nói rằng những thứ như sự sinh khởi và sự tan
rã là khả biện trong lập thuyết về sự trống rỗng của tự tính, trong khi chúng
lại bất khả biện hộ trong lập thuyết rằng các hiện tượng là không trống rỗng về
tự tính. Minh Cú Luậncủa Nguyệt Xứng
trích dẫn đoạn văn đó và giải thích:[15]
Không chỉ điều ngụy biện được biểu thị về quy
mậu được khẳng định bởi các nhà Bản Chất Luận hoàn toàn không áp dụng được cho
lập thuyết của chúng tôi, mà cũng đúng là trong lập thuyết của chúng tôi thì
tất cả các giáo pháp về Tứ Diệu Đế, v.v... đều đúng đắn. Để cho thấy điều này,
Long Thọ nói, "Đối với những người mà tính Không là hợp lý ..."
Chương hai mươi sáu
trong Căn Bản Trung Luậncủa Long Thọ
dạy các giai đoạn của sự sinh khởi trong tiến triển về phía thuận của thập nhị
nhân duyên và các giai đoạn của sự hoại diệt trong tiến trình đảo ngược.[16][585] Hai mươi lăm chương khác chủ yếu bác bỏ
tự tính. Chương hai mươi bốn phân tích Tứ Diệu Đế. Nó chứng minh một cách chi
tiết rằng không một giáo thuyết nào về luân hồi và Niết-bàn - sự phát sinh, tan
rã, v.v... – là hữu lý trong bối cảnh của sự không trống rỗng về tự tính, và
cách thức mà tất cả những điều đó đều hợp lý trong khuôn khổ trống rỗng về tự
tính. Do đó, các ngươi phải biết làm thế nào để vận dụng các tương quan của
chương hai mươi bốn lên các chương khác
Vì vậy, những người hiện
tự nhận là chỉ dạy ý nghĩa của Trung Quán thì thực sự đang cung cấp lập thuyết
của các nhà Bản Chất Luận khi họ cho rằng tất cả các nhân và quả - như các tác
nhân và các đối tượng của sự sinh khởi - là không thể thiếu vắng tự tính. Do
đó, Long Thọ, vị Hộ Pháp bảo lưu rằng người ta phải truy tầm sự trống rỗng về
tự tính và Trung Đạo trên chính cơ sở của những giáo pháp về nhân quả - đó là,
sự sinh khởi và sự hoại diệt của các hậu quả đặc thù phụ thuộc vào các nhân và
duyên đặc thù. Chương hai mươi bốn [trong Căn
Bản Trung Luậncủa Long Thọ] nói:[17]
Điều mà khởi sinh phụ thuộc
Ta giải thích là Không.
Đây [tính Không] là định danh phụ thuộc;
Đây chính là Trung Đạo.
Bởi vì không pháp nào
Vốn không khởi sinh phụ thuộc,
Không có hiện tượng nào
Mà không phải là Không
Như vậy, Long Thọ nói
rằng các sinh khởi phụ thuộc {duyên khởi} nhất thiết trống rỗng về tự tính.
Đừng dùng tuyên thuyết này một cách sai lạc hoàn toàn bằng việc tự cho rằng
điều gì được sinh khởi phụ thuộc vào các nhân và duyên phải tồn tại một cách tự
tính. Tương tự, Long Thọ trong Hồi Tránh
Luận nói:[18]
Đối với bất cứ ai mà tính Không là hợp lý,
Thì tất cả các pháp đều hợp lý;
Đối với bất cứ ai mà tính Không là vô lý,
Thì không có điều gì là hợp lý.
Con cúi đầu trước đức Phật,
Bậc Tôn Sư vô đẳng đẳng.
Người đã dạy tính Không, duyên khởi,
Và Trung Đạo chỉ cùng một giáo nghĩa mà thôi.
Ngoài ra, Long Thọ trong
Thất Thập Không Tánh Luận(Úûnyatâ-saptati) nói:[19]
Như Lai Vô Đẳng Đẳng đã dạy
Rằng bởi vì tất cả các pháp
Đều trống rỗng về tự tính,
Nên các pháp đều khởi sinh sinh phụ thuộc. [586]
Cũng vậy, Lục Thập Tụng Như Lý Luận của Long Thọ:[20]
Những ai bám víu vào tự ngã hoặc vào thế giới
Như thể chúng không hề phụ thuộc
Bị quyến rũ bởi các quan điểm cực đoan
Về vĩnh cửu và về vô thường.
Những ai cho rằng các pháp phụ thuộc
Hiện hữu trong thực tại
Làm sao họ tránh được các ngụy biện
Về vĩnh cửu và v.v...?
Những ai cho rằng các pháp phụ thuộc,
Như ánh trăng chiếu mặt trên nước,
Không thật cũng không hư
Không bị quyến rũ bởi tà kiến.
Còn nữa, Xưng Tán Thế Tôn (Lokâtîta-stava)của Long
Thọ nói:[21]
Luận lý gia cho rằng sự khổ
Được sinh khởi từ chính nó, hoặc từ vật khác
kia,
Hoặc từ cả hai, hoặc không có nguyên nhân;
Ngài thuyết nó phát sinh phụ thuộc.
Người cho rằng bất cứ điều gì
Phát sinh phụ thuộc là Không,
Không gì sánh nổi tiếng sư tử hốngcủa người:
Rằng: "Các pháp không tồn tại theo cách
riêng của chúng!"
Vì vậy, Long Thọ nói
rằng điều đó là chính xác bởi vì từ duyên khởi, các hiện tượng là trống rỗng về
tự tính. Điều này giải thích rằng việc sinh khởi phụ thuộc là ý nghĩa của tính
Không – điều đó nói lên rằng, sự vắng mặt của tự tính – là hệ thống duy nhất
của Hộ Pháp Long Thọ.
Do đó, sinh khởi phụ
thuộc không có nghĩa là việc chấp nhận tính Không, hay là sự vắng mặt của tự
tính, cho tự bản thân mình với vai trò như một nhà Trung Quán, trong khi để lại
các giáo pháp về nhân và quả khởi sinh phụ thuộc cho những người khác vì người
ta không cảm thấy chịu với việc có các giáo pháp đó trong hệ thống của họ. Vì
tuyên bố của Long Thọ trong Căn Bản Trung
Luận: "Đối với những người mà tính Không là hợp lý ...,"[22]có nghĩa rằng tất cả các việc sinh khởi phụ
thuộc của luân hồi và Niết-bàn là chấp nhận được trong một hệ thống vốn dạy về
sự vắng mặt của tự tính.
. 547
Chương 8: Ba Loại Người
2. Làm thế nào để tận dụng lợi
thế của một cuộc sống an lạc và thuận duyên
a. Làm thế nào
để phát triển tri thức tổng quát một cách chắc chắn về lộ trình tu tập
1) Nội dung bao
hàm của tất cả kinh điển về các lộ trình của ba loại người như thế nào
2) Vì sao các đệ
tử được hướng dẫn theo các giai đoạn áp dụng các rèn luyện dành cho ba loại
người
a) Mục đích của
việc hướng dẫn các đệ tử qua phương tiện của các lộ trình về ba loại người
b) Vì sao các
đệ tử được hướng dẫn theo những giai đoạn như vậy
i)
Nguyên nhân thật sự
ii)
Mục đích
––––\––––
2. Làm thế nào để tận dụng lợi thế của một cuộc sống an lạc và thuận duyên
Việc làm thế nào để tận dụng lợi
thế của một cuộc sống an lạc và thuận duyên được trình bày trong hai phần:
- Làm thế nào để phát triển tri thức tổng quát về lộ trình
một cách chắc chắn
- Phương pháp thật sự để tận dụng lợi thế của một cuộc sống
an lạc và thuận duyên (Chương 9 và tiếp theo)
a.Làm thế nào để phát triển tri thức tổng quát
một cách chắc chắn về lộ trình
Phương thức phát triển tri thức
tổng quan một cách chắc chắn về lộ trình gồm hai phần:
1. Nội dung bao
hàm của tất cả kinh điển về các lộ trình của ba loại người như thế nào
2. Vì sao các
đệ tử được hướng dẫn theo các giai đoạn áp dụng các rèn luyện dành cho ba loại
người
1)Nội dung bao hàm của tất cả kinh điển về các lộ trình của ba loại
người như thế nào
Ở lúc bắt đầu, một người muốn trở
thành một vị Phật sẽ phát triển tâm Bồ-đề; ở giai đoạn giữa, người này tích lũy
các công đức và trí tuệ tối thượng; và cuối cùng, người này chứng được Phật quả
toàn hảo. Tất cả những hành động này chỉ nhằm đến mục tiêu hạnh phúc cho chúng
sinh. Vì thế, tất cả những giáo pháp một vị Phật đưa ra chỉ giản dị là nhằm đạt
đến lợi ích cho chúng sinh. Điều này tức là, lợi ích của chúng sinh chính là
điều quý vị nên đạt được. [87] Lơi ích này bao gồm hai phần: mục tiêu tạm thời
về việc trạng thái cao làm người hoặc một vị thiên, và mục tiêu rốt ráo về điều
tốt đẹp chắc chắn là sự giải thoát hay sự toàn giác. Giữa hai điều này, nhiều
lời giáo huấn của đức Phật nói về việc đạt được mục tiêu tạm thời là trạng thái
cao. Tất cả những giáo huấn này được bao gồm trong các lời dạy dành cho một
hành giả chân chính có khả năng giới hạn {căn cơ nhỏ} hoặc trong những giáo
pháp dành chia sẻ với một hành giả như vậy, bởi vì những cá nhân có khả năng
đặc biệt giới hạn thật sự không làm nhiều cho kiếp sống này, mà họ nỗ lực tinh
tấn để có trạng thái cao thù thắng khi tái sinh làm người hoặc trời trong những
kiếp vị lai bằng cách xúc tiến nuôi dưỡng các nguyên nhân tạo ra các tái sinh
đó. Tác phẩm Bồ-đề Đạo Đăng Luậnnói
rằng:[1]
Hãy biết rằng
những ai “thấp nhất”
Nỗ lực chăm chỉ
nhằm chỉ đạt
Các an vui
trong cõi luân hồi
Bằng mọi cách
cho hạnh phúc riêng họ.
Có hai điều tốt lành chắc chắn:
sự giải thoát mà đơn thuần chỉ là tự do khỏi luân hồi và trạng thái giải thoát
tối thượng của toàn giác. Nhiều lời giáo huấn của đức Phật liên quan đến Duyên
Giác và Thanh Văn thừa. Tất cả những tuyên thuyết này được đề cập trong các
giáo pháp dành cho một hành giả có khả năng thật sự trung bình hoặc trong những
giáo pháp dành chia sẻ với một hành giả như vậy, bởi những hành giả có khả năng
trung bình sẽ phát khởi sự tỉnh giác với tất cả mọi thứ trong luân hồi và sau
đó thiết lập mục tiêu là giải thoát chính họ khỏi luân hồi. Rồi họ bước vào lộ
trình của ba sự rèn luyện, phương tiện để đạt giải thoát. Trong tác phẩm Bồ-đề Đạo Đăng Luận:[2]
Những người
được gọi là “trung bình”
Ngăn chận những
hành vi tội lỗi
Quay lưng với
an lạc trong luân hồi,
Và tinh tấn nỗ
lực cho thanh tịnh riêng mình.
Tác phẩm Hạnh Hiệp Đăng Luậncủa Trưởng lão [Atiśa] nói rằng:[3]
Bởi bổn sư, đức
Phật, nói rằng,
“Nương tựa Ba-la-mật
và Chân ngôn thừa[4]
Và thành đạt
được chân giác ngộ”,
Giờ ta sẽ viết
về ý nghĩa điều này.
Theo đó, phương thức đạt đến toàn
giác bao gồm hai phần: những Đại thừa của các Ba-la-mật-đa và Đại thừa của các
chân ngôn {skt. mantra – còn gọi là mật chú}. Hai phần này được bao gồm trong
những giáo pháp dành cho một hành giả thượng căn, vì những người này qua tác
động của lòng đại bi, lấy Phật quả làm mục tiêu của họ nhằm dẹp tan mọi đau khổ
của tất cả chúng sinh. Sau đó họ rèn luyện sáu Ba-la-mật-đa, hai giai đoạn[5], và tương
tự. [88] Trong tác phẩm Bồ-đề Đạo Đăng:[6]
Những người
được gọi là “thượng căn”
Thành tâm muốn
dẹp tan tất cả
Mọi đau khổ của
những người khác
Qua cách hiểu
nỗi khổ chính mình.
Dưới đây, tôi sẽ diễn giải phương
thức những người này đạt tới sự giác ngộ bao hàm trong cả Ba-la-mật-đa thừa lẫn
mật chú thừa. Liên quan đến những điều kiện dành cho ba loại người, các lời
giáo huấn này trong tác phẩm Bồ-đề Đạo
Đăng Luận có ý nghĩa tương tự với lời giáo huấn trong Quyết Định Yếu Luận của tác phẩm Du-già Hạnh Địa Luận:[7]
Hơn nữa, có ba
loại người như sau: có những người trì giữ phát nguyện về giới là từ bỏ mười
việc bất thiện, điều này vốn không được xem xét là một giới nguyện, tuy nhiên
nó cũng tương tự như giới nguyện. Có những người phát nguyện về Thanh Văn giới.
Có những người phát nguyện về Bồ-tát giới. Trong số này, loại người đầu tiên có
khả năng thấp nhất; loại người thứ hai là trung bình; và loại người thứ ba là
thượng hạng.
Ngoài ra, các kinh điển cũng đề
cập nhiều cách để định vị một hành giả có khả năng thấp nhất, trung bình và
thượng hạng. Tương tự Bồ-đề Đạo Đăng Luận
của ngài Atiśa, tác phẩm Vi Diệu Pháp
Báu Luậncủa ngài Thế Thân[8]cũng xác
định ba loại người. Thật sự có hai loại trong số những hành giả mang khả năng
giới hạn – những người nỗ lực cho kiếp sống này và những người nỗ lực cho những
kiếp vị lai. Tuy nhiên, ở đây tôi đang nói đến trường hợp sau, những người sẽ
được tôi nhận diện là thực hiện phương pháp đúng đắn để đạt địa vị cao.
2)Vì sao các đệ tử được hướng dẫn theo các giai đoạn áp dụng các rèn
luyện dành cho ba loại người
Sự diễn giải này gồm hai phần:
1. Mục đích của
việc hướng dẫn các đệ tử qua phương tiện của các lộ trình về ba loại người
2. Vì sao các
đệ tử được hướng dẫn qua những giai đoạn như vậy
a)Mục đích của việc hướng dẫn các đệ tử qua phương tiện của các lộ
trình về ba loại người
Tôi đã đưa ra sự diễn giải về ba
loại người. Tuy nhiên, các giai đoạn trong lộ trình dành cho hành giả có khả
năng cao cũng bao hàm trọn vẹn những lộ trình dành cho hai loại người còn lại.
Vì thế, hai lộ trình này là những phần, hay những chi, của đạo Đại thừa. [89]
Như đạo sư Mã Minh đề cập trong tác phẩm Thế
Tục Bồ-đề Tâm Tu Tập (Saṃvṛti-bodhicitta-bhâvanâ):[9]’
Không hại ai,
với tâm chân thật,
Và trong sạch;
không hề trộm cắp,
Và bố thí mọi
tài sản của ngươi
Là hành vi
khiến tái sinh hạnh phúc.
Một khi thấy
khổ đau của luân hồi,
Ngươi theo lộ
trình đúng để rời khỏi nó,
Và loại trừ hai
hành động tội lỗi;
Đó là hành vi
khởi tạo sự an nhiên.
Người thượng
căn nên tu tập tất cả điều này;
Đó là những ngả
đường của sự quyết tâm tối cao cho giải thoát.
Tri nhận rằng
chư pháp giai không
Tạo dòng chảy
từ bi cho mọi chúng sinh.
Những phương
tiện thiện xảo vô hạn
Là hoạt động
của quyết tâm tối thượng để giải thoát.
Vì vậy, trong việc này các vị đạo
sư không dẫn dắt quý vị theo con đường dành cho những hành giả có khả năng giới
hạn, những người lập mục tiêu chỉ đơn thuần vì hạnh phúc trong luân hồi, hay
con đường dành cho những hành giả có khả năng trung bình, những người chỉ lập
mục tiêu đơn thuần là sự giải thoát khỏi luân hồi cho bản thân họ. Đúng hơn là,
các đạo sư chọn ra một số lộ trình có chung cho hai loại người này và dùng
chúng làm những điều kiện tiên quyết để dẫn dắt quý vị theo lộ trình dành cho
những hành giả thượng căn. Vì thế họ dùng chúng làm những thành phần của lộ
trình rèn luyện dành cho những hành giả thượng căn. Do vậy, một khi quý vị đã
phát triển ước mong tận dụng lợi thế của kiếp người an lạc và thuận duyên này
như giải thích trước đây, quý vị phải biết được làm cách nào để tận dụng lợi
thế trọn vẹn của nó. Liên quan đến điều ấy, tác phẩm Trung Đạo Tâm Yếu Luậncủa ngài Thanh Biện nói rằng:[10]
Những tấm thân
này thật quá mỏng manh,
Như cây chuối
và như bong bóng nước.
Ai sẽ không
mang lại cho chúng sự vững vàng như núi Tu-di
Bằng việc lấy
chúng làm điều kiện để giúp đỡ cho những người khác?
Những tấm thân
này là cơ sở của bệnh tật, tuổi già, và sự chết
Những ai có
phẩm cách tốt và lòng từ bi
Khiến cho chúng
trong từng khoảnh khắc
Làm nền tảng
thăng tiến hạnh phúc của tha nhân.
Đời an lạc
tránh khỏi tám duyên không an lạc
Do bởi ngọn đèn
của giáo pháp tối thượng sáng soi
Hãy tận dụng
thật tốt an lạc này
Qua hành động
của một người thượng trí.
Vì vậy, hãy bước vào Đại thừa với
suy nghĩ: “ngày đêm, tôi sẽ luôn ứng xử như một hành giả thượng căn, tận dụng
tốt thân này, vốn là một nơi trú ngụ của bệnh tật, một cơ sở của các đau khổ,
của tuổi già và điều tương tự, cũng như nó vốn thiếu vững chắc tựa như cây
chuối hay bong bóng nước”.
Vấn: Từ lúc bắt đầu, vị đạo sư nên hướng dẫn đệ tử qua các tu tập
của một hành giả thượng căn. [90] Đâu là công dụng của sự rèn luyện theo những
lộ trình được chia sẻ với những hành giả có khả năng giới hạn và trung bình?
Đáp:Rèn luyện theo các lộ trình được chia sẻ với hai loại người
này là một điều kiện tiên quyết cho sự phát triển lộ trình của một hành giả
thượng căn. Tôi sẽ giải thích cách điều này là như thế.
b)Vì sao các đệ tử được hướng dẫn qua những giai đoạn như vậy
Việc vì sao các đệ tử được hướng
dẫn qua những giai đoạn như vậy được diễn giải về các mặt nguyên nhân thật sự
và mục đích.
i)Nguyên nhân thật sự
Đường vào Đại thừa chỉ có tâm
Bồ-đề vô thượng. Một khi điều này phát sinh trong dòng tâm thức của quý vị thì
như được đề cập trong tác phẩm Nhập Bồ-đề
Hành Luận của ngài Tịch Thiên:[11]
Khi chúng sinh
vô vọng,
Bị trói trong
ngục tù
Luân hồi bao
đau khổ
Phát khởi tâm
Bồ-đề
Họ sẽ được gọi
là
“con của đấng
Thiện Thệ”[12]
Và thật đáng
tôn vinh
Trong chư
thiên, nhân giới.[13]
Vì thế, những chúng sinh này bước
vào Đại thừa được đặt tên là “những đứa con của bậc Điều Ngự” hay “những vị
Bồ-tát”. Nếu họ hủy hoại tâm Bồ-đề của mình, họ sẽ tự trục xuất bản thân ra
khỏi đoàn thể những hành giả tu tập Đại thừa.
Do đó, những người ước mong bước
vào Đại thừa phải phát triển tâm Bồ-đề này bằng cách thực hiện nhiều dạng nỗ
lực. Những bản văn tối cao dạy về những giai đoạn của lộ trình Bồ-tát đạo, các
tác phẩm Bồ-tát Học Luận và Nhập Bồ-đề Hành Luận của ngài Tịch
Thiên, đề cập đến phương pháp phát triển tâm Bồ-đề ấy. Các tác phẩm đó nói rằng
trước tiên quý vị cần thiền quán về những ích lợi của nó. Sau đó, quý vị làm
mạnh mẽ nỗi hân hoan về những lợi lạc này từ tận đáy lòng của mình. Điều này
phải đồng hành với việc thực hành bảy hạnh nguyện {Phổ Hiền} cùng với sự thực
hành quy y.
Nếu quý vị viết cô đọng lại những
lợi ích được đề cập theo cách này, thì chúng bao gồm hai phần: tạm thời và rốt
ráo. Phần đầu tiên lại gồm hai khía cạnh nữa: không rơi vào những cảnh giới
khốn khổ và được tái sinh trong những cảnh giới hạnh phúc. Điều đó nghĩa là,
một khi phát tâm Bồ-đề, quý vị sẽ loại bỏ được nhiều nguyên nhân tích lũy từ
trước cho những sự tái sinh đau khổ, và quý vị chấm dứt sự tích lũy liên tục về
chúng trong tương lai. Quý vị cũng tăng trưởng mạnh mẽ những nguyên nhân đã
tích lũy từ trước cho những sự tái sinh hạnh phúc bởi chúng được thấm nhuần tâm
Bồ-đề này. Hơn nữa, bởi quý vị được tâm Bồ-đề này thúc đẩy, nên những nhân mà
quý vị gây tạo lại sẽ là khoog thể nào cạn kiệt. [91] Nương tựa tâm Bồ-đề này,
quý vị sẽ dễ dàng đạt đến những mục tiêu cuối cùng, sự giải thoát và toàn giác.
Ngay từ lúc bắt đầu, quý vị phải
có ước vọng chân thành mong cầu để đạt đến những lợi ích tối hậu và tạm thời
này. Nếu không có điều đó, quý vị có thể nói rằng: “Tôi sẽ nỗ lực phát triển
tâm Bồ-đề này” vì những lợi ích vốn sinh khởi từ việc
phát triển tâm Bồ-đề, nhưng đó sẽ chỉ là những lời nói suông. Sự rỗng tuếch của
lời tuyên bố này rất rõ ràng một khi quý vị kiểm chứng lại tâm thức của mình.
Vì thế, trước tiên quý vị phải
rèn luyện trong tư tưởng chung cho những cá nhân có khả năng giới hạn và trung
bình nhằm phát triển một niềm ước ao đạt được hai lợi ích, trạng thái cao [là
người hoặc trời] và điều tốt lành chắc chắn [sự giải thoát hay sự toàn giác].
Sau khi phát triển được điều ước như vậy, quý vị nuôi dưỡng tâm Bồ-đề, là thái
độ giúp sinh khởi những lợi ích ấy. Khi làm điều này, quý vị phải phát triển
lòng đại từ bi vốn là nền tảng cho thái độ này. Nói cách khác, khi quý vị quán
chiếu rằng mình đã lang thang trong luân hồi, bị mất đi hạnh phúc và bị nỗi đau
khổ hành hạ như thế nào, thì những sợi lông trên người quý vị phải nên dựng
đứng lên. Nếu không có sự trải nghiệm này, quý vị sẽ chẳng thể trở nên bất nhẫn
với sự đau khổ của những chúng sinh khác khi họ phải chịu đựng và bị tước đi
hạnh phúc bởi họ lang thang trong luân hồi. Trong tác phẩm Nhập Bồ-đề Hành Luận:[14]
Những ai chưa
nghĩ tưởng
Đến một thái độ
như vầy
Cho lợi ích
riêng họ;
Thì ngay cả
trong mơ
Làm sao khởi
được nó
Cho hạnh phúc
tha nhân?
Do vậy, trong bối cảnh người có
khả năng giới hạn, quý vị quán chiếu cách mà mình bị hãm hại trong những cảnh
giới khốn cùng đến như thế nào. Trong bối cảnh của hành giả có khả năng trung
bình, quý vị quán chiếu theo phương cách rằng thậm chí ở trạng thái cao, thì
cũng có đau khổ và không có được hỷ lạc an tịnh. Sau đó, quý vị thúc đẩy sự
phát triển tình yêu thương và lòng từ bi bằng cách nuôi dưỡng sự đồng cảm với
các chúng sinh, những người quý vị xem là gần gũi với mình. Từ đây quý vị sẽ
phát tâm Bồ-đề. Vì thế, sự rèn luyện suy nghĩ chung với những người có khả năng
giới hạn và trung bình là phương pháp phát khởi một tâm Bồ-đề chân thật; đó
không phải là một lộ trình riêng biệt nào mà vị đạo sư dẫn dắt quý vị theo.
Tương ứng theo đó, quý vị thực
hiện nhiều phương cách khác nhau để thanh tịnh hóa bản thân khỏi sự bất thiện
và tích lũy công đức nhờ sử dụng những tu tập để phát triển được cả thái độ
chia sẻ với những hành giả có khả năng giới hạn lẫn thái độ chia sẻ với những
hành giả có khả năng trung bình. Các ví dụ là việc quy y và việc suy nghĩ về
nghiệp và nghiệp báo. [192] Hãy hiểu rằng những điều này cũng giúp quý vị phát
tâm Bồ-đề, bởi chúng phù hợp với bảy hạnh nguyện Phổ Hiền hoặc với tu tập quy
y, vốn là những phương pháp rèn luyện đóng vai trò tiên quyết cho tâm Bồ-đề
trong bối cảnh của những tu tập dành cho hành giả thượng căn.
Ở điểm này, vị đạo sự trình bày
chi tiết một cách xuyên suốt về những phương cách mà trong đó, các rèn luyện
của những hành giả có khả năng giới hạn và trung bình đóng vai trò như các
thành phần cho sự phát tâm Bồ-đề vô thượng. Hơn nữa, quý vị, người đệ tử, sẽ
đạt đến tri thức chắc chắn về điều này. Sau đó, bất cứ khi nào quý vị duy trì
thiền, điều tối quan trọng là quý vị giữ vững hiểu biết này trong tâm và rèn
luyện những giáo pháp này như là các thành phần cho sự phát triển tâm Bồ-đề của
quý vị. Nếu không, lộ trình của hành giả thượng căn và những lộ trình của những
hành giả có khả năng giới hạn và trung bình sẽ bị tách biệt và không liên quan. Và bởi quý vị sẽ không đạt tri thức chắc chắn về tâm
Bồ-đề nào cả cho đến khi quý vị đạt đến lộ trình thật sự của hành giả thượng
căn, nên việc thiếu rèn luyện trong những chủ đề này, như là những phần của sự
phát triển tâm Bồ-đề của quý vị, sẽ khiến ngăn trở quý vị không phát triển được
tâm Bồ-đề ấy, hoặc, trong khi quý vị thiếu sự rèn luyện này, sẽ khiến cho quý
vị lệch khỏi mục tiêu to lớn của bản thân về việc phát tâm Bồ-đề ấy. Do đó, hãy
lưu ý kỹ ở điểm này.
Theo
phương cách này, hãy rèn luyện theo các lộ trình của nhữnghành giả có
khả năng giới hạn và trung bình và rèn luyện tốt những điều được diễn giải
trong bối cảnh dành cho hành giả thượng căn. Sau đó, bằng tất cả khả năng tốt
nhất, hãy phát khởi một tâm Bồ-đề chân thật trong dòng tâm thức của mình. Tiếp
theo, để tinh thần này trở nên ổn định, hãy tiến hành một sự tu tập đặc biệt về
quy y và sau đó thực hiện nghi lễ về sự phát tâm Bồ-đề mạnh mẽ. Sau khi quý vị
đã tiếp nhận tinh thần nguyện ước {Bồ-đề tâm nguyện} mạnh mẽ này qua nghi lễ,
quý vị phải nỗ lực học hỏi các giới luật của nó. Tiếp đến, hãy phát triển sự
ước ao mãnh liệt để học hỏi những hạnh Bồ-tát, như sáu Ba-la-mật-đa và bốn cách
thu nhận đệ tử. Một khi sự ước ao này sinh khởi từ tận đáy lòng quý vị, hãy
kiên định áp dụng lời thệ nguyện thanh tịnh về xúc tiến Bồ-đề tâm {Bồ-đề tâm
hành}. Sau đó, với sự dấn thân, hãy tránh bị những vi phạm căn bản làm cấu
nhiễm. Hãy nỗ lực để ngay cả những sự ô uế nhỏ nhoi và trung bình hoặc sự gây
tạo những lỗi lầm cũng không làm quý vị ô nhiễm. Ngay cả nếu quý vị bị ô nhiễm,
hãy làm thanh tịnh bản thân một cách triệt để bằng cách sửa đổi những sự vi
phạm như được chỉ dạy trong kinh.
Tiếp theo, hãy rèn luyện bao quát
về sáu Ba-la-mật-đa. Một cách cụ thể, hãy rèn luyện thật tốt về bình ổn thiền –
cốt lõi của định – để làm cho tâm thức của quý vị có khả năng được đặt lên một
đối tượng thiền thiện đức, theo sự ước mong của quý vị. [93] Tác phẩm Bồ-đề Đạo Đăng Luận của Trưởng lão[15]nói rằng
quý vị nên phát triển định từ thiền nhằm sinh khởi những tri kiến siêu việt.
Ngài dẫn ra một ví dụ đơn giản. Trong những tình huống khác, Ngài nói rằng quý
vị nên phát triển định lực nhằm sinh khởi tuệ giác. Vì vậy, đạt được định chủ
yếu nhằm mục tiêu cho tuệ. Sau đó, để cắt bỏ những trói buộc của quan niệm về
hai bản ngã {nhân vô ngã (tib. གང་ཟག་གི་བདག་མེད)
và pháp vô ngã (tib. ཆོས་ཀྱི་བདག་མེད)},
hãy lập một xác định triết lý về ý nghĩa của tánh Không, tức là sự vô ngã. Sau
khi duy trì một phương pháp thiền không sai sót, hãy đạt đến sự thấu suốt, tức
là trái tim của trí tuệ.
Theo đó, tác phẩm Bồ-đề Đạo Đăng Luận Thích của ngài Atiśa[16]đề cập
rằng, ngoại trừ những tu tập về định và tuệ, tất cả những sự tu tập trong mức
độ giới luật và bao gồm việc rèn luyện các giới luật của Bồ-đề tâm hành sẽ cấu
thành việc rèn luyện giới luật. Định là việc rèn luyện về sự tập trung hoặc
việc rèn tâm. Tuệ là việc rèn luyện về trí tuệ. Hơn nữa, tất cả những tu tập
trong mức độ định từ thiền và bao gồm định từ thiền cấu thành nên nhân tố của
sự giác ngộ được gọi là phương tiện, tức là sự tích lũy công đức, những đạo
pháp phụ thuộc vào các chân lý ước lệ {tục đế}, hay còn được gọi là những giai
đoạn của lộ trình bao quát. Sự phát triển của ba loại trí tuệ thấu suốt[17]cấu trúc nên nhân tố của sự giác ngộ được gọi là trí tuệ, sự tích lũy trí tuệ,
vốn phụ thuộc vào những chân lý tối hậu {chân đế}, hay còn gọi là những giai
đoạn của lộ trình uyên thâm. Vì thế, hãy biết thật chắc chắn về trình tự của
chúng, về sự thật rằng chúng là một danh mục toàn diện, và rằng quý vị không
thể đạt đến sự giác ngộ chỉ bằng phương tiện hay trí tuệ đơn thuần.
Đây là cách mà những chú ngỗng
hoàng gia, những đứa con của bậc Điều ngự, tức những kẻ đang trên con đường ra
đại dương mênh mông những phẩm hạnh diệu hảo của một vị Phật, sải đôi cánh của
chúng và bay lên. Một cánh là những chân lý quy ước – tất cả những nhân tố về
phương tiện, lộ trình bao quát. Một cánh kia, dựa vào những chân lý tuyệt đối,
đang hiểu biết rõ cả thực tại lẫn vô ngã. Tuy nhiên, chúng không thể chỉ sử
dụng một phần đơn lẻ của lộ trình, hay bay lên như chú chim gãy một cánh.[18]Như tác
phẩm Nhập Trung Quán Luận Thíchcủa
ngài Nguyệt Xứng đề cập:[19]
Dang đôi cánh
trắng và rộng của thực tại và ước lệ,
Những chú ngỗng
hoàng gia, hộ tống bởi đàn chúng sinh,
Bay trên những
ngọn gió đức hạnh để đạt đến vô thượng
Trên bờ xa,
những phẩm hạnh Phật lớn tựa đại dương. [94]
Sau khi quý vị rèn luyện tâm thức
bằng lộ trình thông thường, quý vị chắc chắn phải bước vào con đường mật chú
bởi vì khi thực hiện, quý vị sẽ nhanh chóng hoàn thành hai sự tích lũy. Nếu quý
vị không thể tu tập xa hơn lộ trình thông thường, hoặc không muốn làm điều đó
do thiên hướng của quý vị thừa kế từ những kiếp trước quá yếu, vậy thì chỉ cần
cải thiện trên từng giai đoạn này của lộ trình.
Quý vị được chỉ dạy rằng tất cả
các thừa nói chung và mật chú thừa nói riêng nương tựa vào vị đạo sư đều rất
cốt yếu. Bởi thế, một khi bước vào con đường chân ngôn, quý vị nên làm theo
những sự giải thích về mật chú, và tu tập một pháp môn dựa vào vị đạo sư thậm
chí còn chuyên sâu hơn những gì tôi diễn giải trước đây. Sau đó, hãy làm cho
tâm thức quý vị trở nên chín muồi với những quán đảnh đến từ những nguồn Mật thừa
thanh tịnh, trì giữ một cách đúng đắn với ngay cả sự rủi ro cho tính mạng của
quý vị, về tất cả những lời thệ và nguyện mà quý vị nhận được trong suốt các
quán đảnh của quý vị. Quý vị có thể phát nguyện lại nếu mình bị một sự vi phạm
căn bản tác động, tuy nhiên tâm thức quý vị sẽ bị hư hoại, và sẽ rất khó khăn
để tăng trưởng những phẩm hạnh diệu hảo. Vì thế, hãy nỗ lực một cách cụ thể để
không bị những vi phạm căn bản làm hư hỏng và không bị những vi phạm thứ cấp
làm ô nhiễm. Ngay cả nếu quý vị bị ô uế bởi những điều này, hãy thanh tịnh hóa
bản thân với sự sám hối và kiềm chế, vì những sự thệ nguyện là nền tảng của lộ
trình.
Tiếp đó hãy rèn luyện theo những
lời hướng dẫn tốt đẹp về Du-già với các biểu tướng (nói về những cấp độ Mật
thừa thấp hơn), hoặc Du-già của giai đoạn phát khởi (nói về Mật thừa Du-già ở
mức cao nhất). Sau khi sự rèn luyện này đã vững vàng, hãy rèn luyện thật tốt về
Du-già không biểu tướng (nói về những cấp độ Mật thừa thấp hơn), hoặc Du-già
của giai đoạn hoàn mãn (nói về Mật thừa Du-già ở mức cao nhất).[20]
Tác phẩm Bồ-đề Đạo Đăng Luận trình bày phần chính yếu của lộ trình như vậy;
những giai đoạn của lộ trình cũng hướng dẫn quý vị theo cách này. Đại Trưởng
lão cũng đã giáo huấn điều này trong những bản văn khác. Tác phẩm Đại Thừa Đạo Thành Tựu Pháp Tậpcủa Ngài
nói rằng:[21]
Nếu ngươi ước
mong chứng vô thượng Bồ-đề,
Vốn cao quý bất
khả tư lường,
Hãy dốc lòng tu
tập và thành tựu tâm Bồ-đề,
Bởi sự giác ngộ
phụ thuộc vào tu tập. [95]
Bởi thân thể an
lạc và thuận duyên toàn hảo này
Thật khó lòng
đạt được, và một khi nhận được
Sẽ rất khó mà
sở hữu lại lần sau,
Hãy khiến nó
đầy ý nghĩa nhờ nỗ lực tu tập.
Và tác phẩm Đại Thừa Đạo Thành Tựu Pháp Hạng Huống Tậpcủa Ngài nói rằng:[22]
Khi một cơ
duyên sinh khởi
Cho những phạm
nhân trốn khỏi ngục tù,
Họ bỏ chạy khỏi
nơi ấy,
Bởi mục tiêu họ
không như những thường nhân.
Cũng thế khi cơ
duyên sinh khởi
Để vượt qua
biển cả luân hồi,
Ngươi trồi lên
ra khỏi chốn luân hồi,
Bởi mục tiêu
ngươi không như những kẻ khác.
Tương tự:[23]
Hành Bồ-tát
giới bằng cách trì theo
Tu tập quy y,
giữ giới cao hơn,
Và nền tảng
Bồ-đề tâm nguyện mãnh liệt,
Hãy tu tập đúng
đắn, theo các giai đoạn, bằng năng lực của ngươi,
Tất cả những
Bồ-tát hành –
Sáu
Ba-la-mật-đa và tương tự.
Hơn nữa:[24]
Nuôi dưỡng trí
huệ tâm và phương tiện –
Trí huệ định
lực, và hợp nhất chúng.
Ngoài ra, tác phẩm Định Tập Phẩm của Bodhihadra {Giác Hiền}đề cập rằng:[25]
Đầu tiên, hãy
vững vàng tâm Bồ-đề toàn hảo của ngươi,
Sinh khởi từ
sức mạnh từ bi.
Đừng tham chấp
tận hưởng những nguồn vui trong luân hồi,
Và quay lưng
đừng bám lấy chúng.
Được ban những
bảo vật toàn hảo như niềm tin,
Hãy tôn kính
đạo sư của ngươi, người ngang hàng đức Phật.
Với những lời
nguyện đạo sư đã dạy,
Hãy tinh tấn
trong thiền.
Nhận qua lòng
từ của thầy
Sự ban tặng
những quán đảnh, cả bình cam lồ và mật ngữ.
Làm thanh tịnh
thân, khẩu, và ý,
Những hành giả
như vậy thích hợp để chứng ngộ.
Bằng việc hoàn
thành những sự tích tập
Sinh khởi từ
định chi,
Họ sẽ chóng đạt
sự chứng ngộ vô thượng.
Đó là con đường
của mật chú.
ii)Mục đích
Vấn:Nếu những giáo pháp dành cho những hành giả có khả năng giới
hạn và trung bình là các điều kiện tiên quyết cho hành giả thượng căn, chúng có
lẽ cũng được xem là những giai đoạn cho lộ trình của hành giả thượng căn. [96]
Vì sao lại sử dụng thành ngữ này: “các giai đoạn của lộ trình được chia sẻ với
những hành giả có khả năng giới hạn và trung bình”?
Đáp: Có hai mục đích to lớn của
việc phân biệt ba loại người và theo đó hướng dẫn các đệ tử: (1) điều đó đánh
tan suy đoán cho rằng quý vị là một hành giả thượng căn cho dù không phát triển
những trạng thái tâm thức tương tự như những hành giả có khả năng giới hạn và
trung bình, và (2) điều đó mang lại lợi ích to lớn cho những người có tâm thức
ở mức tốt nhất, trung bình và thấp nhất. Nó mang lợi ích cho họ như thế nào?
Ngay cả hai loại hành giả có khả năng cao hơn cũng phải tìm cầu địa vị cao và
sự giải thoát, vì vậy không có gì sai lầm khi giáo huấn các đệ tử có khả năng
trung bình và cao về những sự tu tập phát triển những thái độ của những hành
giả có khả năng giới hạn và những hành giả có khả năng trung bình. Họ sẽ phát
triển được những phẩm hạnh diệu hảo.
Những hành giả có khả năng giới
hạn nhất có thể rèn luyện những sự tu tập cao hơn, nhưng điều này sẽ dẫn đến
việc họ từ bỏ nhãn quan thấp hơn của họ mà lại không tăng trưởng lên được một
nhãn quan cao hơn, và vì vậy họ sẽ không được gì cả. Hơn nữa, có thể có những
hành giả nhiều thiện duyên đã phát khởi những lộ trình cao hơn trong những kiếp
trước. Nếu họ được giáo huấn về những lộ trình chia sẻ với những hành giả khả
năng thấp hơn và sau đó rèn luyện chúng, thì họ sẽ nhanh chóng tăng trưởng
những phẩm hạnh diệu hảo đã phát khởi trước đó hoặc những phẩm hạnh chưa phát
khởi từ trước. Vì vậy, bởi họ đã phát khởi những lộ trình thấp hơn, nên họ có
thể được dẫn dắt theo những lộ trình lần lượt cao hơn, và do đó lộ trình của
chính họ đã tu tập trong những kiếp trước sẽ không bị trì hoãn.
Tác phẩm Chân Ngôn Vương Vấn Kinh[26]dùng ví dụ về một thợ kim hoàn khéo tay dần dần tinh luyện được món trang sức
để minh họa sự cần thiết cho việc hướng dẫn tâm thức của đệ tử theo các giai
đoạn. Để thận trọng tránh sự dài dòng, tôi không trích dẫn chúng đầy đủ ở đây.
Vị hộ pháp Long Thọ cũng đã hướng dẫn các đệ tử theo những giai đoạn trong suốt
những lộ trình để đạt đến địa vị cao và sự tốt lành chắc chắn:[27]
Ban đầu có
những giáo pháp về trạng thái cao;
Rồi đến với
những giáo pháp về sự tốt lành chắc chắn.
Bởi khi đạt đến
trạng thái cao,
Ngươi dần vươn
tới sự tốt lành chắc chắn.
Tương tự, Tôn giả Vô Trước cũng
nói rằng:[28]
Hơn nữa, các vị
Bồ-tát hướng những đệ tử của họ thành tựu nhân tố đức hạnh của sự giác ngộ một
cách đúng đắn và theo các giai đoạn. Để làm được điều này, ban đầu họ đưa ra
những giáo pháp dễ dành cho những chúng sinh có trí tuệ non trẻ, yêu cầu họ tu
tập theo những huấn thị và giải nghĩa ở mức dễ dàng. Khi nhận thấy trí tuệ của
những chúng sinh này phát triển lên khả năng trung bình, các vị yêu cầu họ tu
tập những giáo pháp và huấn thị ở mức trung bình, và những sự giải nghĩa trung
bình. [97] Khi nhận thấy trí tuệ của những chúng sinh này trở nên rộng mở, các
vị yêu cầu họ tu tập những giáo pháp và huấn thị uyên thâm, và những sự giải
nghĩa vi diệu. Đây là luồng hoạt động mang tính quyết định cho hạnh phúc của
những chúng sinh này.
Ngoài ra, tác phẩm Hạnh Hiệp Đăng Luậncủa ngài Thánh Thiên
mô tả phương pháp trước tiên quý vị rèn luyện tư duy về Ba-la-mật-đa thừa và
sau đó bước vào mật chú thừa. Tác phẩm chứng minh rằng quý vị phải thực hiện
điều này theo các giai đoạn. Sau đó điểm này được tóm tắt như sau:[29]
Phương pháp
những chúng sinh khởi đầu
Tham gia vào
mục tiêu tối thượng
Được đức Phật
toàn hảo huấn thị
Tương tự từng
bậc của cầu thang.
Hơn nữa, tác phẩm Tứ Bách Kệ Tụng[30]cũng đề cập rằng trình tự của con đường là xác định:
Thoạt tiên,
ngừng các việc thất đức.
Tiếp theo,
ngừng sai lầm về ngã.
Cuối cùng, dứt
tất cả tà kiến;
Ai hiểu điều
này là bậc tinh thông.
Tương tự, vị đa văn đạo sư Mẫu
Hầu đã nói rằng:[31]
Tựa như việc
nhuộm vải không còn vết nhơ:
Trước tiên họ
phát triển điều thiện trong tâm đệ tử
Thông qua những
bàn luận về bố thí và tương tự,
Và rồi họ bảo
đệ tử quán tưởng về giáo pháp.
Viện dẫn bản văn này, đại sư
Nguyệt Xứng cũng cho rằng đạo pháp có một trình tự xác định. Vì trình tự mà
chúng tôi dùng để hướng dẫn những người khác đi theo con đường một cách rõ ràng
là rất thiết yếu cho sự tu tập của họ, hãy đạt đến sự chắc chắn vững vàng về
phương pháp này.
Chương
BA218 Caryâ-saṃgraha-pradîpa, P5379:186.3.6-7.