Tsongkhapa
ĐẠI LUẬN VỀ
GIAI TRÌNH CỦA ĐẠO GIÁC NGỘ
Tập 3
(Bồ-đề Đạo Thứ Đệ Đại Luận – Quyển Hạ)
Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
༄༅༎ བྱང་ཆུབ་ལམ་རིམ་ཆེན་མོ་། །།ཀ།།
རྗེ་ཙོང་ཁ་པ་བློ་བཟང་གྲགས་པ༎
Phần II: Tuệ Giác
Chương 16: Phủ Định Không Đủ
(2) Bác bỏ một sự nhận diện bị giới
hạn thái quá của đối tượng bị phủ định.
––––––––––\––––––––––
(2) Bác bỏ một sự nhận diện bị giới hạn
thái quá của đối tượng bị phủ định.
Phản biện: Đối
tượng bị phủ định là một tự tính có ba thuộc tính: (1) các nhân và duyên không
đem lại sự tồn tại cho nó, (2) điều kiện của nó không thể chuyển hóa được, và
(3) nó được thừa nhận không phụ thuộc vào hiện tượng nào khác. Vì tác phẩm Căn Bản Trung Quán Luậncủa Long Thọ
nói:[1]
Thật không hợp lý khi một bản chất
Được sinh khởi từ những nhân và duyên.
Nếu nó sinh khởi từ những nhân và duyên
Thì một bản chất sẽ là điều gì đó được tạo thành.
Làm sao có thể thích đáng
Cho một bản chất là điều gì đó được tạo thành?
Một bản chất thì không thể thêu dệt[2]thành
Và không phụ thuộc vào điều khác.
Đáp: Nói chung,
nếu ai đó khẳng định rằng các pháp bên ngoài và bên trong – ví dụ như, các mầm
non – có “tự tính” theo ý nghĩa này, thì các nhà Trung Quán thật sự phải bác bỏ
điều đó. Tuy nhiên, ở đây, việc nhận diện đối tượng bị phủ định nghĩa là nhận
diện đối tượng nền tảng của sự phủ định. Khi các ngươi bác bỏ đối tượng nền
tảng của sự phủ định, thì quan điểm Trung Quán – tức là tri kiến rằng các hiện
tượng thiếu vắng tự tính – phát triển trong dòng tâm thức của các ngươi. [644]
Những ngụy biện phát sinh nếu chúng
ta đi theo dòng diễn giải của người đối lập này. Vì những người ủng hộ các bộ
phái Phật giáo không thuộc Trung Quán đã xác lập rằng các hiện tượng cấu hợp
được sinh khởi bởi các nhân duyên và có thể chuyển hóa, nên chúng ta không cần
phải giải thích với họ về sự vắng mặt tự tính. Họ lẽ ra cũng nên nhận thấy rằng
các pháp thiếu vắng tự tính. Vậy thì làm sao điều này có thể là đối tượng bị
phủ nhận duy chỉ bởi Trung Quán?
Nhiều tác phẩm Trung Quán viện dẫn
những luận điểm như: Nếu các pháp tồn tại một cách nền tảng, thì chúng không
thể phụ thuộc vào các nhân duyên, chúng sẽ phải không thể chuyển hóa được, và
v.v… Tuy nhiên, những tuyên thuyết này chỉ ra các sai lạc sẽ bị đưa đến nếu các
pháp tồn tại một cách nền tảng; chúng lại không nhận diện được đối tượng của sự
phủ định trong các nội hàm của chúng.
Trường hợp nếu như điều gì đó tồn
tại một cách tối hậu, tồn tại trong thực tại, hay tồn tại thật sự, thì nó không
thể phụ thuộc vào các nhân và duyên, và v.v…; tuy nhiên, đó không phải là những
gì mà sự tồn tại tối hậu mang ý nghĩa. Ví dụ như, mặc dù một cái ấm kéo theo
trạng tính vô thường, nhưng sự vô thường không phải là ý nghĩa thích hợp của
cái ấm; đúng hơn các ngươi phải nói rằng nó có nghĩa là một “vật dạng bầu tròn
có khả năng thực hiện chức năng giữ nước trong đó”.
Tương tự như vậy, nếu điều gì tồn
tại một cách tối hậu, v.v…, nó sẽ phải là một pháp không có thành phần; tuy
nhiên, ở đây trong Trung Quán chúng ta không đề xuất “pháp không có thành phần”
là đối tượng căn bản của sự phủ định. Vì các pháp không có thành phần đơn thuần
được gán đặt từ tầm nhìn đặc trưng của những người ủng hộ các tôn chỉ triết lý,
nên những ý niệm như vậy không là nguyên nhân căn bản trói buộc những chúng
sinh trong luân hồi. Hơn nữa, ngay cả nếu các ngươi xác định rằng các pháp
không có thành phần ấy thiếu vắng tự tính và rồi thiền lên điều đó, thì việc
này sẽ không hề chống lại được quan niệm vô minh vốn vận hành từ vô thủy. Do
đó, ngay cả hiểu biết tối ưu và trực tiếp về điều đó sẽ không {giúp} vượt qua
được những phiền não bẩm sinh.
Vì vậy, khi tiến hành những xác định
triết học, hãy làm thao tác chính của các ngươi là xác định rằng một đối tượng
được quan niệm bởi vô minh bẩm sinh thì không tồn tại. Dựa vào điều đó, hãy bác
bỏ các đối tượng do những quan điểm sai lạc nắm bắt. [645] Nếu các ngươi không
hiểu điều này, và thất bại trong việc nhổ tận gốc quan điểm của vô minh bẩm
sinh, thì khi các ngươi bác bỏ một tự ngã cá nhân, các ngươi sẽ chỉ bác bỏ một
tự ngã vốn vĩnh cửu, đơn nhất và độc lập. Khi các ngươi bác bỏ một tự ngã khách
quan, các ngươi sẽ chỉ bác bỏ những pháp được gán đặt bởi những người ủng hộ
các tôn chỉ triết lý – chẳng hạn như các đối tượng là những hạt tử không có
thành phần, và các khoảnh khắc không có thành phần của kinh nghiệm, hay một nền
móng tự nhiên (pradhâna) với ba guṇa (“các cơ chế”) được khẳng định bởi các nhà Số Luận[3].
Điều này hoàn toàn không thích đáng. Nếu các ngươi suy nghĩ khác đi, thì khi
tiến hành những xác định triết học, các ngươi sẽ không xác lập được điều gì
vượt hơn sự vô ngã nông cạn này. Vì những xác quyết triết học được tạo ra nhằm
những mục tiêu về thiền, nên khi thiền các ngươi chỉ sẽ phải thiền về điều này.
Do đó, ngay cả nếu các ngươi thực thi một đặc tính vô ngã như thế trong thiền
và hoàn thành việc tu dưỡng của các ngươi về nó, thì sẽ không mang đến kết quả
gì từ nó. Sẽ cực kỳ vô lý khi khẳng định rằng các ngươi có thể vượt qua những
phiền não bẩm sinh bằng việc thấy biết sự không tồn tại của hai tự ngã vốn được
gán đặt bởi những quan điểm sai lạc nắm bắt.[4]Tác phẩm Nhập Trung Quán Luậncủa
Nguyệt Xứng nói rằng:[5]
Khi hiểu biết vô ngã, một số người loại trừ được một tự ngã
vĩnh cửu,
Nhưng chúng tôi không xem điều này là cơ sở của ý niệm về
“tôi”.
Do đó thật ngạc nhiên khi khẳng định rằng hiểu biết về vô
ngã này
Xóa bỏ và nhổ tận gốc rễ quan điểm về tự ngã.
Ngoài ra, Nhập Trung Luận Thíchcủa Nguyệt Xứng nói:[6]
Hãy làm sáng tỏ điểm này, tức sự không liên quan của những
điều như thế đối với các phiền não bẩm sinh, bằng một ví dụ:
Ai đó thấy con rắn sống trên bức tường ngôi nhà của mình.
Để làm dịu nỗi lo, một ai đó nói rằng: “Chẳng có voi ở đây”.
Chao ôi, thật tức cười cho những người khác
Khi nghĩ rằng lời kia sẽ xua tan nỗi sợ con rắn.
Nguyệt Xứng nói đến nhân vô ngã, nhưng
điều này tương tự đối với sự pháp vô ngã; ngài đã có thể thêm vào:
Khi thấy biết vô ngã, một số người loại trừ được một quan
điểm nắm bắt về tự ngã,
Nhưng chúng tôi không xem điều này là cơ sở của vô minh.
Do đó thật ngạc nhiên khi khẳng định rằng hiểu biết vô ngã
này
Xóa bỏ và nhổ tận gốc rễ vô minh. [646]
Vấn:Trong
tuyên thuyết của Long Thọ trình bày ở trên,[7]ngài nói rằng những đặc điểm xác định của một “bản chất” không phải được thêu
dệt và không phụ thuộc vào điều gì khác. Có phải ngài đang nói theo giả thuyết
hay đang nói theo một bản chất như thế có tồn tại?
Đáp:Đức Phật
thừa nhận một “bản chất”, bằng cách nói rằng: “Đây là thực tại của các pháp”.[8]Điều đó không hề thêu dệt và không phụ thuộc vào điều gì khác. Tác phẩm Nhập Trung Luận Thíchcủa Nguyệt Xứng
xác lập rằng nó tồn tại, bằng cách trích dẫn một nguồn kinh điển:[9]
Liệu có một bản chất mang những đặc tính như thế theo như
đại sư Long Thọ khẳng định hay không? Vâng, đó là “thực tại” của điều mà đức
Thế Tôn đã tuyên thuyết rộng rãi, ngài nói rằng: “Cho dù Như Laicó xuất hiện hay không, thì thực tại của các pháp vẫn lưu
lại đó”.[10]“Thực tại” này là gì? Đó là bản chất của các pháp chẳng hạn như những con mắt
này. Và, bản chất của chúng là gì? Đó là điều mà trong chúng vốn không có thứ gì được thêu dệt hay phụ thuộc vào
điều nào khác; đó là sự nhận diện của chúng như được biết bởi tri kiến thoát
ngoài sự hư hoại của vô minh. Điều đó tồn tại hay không? Nếu nó không tồn tại,
thì các vị bồ-tát sẽ tu tập con đường của những Ba-la-mật nhằm mục đích gì? Vì
sao các vị bồ-tát sẽ trải qua hàng trăm sự gian khổ để hiểu biết thực tại?
Vấn:Thế trước
đây Ngài không tranh luận rằng tất cả các hiện tượng thiếu vắng tự tính sao?
Đáp:Thậm chí
các hiện tượng vốn không là những lập kiến tinh thần nội tại cũng thiếu vắng
ngay cả một hạt tử của bản chất nền tảng hay tự tính. Chẳng lẽ chúng tôi chưa
đưa ra câu trả lời này vài lần rồi sao? Do đó, có gì cần thiết để đề cập đến
những hiện tượng khác về một bản chất như thế? Ngay cả thực tại, là sự thật tối
hậu, cũng không hề có tự tính. Vì tác phẩm Minh
Cú Luậncủa Nguyệt Xứng nói rằng:[11]
“Bản chất cuối cùng” là thực thể nền tảng không thêu dệt vốn
không tránh khỏi hiện diện trong lửa ở quá khứ, hiện tại, và tương lai; [647]
nó không phải là việc xảy ra sau này của điều gì vốn không có mặt ở đó trước
đó; nó không phụ thuộc vào các nhân và duyên như sức nóng của nước, hay ở đây
và ở kia, hay dài và ngắn. Liệu lửa có một bản chất như thế không? Nó không có
bản chất ấy một cách nền tảng và cũng không thiếu vắng điều đó một cách nền
tảng. Tuy nhiên, để tránh gây hoang mang cho những người nghe, ta cụ thể hóa nó
và nói rằng: “Nó tồn tại một cách thường tục”.
Vì vậy Nguyệt Xứng bác bỏ quan điểm
rằng bản chất này tồn tại một cách nền tảng; ngài nói rằng nó tồn tại một cách
thường tục.
Phản biện:Ngài {Nguyệt Xứng} không khẳng định nó tồn tại, bởi ngài nói rằng ngài cụ thể
hóa nó nhằm tránh gây hoang mang cho các thính giả.
Đáp:Điều đó
không hợp lý. Ngài cũng đề cập đến các hiện tượng khác, đã gán đặt chúng với lý
do tương tự ấy. Do vậy nếu bản chất cuối cùng không tồn tại, thì những hiện
tượng khác đó cũng sẽ không tồn tại. Như trích dẫn từ trước, Nguyệt Xứng chứng
minh rằng bản chất cuối cùng tồn tại, bằng cách lập luận rằng nếu nó không tồn
tại, thì điều sẽ theo sau một cách vô lý là đạo đức thanh tịnh trở nên vô
nghĩa. Vả lại, tác phẩm Nhập Trung Luận
Thíchcủa Nguyệt Xứng nói rằng:[12]
Không chỉ đại sư Long Thọ khẳng định bản chất này, mà những
người khác cũng có thể được làm khiến cho chấp nhận điều đó. Vì vậy ngài thừa
nhận bản chất này như được xác lập cho cả hai bên trong cuộc tranh luận.
Nếu điều đó khác đi, thì các ngươi
sẽ phải cho rằng trong Trung Quán, không thể đạt được giải thoát. Điều này là
vì (1) Nguyệt Xứng nói rằng đạt đến Niết-bàn nghĩa là cảm nhận được Niết-bàn,
và ngài nói rằng Niết-bàn được xem là một sự diệt độ thật và những sự diệt độ
thật là những chân lý tối hậu; và (2) những chân lý tối hậu sẽ không tồn tại.
Trong tác phẩm Lục Thập Tụng Như Lý Luận
Thích của ngài, Nguyệt Xứng bỏ công sức chứng minh rằng khi các ngươi đạt
đến Niết-bàn, thì các ngươi phải cảm nhận được chân lý tối hậu của sự diệt độ.
[648]
Theo đó, các pháp cấu hợp chẳng hạn
như những con mắt không phải là những bản chất trong ý nghĩa của trạng thái tồn
tại một cách nền tảng, mà chúng cũng không phải là những bản chất khi thực tại
được thừa nhận như là bản chất cuối cùng. Vì vậy chúng không thuộc loại bản
chất nào. Các chân lý tối hậu là những bản chất khi thực tại được thừa nhận là
bản chất cuối cùng, nhưng điều xác lập chúng như là những bản chất như thế
chính là việc chúng không được thêu dệt và không phụ thuộc vào điều gì khác.
Chúng không hề tồn tại như những bản chất theo ý nghĩa đang tồn tại một cách
nền tảng. Do vậy, chúng chỉ đơn thuần tồn tại một cách thường tục.
“Được thêu dệt” nghĩa là “được sinh
khởi” theo ý nghĩa một việc mới xảy ra của điều gì đó vốn không tồn tại trước
đây; “phụ thuộc vào điều gì khác” nghĩa là phụ thuộc vào các nhân và duyên.
Vì các sắc tướng và v.v… không thuộc
loại bản chất nào, nên khi các ngươi đề cập việc tu dưỡng đạo pháp để quán sát
bản chất cuối cùng, thì “bản chất” có ý nghĩa của thực tại. Do đó, Nguyệt Xứng
nói rằng đạo đức thanh tịnh không vô nghĩa. Hơn nữa, ngài giải thích việc ngài
hoàn toàn thiếu vắng một khẳng định rằng các hiện tượng mang một bản chất trong
ý nghĩa về sự tồn tại nền tảng không mâu thuẫn với khẳng định bổ sung của ngài
về một bản chất cuối cùng.[13]Nhập Trung Luận Thíchcủa Nguyệt Xứng
nói rằng:[14]
Phản biện:Chao ôi, hoàn toàn sai lầm rồi! Ngài không hề khẳng định
các pháp thật, mà còn tiện thể khẳng định một bản chất vốn không được thêu dệt
và không phụ thuộc vào điều gì khác. Ngài đang nói những điều trái ngược rành
rành.
Đáp:Khi nói điều này, các ngươi bỏ lỡ một điểm trong Căn Bản Trung Quán Luận. Đây là ý nghĩa
của nó: Nếu những con mắt và tương tự – các duyên khởi vốn hiển nhiên trước mặt
những chúng sinh ngây ngô thông thường – là bản chất của chính chúng, thì đạo
đức thanh tịnh sẽ vô nghĩa bởi vì ngay cả những thức không chính xác cũng có
thể hiểu biết bản chất đó. Vì chúng không phải là bản chất của chính mình, nên
đạo đức thanh tịnh nhằm quán sát bản chất có một mục tiêu. Hơn nữa, ta nói rằng
bản chất này, khi được so sánh với các Tục Đế, là không thêu dệt và không phụ thuộc vào điều gì khác. [649] Chỉ điều
gì mà các chúng sinh ngây ngô thông thường không nhận thấy thì mới thích hợp là
bản chất. Do đó, điều tối hậu không phải là một pháp hay một phi pháp; bởi bản chất, nên chúng đơn giản là sự
an lành.
Ở đây “pháp” và “phi pháp” đề cập
đến sự tồn tại nền tảng và sự hoàn toàn không tồn tại, như giải thích bên trên
trong phần thuyết về nhị nguyên.[15]
Giờ đây khi các ngươi là một chúng
sinh thông thường xác định rằng các hiện tượng thiếu vắng ngay cả một hạt tử
của bản chất nền tảng hay tự tính, thì các ngươi nhận thấy rằng tính Không –
tính Không của tự tính – là một thuộc tính của các hiện tượng, chẳng hạn như
sắc tướng, vốn đóng vai trò là những nền móng của tính Không. Do vậy, không có
gì mâu thuẫn khi cả những nền móng và thuộc tính là các đối tượng của một tâm
thức đơn nhất. Vì các ngươi không ngưng sự trình hiện nhị nguyên, nên tính
Không là một danh định hơn là một sự thật tối hậu thực sự.
Bằng cách tập cho bản thân các ngươi
quen với quan điểm ấy vốn hiểu biết sự vắng mặt của tự tính, các ngươi sẽ hiểu
biết nó thông qua việc cảm nhận nó. Đối với một thức như vậy, tất cả những trình hiện sai lạc đều ngừng lại.
Sự trình hiện sai lạc ở đây nghĩa là sự trình hiện của tồn tại tự tính ở nơi
vốn không có sự tồn tại tự tính. Do đó, vì thức trực tiếp cảm nhận rằng thực
tại không cảm nhận được những nền móng chẳng hạn như các sắc tướng, nên cả thực
tại và những nền móng của nó đều không tồn tại từ tầm nhìn của tâm thức đó. Vì
vậy, tính Không và các sắc tướng, v.v… phải được thừa nhận như là thực tại và
những nền móng từ tầm nhìn của tâm thức khác nào đó, một tâm thức thường tục.
Do sự việc này như thế, nên một chân
lý tối hậu {Chân Đế} được thừa nhận, cùng với việc ngưng nghỉ của tất cả các
diễn tưởng về sự tồn tại nền tảng, ở nơi cũng có sự dừng lại hoàn toàn tất cả
các diễn tưởng về những trình hiện sai lạc, là những trình hiện về tồn tại tự
tính ở nơi vốn không có {sự tồn tại tự tính này}. Do đó, trong khi chúng tôi
khẳng định một bản chất cuối cùng, thì làm sao chúng tôi có thể bị buộc phải
chấp nhận một bản chất tồn tại một cách nền tảng được? Tác phẩm Minh Cú Luậncủa Nguyệt Xứng nói rằng:[16]
Bị dẫn dắt bởi sự hư hoại của vô minh, những chúng sinh
thông thường cảm nhận một khía cạnh nào đó trong các pháp. Vì những thánh giả
được giải thoát khỏi sự hư hoại của vô minh không thấy khía cạnh sai sót ấy,
nên có điều gì khác đóng vai trò là đối tượng của họ. Chính thực thể ấy được
thừa nhận là bản chất cuối cùng của các pháp đó.
Ngoài ra:[17][650]
Việc thiếu vắng sự sinh khởi tồn tại một cách tự tính của
các pháp không phải là bất cứ điều gì. Do vậy, vì đây chỉ là một phi pháp, nên
nó không có nền tảng. Do đó, nó không phải là tự tính của các pháp.
Một số người [Tây Tạng] không thừa
nhận chân lý tối hậu là sự loại trừ hoàn toàn các diễn tưởng về những đối tượng
của sự phủ nhận, ví dụ như hai bản ngã. Thay vì vậy họ cho rằng, vì đối tượng
của một tâm thức vốn hiểu biết không sai lạc về cách thức các pháp tồn tại, nên
điều tối hậu trình hiện tồn tại dưới sức mạnh của chính nó – như những pháp
chẳng hạn màu xanh và vàng trình hiện trước một tâm thức thông thường. Xác
quyết rằng nó tồn tại theo cách ấy chính là cái nhìn hiểu biết thâm diệu. Họ
cũng khẳng định rằng có một lỗi sơ suất liên quan đến chánh kiến để đánh giá các hiện tượng bên ngoài và bên trong–
những cơ sở liên quan đến việc chúng sinh bám chấp vào hai tự ngã – là thiếu
vắng sự tồn tại tự tính.
Những xác quyết này đứng ngoài nội
hàm của tất cả kinh điển, Tiểu Thừa và Đại Thừa. Họ chấp nhận là cần ngừng quan
điểm về tự ngã, căn nguyên trói buộc mọi chúng sinh trong luân hồi. Sau đó họ
khẳng định rằng các ngươi đừng dừng quan điểm về tự ngã qua việc hiểu ra rằng
không có sự tồn tại tự tính trong những nền móng mà nó nắm bắt như là một tự
ngã; mà đúng hơn là, các ngươi hãy dừng nó qua việc hiểu biết một số hiện tượng
khác không liên quan như là thật hữu. Điều này chẳng khác chi với viễn cảnh như
sau: Giả sử không có rắn ở phía đông, nhưng ai đó nghĩ rằng có rắn và cảm thấy
khiếp sợ. Các ngươi nói vớingười
đang đau khổ đó rằng: “Ngươi không thể dừng ý niệm của ngươi về việc có một con
rắn bằng suy nghĩ: ‘Không hề có rắn ở phía đông đâu’. Mà đúng hơn ngươi nên
nghĩ rằng: ‘Có một cái cây ở phía tây’. Điều đó sẽ ngăn chận ý niệm của ngươi
rằng có một con rắn và sẽ kết thúc nỗi đau khổ của ngươi”.
Do vậy, các ngươi vốn ước mong điều tốt
đẹp cho bản thân thì nên tránh xa những tà kiến như thế. Các ngươi nên thực
hiện phương tiện để nhổ tận gốc cách thức mà vô minh nắm bắt các pháp, vô minh
này là căn nguyên của tất cả những điều trói buộc các ngươi và làm các ngươi
suy yếu trong luân hồi. Về phương tiện này, những tác phẩm của người cha, thánh
giả Long Thọ, và đứa con tinh thần của ngài là Thánh Thiên đã trình bày rõ ràng
trong những tạng luận quảng đại xây dựng nên tri kiến thâm diệu và chắc chắn
của những kinh điển liễu nghĩa và trình bày làm thế nào để ý nghĩa của những
kinh điển này không thể bị diễn giải khác đi.[18][651] Bằng cách nương tựa vào những tác phẩm này của Long Thọ và Thánh Thiên,
hãy băng qua bờ bên kia của đại dương luân hồi.
Để tránh sự lầm lạc khi tiếp cận
quan điểm của Trung Quán, thì việc bác bỏ những ý niệm sai lầm về đối tượng của
sự phủ định là điều cốt yếu nhất. Vì lý do đó, ta đã trình bày một giải thích
mở rộng.
. 547
Chương 8: Ba Loại Người
2. Làm thế nào để tận dụng lợi
thế của một cuộc sống an lạc và thuận duyên
a. Làm thế nào
để phát triển tri thức tổng quát một cách chắc chắn về lộ trình tu tập
1) Nội dung bao
hàm của tất cả kinh điển về các lộ trình của ba loại người như thế nào
2) Vì sao các đệ
tử được hướng dẫn theo các giai đoạn áp dụng các rèn luyện dành cho ba loại
người
a) Mục đích của
việc hướng dẫn các đệ tử qua phương tiện của các lộ trình về ba loại người
b) Vì sao các
đệ tử được hướng dẫn theo những giai đoạn như vậy
i)
Nguyên nhân thật sự
ii)
Mục đích
––––\––––
2. Làm thế nào để tận dụng lợi thế của một cuộc sống an lạc và thuận duyên
Việc làm thế nào để tận dụng lợi
thế của một cuộc sống an lạc và thuận duyên được trình bày trong hai phần:
- Làm thế nào để phát triển tri thức tổng quát về lộ trình
một cách chắc chắn
- Phương pháp thật sự để tận dụng lợi thế của một cuộc sống
an lạc và thuận duyên (Chương 9 và tiếp theo)
a.Làm thế nào để phát triển tri thức tổng quát
một cách chắc chắn về lộ trình
Phương thức phát triển tri thức
tổng quan một cách chắc chắn về lộ trình gồm hai phần:
1. Nội dung bao
hàm của tất cả kinh điển về các lộ trình của ba loại người như thế nào
2. Vì sao các
đệ tử được hướng dẫn theo các giai đoạn áp dụng các rèn luyện dành cho ba loại
người
1)Nội dung bao hàm của tất cả kinh điển về các lộ trình của ba loại
người như thế nào
Ở lúc bắt đầu, một người muốn trở
thành một vị Phật sẽ phát triển tâm Bồ-đề; ở giai đoạn giữa, người này tích lũy
các công đức và trí tuệ tối thượng; và cuối cùng, người này chứng được Phật quả
toàn hảo. Tất cả những hành động này chỉ nhằm đến mục tiêu hạnh phúc cho chúng
sinh. Vì thế, tất cả những giáo pháp một vị Phật đưa ra chỉ giản dị là nhằm đạt
đến lợi ích cho chúng sinh. Điều này tức là, lợi ích của chúng sinh chính là
điều quý vị nên đạt được. [87] Lơi ích này bao gồm hai phần: mục tiêu tạm thời
về việc trạng thái cao làm người hoặc một vị thiên, và mục tiêu rốt ráo về điều
tốt đẹp chắc chắn là sự giải thoát hay sự toàn giác. Giữa hai điều này, nhiều
lời giáo huấn của đức Phật nói về việc đạt được mục tiêu tạm thời là trạng thái
cao. Tất cả những giáo huấn này được bao gồm trong các lời dạy dành cho một
hành giả chân chính có khả năng giới hạn {căn cơ nhỏ} hoặc trong những giáo
pháp dành chia sẻ với một hành giả như vậy, bởi vì những cá nhân có khả năng
đặc biệt giới hạn thật sự không làm nhiều cho kiếp sống này, mà họ nỗ lực tinh
tấn để có trạng thái cao thù thắng khi tái sinh làm người hoặc trời trong những
kiếp vị lai bằng cách xúc tiến nuôi dưỡng các nguyên nhân tạo ra các tái sinh
đó. Tác phẩm Bồ-đề Đạo Đăng Luậnnói
rằng:[1]
Hãy biết rằng
những ai “thấp nhất”
Nỗ lực chăm chỉ
nhằm chỉ đạt
Các an vui
trong cõi luân hồi
Bằng mọi cách
cho hạnh phúc riêng họ.
Có hai điều tốt lành chắc chắn:
sự giải thoát mà đơn thuần chỉ là tự do khỏi luân hồi và trạng thái giải thoát
tối thượng của toàn giác. Nhiều lời giáo huấn của đức Phật liên quan đến Duyên
Giác và Thanh Văn thừa. Tất cả những tuyên thuyết này được đề cập trong các
giáo pháp dành cho một hành giả có khả năng thật sự trung bình hoặc trong những
giáo pháp dành chia sẻ với một hành giả như vậy, bởi những hành giả có khả năng
trung bình sẽ phát khởi sự tỉnh giác với tất cả mọi thứ trong luân hồi và sau
đó thiết lập mục tiêu là giải thoát chính họ khỏi luân hồi. Rồi họ bước vào lộ
trình của ba sự rèn luyện, phương tiện để đạt giải thoát. Trong tác phẩm Bồ-đề Đạo Đăng Luận:[2]
Những người
được gọi là “trung bình”
Ngăn chận những
hành vi tội lỗi
Quay lưng với
an lạc trong luân hồi,
Và tinh tấn nỗ
lực cho thanh tịnh riêng mình.
Tác phẩm Hạnh Hiệp Đăng Luậncủa Trưởng lão [Atiśa] nói rằng:[3]
Bởi bổn sư, đức
Phật, nói rằng,
“Nương tựa Ba-la-mật
và Chân ngôn thừa[4]
Và thành đạt
được chân giác ngộ”,
Giờ ta sẽ viết
về ý nghĩa điều này.
Theo đó, phương thức đạt đến toàn
giác bao gồm hai phần: những Đại thừa của các Ba-la-mật-đa và Đại thừa của các
chân ngôn {skt. mantra – còn gọi là mật chú}. Hai phần này được bao gồm trong
những giáo pháp dành cho một hành giả thượng căn, vì những người này qua tác
động của lòng đại bi, lấy Phật quả làm mục tiêu của họ nhằm dẹp tan mọi đau khổ
của tất cả chúng sinh. Sau đó họ rèn luyện sáu Ba-la-mật-đa, hai giai đoạn[5], và tương
tự. [88] Trong tác phẩm Bồ-đề Đạo Đăng:[6]
Những người
được gọi là “thượng căn”
Thành tâm muốn
dẹp tan tất cả
Mọi đau khổ của
những người khác
Qua cách hiểu
nỗi khổ chính mình.
Dưới đây, tôi sẽ diễn giải phương
thức những người này đạt tới sự giác ngộ bao hàm trong cả Ba-la-mật-đa thừa lẫn
mật chú thừa. Liên quan đến những điều kiện dành cho ba loại người, các lời
giáo huấn này trong tác phẩm Bồ-đề Đạo
Đăng Luận có ý nghĩa tương tự với lời giáo huấn trong Quyết Định Yếu Luận của tác phẩm Du-già Hạnh Địa Luận:[7]
Hơn nữa, có ba
loại người như sau: có những người trì giữ phát nguyện về giới là từ bỏ mười
việc bất thiện, điều này vốn không được xem xét là một giới nguyện, tuy nhiên
nó cũng tương tự như giới nguyện. Có những người phát nguyện về Thanh Văn giới.
Có những người phát nguyện về Bồ-tát giới. Trong số này, loại người đầu tiên có
khả năng thấp nhất; loại người thứ hai là trung bình; và loại người thứ ba là
thượng hạng.
Ngoài ra, các kinh điển cũng đề
cập nhiều cách để định vị một hành giả có khả năng thấp nhất, trung bình và
thượng hạng. Tương tự Bồ-đề Đạo Đăng Luận
của ngài Atiśa, tác phẩm Vi Diệu Pháp
Báu Luậncủa ngài Thế Thân[8]cũng xác
định ba loại người. Thật sự có hai loại trong số những hành giả mang khả năng
giới hạn – những người nỗ lực cho kiếp sống này và những người nỗ lực cho những
kiếp vị lai. Tuy nhiên, ở đây tôi đang nói đến trường hợp sau, những người sẽ
được tôi nhận diện là thực hiện phương pháp đúng đắn để đạt địa vị cao.
2)Vì sao các đệ tử được hướng dẫn theo các giai đoạn áp dụng các rèn
luyện dành cho ba loại người
Sự diễn giải này gồm hai phần:
1. Mục đích của
việc hướng dẫn các đệ tử qua phương tiện của các lộ trình về ba loại người
2. Vì sao các
đệ tử được hướng dẫn qua những giai đoạn như vậy
a)Mục đích của việc hướng dẫn các đệ tử qua phương tiện của các lộ
trình về ba loại người
Tôi đã đưa ra sự diễn giải về ba
loại người. Tuy nhiên, các giai đoạn trong lộ trình dành cho hành giả có khả
năng cao cũng bao hàm trọn vẹn những lộ trình dành cho hai loại người còn lại.
Vì thế, hai lộ trình này là những phần, hay những chi, của đạo Đại thừa. [89]
Như đạo sư Mã Minh đề cập trong tác phẩm Thế
Tục Bồ-đề Tâm Tu Tập (Saṃvṛti-bodhicitta-bhâvanâ):[9]’
Không hại ai,
với tâm chân thật,
Và trong sạch;
không hề trộm cắp,
Và bố thí mọi
tài sản của ngươi
Là hành vi
khiến tái sinh hạnh phúc.
Một khi thấy
khổ đau của luân hồi,
Ngươi theo lộ
trình đúng để rời khỏi nó,
Và loại trừ hai
hành động tội lỗi;
Đó là hành vi
khởi tạo sự an nhiên.
Người thượng
căn nên tu tập tất cả điều này;
Đó là những ngả
đường của sự quyết tâm tối cao cho giải thoát.
Tri nhận rằng
chư pháp giai không
Tạo dòng chảy
từ bi cho mọi chúng sinh.
Những phương
tiện thiện xảo vô hạn
Là hoạt động
của quyết tâm tối thượng để giải thoát.
Vì vậy, trong việc này các vị đạo
sư không dẫn dắt quý vị theo con đường dành cho những hành giả có khả năng giới
hạn, những người lập mục tiêu chỉ đơn thuần vì hạnh phúc trong luân hồi, hay
con đường dành cho những hành giả có khả năng trung bình, những người chỉ lập
mục tiêu đơn thuần là sự giải thoát khỏi luân hồi cho bản thân họ. Đúng hơn là,
các đạo sư chọn ra một số lộ trình có chung cho hai loại người này và dùng
chúng làm những điều kiện tiên quyết để dẫn dắt quý vị theo lộ trình dành cho
những hành giả thượng căn. Vì thế họ dùng chúng làm những thành phần của lộ
trình rèn luyện dành cho những hành giả thượng căn. Do vậy, một khi quý vị đã
phát triển ước mong tận dụng lợi thế của kiếp người an lạc và thuận duyên này
như giải thích trước đây, quý vị phải biết được làm cách nào để tận dụng lợi
thế trọn vẹn của nó. Liên quan đến điều ấy, tác phẩm Trung Đạo Tâm Yếu Luậncủa ngài Thanh Biện nói rằng:[10]
Những tấm thân
này thật quá mỏng manh,
Như cây chuối
và như bong bóng nước.
Ai sẽ không
mang lại cho chúng sự vững vàng như núi Tu-di
Bằng việc lấy
chúng làm điều kiện để giúp đỡ cho những người khác?
Những tấm thân
này là cơ sở của bệnh tật, tuổi già, và sự chết
Những ai có
phẩm cách tốt và lòng từ bi
Khiến cho chúng
trong từng khoảnh khắc
Làm nền tảng
thăng tiến hạnh phúc của tha nhân.
Đời an lạc
tránh khỏi tám duyên không an lạc
Do bởi ngọn đèn
của giáo pháp tối thượng sáng soi
Hãy tận dụng
thật tốt an lạc này
Qua hành động
của một người thượng trí.
Vì vậy, hãy bước vào Đại thừa với
suy nghĩ: “ngày đêm, tôi sẽ luôn ứng xử như một hành giả thượng căn, tận dụng
tốt thân này, vốn là một nơi trú ngụ của bệnh tật, một cơ sở của các đau khổ,
của tuổi già và điều tương tự, cũng như nó vốn thiếu vững chắc tựa như cây
chuối hay bong bóng nước”.
Vấn: Từ lúc bắt đầu, vị đạo sư nên hướng dẫn đệ tử qua các tu tập
của một hành giả thượng căn. [90] Đâu là công dụng của sự rèn luyện theo những
lộ trình được chia sẻ với những hành giả có khả năng giới hạn và trung bình?
Đáp:Rèn luyện theo các lộ trình được chia sẻ với hai loại người
này là một điều kiện tiên quyết cho sự phát triển lộ trình của một hành giả
thượng căn. Tôi sẽ giải thích cách điều này là như thế.
b)Vì sao các đệ tử được hướng dẫn qua những giai đoạn như vậy
Việc vì sao các đệ tử được hướng
dẫn qua những giai đoạn như vậy được diễn giải về các mặt nguyên nhân thật sự
và mục đích.
i)Nguyên nhân thật sự
Đường vào Đại thừa chỉ có tâm
Bồ-đề vô thượng. Một khi điều này phát sinh trong dòng tâm thức của quý vị thì
như được đề cập trong tác phẩm Nhập Bồ-đề
Hành Luận của ngài Tịch Thiên:[11]
Khi chúng sinh
vô vọng,
Bị trói trong
ngục tù
Luân hồi bao
đau khổ
Phát khởi tâm
Bồ-đề
Họ sẽ được gọi
là
“con của đấng
Thiện Thệ”[12]
Và thật đáng
tôn vinh
Trong chư
thiên, nhân giới.[13]
Vì thế, những chúng sinh này bước
vào Đại thừa được đặt tên là “những đứa con của bậc Điều Ngự” hay “những vị
Bồ-tát”. Nếu họ hủy hoại tâm Bồ-đề của mình, họ sẽ tự trục xuất bản thân ra
khỏi đoàn thể những hành giả tu tập Đại thừa.
Do đó, những người ước mong bước
vào Đại thừa phải phát triển tâm Bồ-đề này bằng cách thực hiện nhiều dạng nỗ
lực. Những bản văn tối cao dạy về những giai đoạn của lộ trình Bồ-tát đạo, các
tác phẩm Bồ-tát Học Luận và Nhập Bồ-đề Hành Luận của ngài Tịch
Thiên, đề cập đến phương pháp phát triển tâm Bồ-đề ấy. Các tác phẩm đó nói rằng
trước tiên quý vị cần thiền quán về những ích lợi của nó. Sau đó, quý vị làm
mạnh mẽ nỗi hân hoan về những lợi lạc này từ tận đáy lòng của mình. Điều này
phải đồng hành với việc thực hành bảy hạnh nguyện {Phổ Hiền} cùng với sự thực
hành quy y.
Nếu quý vị viết cô đọng lại những
lợi ích được đề cập theo cách này, thì chúng bao gồm hai phần: tạm thời và rốt
ráo. Phần đầu tiên lại gồm hai khía cạnh nữa: không rơi vào những cảnh giới
khốn khổ và được tái sinh trong những cảnh giới hạnh phúc. Điều đó nghĩa là,
một khi phát tâm Bồ-đề, quý vị sẽ loại bỏ được nhiều nguyên nhân tích lũy từ
trước cho những sự tái sinh đau khổ, và quý vị chấm dứt sự tích lũy liên tục về
chúng trong tương lai. Quý vị cũng tăng trưởng mạnh mẽ những nguyên nhân đã
tích lũy từ trước cho những sự tái sinh hạnh phúc bởi chúng được thấm nhuần tâm
Bồ-đề này. Hơn nữa, bởi quý vị được tâm Bồ-đề này thúc đẩy, nên những nhân mà
quý vị gây tạo lại sẽ là khoog thể nào cạn kiệt. [91] Nương tựa tâm Bồ-đề này,
quý vị sẽ dễ dàng đạt đến những mục tiêu cuối cùng, sự giải thoát và toàn giác.
Ngay từ lúc bắt đầu, quý vị phải
có ước vọng chân thành mong cầu để đạt đến những lợi ích tối hậu và tạm thời
này. Nếu không có điều đó, quý vị có thể nói rằng: “Tôi sẽ nỗ lực phát triển
tâm Bồ-đề này” vì những lợi ích vốn sinh khởi từ việc
phát triển tâm Bồ-đề, nhưng đó sẽ chỉ là những lời nói suông. Sự rỗng tuếch của
lời tuyên bố này rất rõ ràng một khi quý vị kiểm chứng lại tâm thức của mình.
Vì thế, trước tiên quý vị phải
rèn luyện trong tư tưởng chung cho những cá nhân có khả năng giới hạn và trung
bình nhằm phát triển một niềm ước ao đạt được hai lợi ích, trạng thái cao [là
người hoặc trời] và điều tốt lành chắc chắn [sự giải thoát hay sự toàn giác].
Sau khi phát triển được điều ước như vậy, quý vị nuôi dưỡng tâm Bồ-đề, là thái
độ giúp sinh khởi những lợi ích ấy. Khi làm điều này, quý vị phải phát triển
lòng đại từ bi vốn là nền tảng cho thái độ này. Nói cách khác, khi quý vị quán
chiếu rằng mình đã lang thang trong luân hồi, bị mất đi hạnh phúc và bị nỗi đau
khổ hành hạ như thế nào, thì những sợi lông trên người quý vị phải nên dựng
đứng lên. Nếu không có sự trải nghiệm này, quý vị sẽ chẳng thể trở nên bất nhẫn
với sự đau khổ của những chúng sinh khác khi họ phải chịu đựng và bị tước đi
hạnh phúc bởi họ lang thang trong luân hồi. Trong tác phẩm Nhập Bồ-đề Hành Luận:[14]
Những ai chưa
nghĩ tưởng
Đến một thái độ
như vầy
Cho lợi ích
riêng họ;
Thì ngay cả
trong mơ
Làm sao khởi
được nó
Cho hạnh phúc
tha nhân?
Do vậy, trong bối cảnh người có
khả năng giới hạn, quý vị quán chiếu cách mà mình bị hãm hại trong những cảnh
giới khốn cùng đến như thế nào. Trong bối cảnh của hành giả có khả năng trung
bình, quý vị quán chiếu theo phương cách rằng thậm chí ở trạng thái cao, thì
cũng có đau khổ và không có được hỷ lạc an tịnh. Sau đó, quý vị thúc đẩy sự
phát triển tình yêu thương và lòng từ bi bằng cách nuôi dưỡng sự đồng cảm với
các chúng sinh, những người quý vị xem là gần gũi với mình. Từ đây quý vị sẽ
phát tâm Bồ-đề. Vì thế, sự rèn luyện suy nghĩ chung với những người có khả năng
giới hạn và trung bình là phương pháp phát khởi một tâm Bồ-đề chân thật; đó
không phải là một lộ trình riêng biệt nào mà vị đạo sư dẫn dắt quý vị theo.
Tương ứng theo đó, quý vị thực
hiện nhiều phương cách khác nhau để thanh tịnh hóa bản thân khỏi sự bất thiện
và tích lũy công đức nhờ sử dụng những tu tập để phát triển được cả thái độ
chia sẻ với những hành giả có khả năng giới hạn lẫn thái độ chia sẻ với những
hành giả có khả năng trung bình. Các ví dụ là việc quy y và việc suy nghĩ về
nghiệp và nghiệp báo. [192] Hãy hiểu rằng những điều này cũng giúp quý vị phát
tâm Bồ-đề, bởi chúng phù hợp với bảy hạnh nguyện Phổ Hiền hoặc với tu tập quy
y, vốn là những phương pháp rèn luyện đóng vai trò tiên quyết cho tâm Bồ-đề
trong bối cảnh của những tu tập dành cho hành giả thượng căn.
Ở điểm này, vị đạo sự trình bày
chi tiết một cách xuyên suốt về những phương cách mà trong đó, các rèn luyện
của những hành giả có khả năng giới hạn và trung bình đóng vai trò như các
thành phần cho sự phát tâm Bồ-đề vô thượng. Hơn nữa, quý vị, người đệ tử, sẽ
đạt đến tri thức chắc chắn về điều này. Sau đó, bất cứ khi nào quý vị duy trì
thiền, điều tối quan trọng là quý vị giữ vững hiểu biết này trong tâm và rèn
luyện những giáo pháp này như là các thành phần cho sự phát triển tâm Bồ-đề của
quý vị. Nếu không, lộ trình của hành giả thượng căn và những lộ trình của những
hành giả có khả năng giới hạn và trung bình sẽ bị tách biệt và không liên quan. Và bởi quý vị sẽ không đạt tri thức chắc chắn về tâm
Bồ-đề nào cả cho đến khi quý vị đạt đến lộ trình thật sự của hành giả thượng
căn, nên việc thiếu rèn luyện trong những chủ đề này, như là những phần của sự
phát triển tâm Bồ-đề của quý vị, sẽ khiến ngăn trở quý vị không phát triển được
tâm Bồ-đề ấy, hoặc, trong khi quý vị thiếu sự rèn luyện này, sẽ khiến cho quý
vị lệch khỏi mục tiêu to lớn của bản thân về việc phát tâm Bồ-đề ấy. Do đó, hãy
lưu ý kỹ ở điểm này.
Theo
phương cách này, hãy rèn luyện theo các lộ trình của nhữnghành giả có
khả năng giới hạn và trung bình và rèn luyện tốt những điều được diễn giải
trong bối cảnh dành cho hành giả thượng căn. Sau đó, bằng tất cả khả năng tốt
nhất, hãy phát khởi một tâm Bồ-đề chân thật trong dòng tâm thức của mình. Tiếp
theo, để tinh thần này trở nên ổn định, hãy tiến hành một sự tu tập đặc biệt về
quy y và sau đó thực hiện nghi lễ về sự phát tâm Bồ-đề mạnh mẽ. Sau khi quý vị
đã tiếp nhận tinh thần nguyện ước {Bồ-đề tâm nguyện} mạnh mẽ này qua nghi lễ,
quý vị phải nỗ lực học hỏi các giới luật của nó. Tiếp đến, hãy phát triển sự
ước ao mãnh liệt để học hỏi những hạnh Bồ-tát, như sáu Ba-la-mật-đa và bốn cách
thu nhận đệ tử. Một khi sự ước ao này sinh khởi từ tận đáy lòng quý vị, hãy
kiên định áp dụng lời thệ nguyện thanh tịnh về xúc tiến Bồ-đề tâm {Bồ-đề tâm
hành}. Sau đó, với sự dấn thân, hãy tránh bị những vi phạm căn bản làm cấu
nhiễm. Hãy nỗ lực để ngay cả những sự ô uế nhỏ nhoi và trung bình hoặc sự gây
tạo những lỗi lầm cũng không làm quý vị ô nhiễm. Ngay cả nếu quý vị bị ô nhiễm,
hãy làm thanh tịnh bản thân một cách triệt để bằng cách sửa đổi những sự vi
phạm như được chỉ dạy trong kinh.
Tiếp theo, hãy rèn luyện bao quát
về sáu Ba-la-mật-đa. Một cách cụ thể, hãy rèn luyện thật tốt về bình ổn thiền –
cốt lõi của định – để làm cho tâm thức của quý vị có khả năng được đặt lên một
đối tượng thiền thiện đức, theo sự ước mong của quý vị. [93] Tác phẩm Bồ-đề Đạo Đăng Luận của Trưởng lão[15]nói rằng
quý vị nên phát triển định từ thiền nhằm sinh khởi những tri kiến siêu việt.
Ngài dẫn ra một ví dụ đơn giản. Trong những tình huống khác, Ngài nói rằng quý
vị nên phát triển định lực nhằm sinh khởi tuệ giác. Vì vậy, đạt được định chủ
yếu nhằm mục tiêu cho tuệ. Sau đó, để cắt bỏ những trói buộc của quan niệm về
hai bản ngã {nhân vô ngã (tib. གང་ཟག་གི་བདག་མེད)
và pháp vô ngã (tib. ཆོས་ཀྱི་བདག་མེད)},
hãy lập một xác định triết lý về ý nghĩa của tánh Không, tức là sự vô ngã. Sau
khi duy trì một phương pháp thiền không sai sót, hãy đạt đến sự thấu suốt, tức
là trái tim của trí tuệ.
Theo đó, tác phẩm Bồ-đề Đạo Đăng Luận Thích của ngài Atiśa[16]đề cập
rằng, ngoại trừ những tu tập về định và tuệ, tất cả những sự tu tập trong mức
độ giới luật và bao gồm việc rèn luyện các giới luật của Bồ-đề tâm hành sẽ cấu
thành việc rèn luyện giới luật. Định là việc rèn luyện về sự tập trung hoặc
việc rèn tâm. Tuệ là việc rèn luyện về trí tuệ. Hơn nữa, tất cả những tu tập
trong mức độ định từ thiền và bao gồm định từ thiền cấu thành nên nhân tố của
sự giác ngộ được gọi là phương tiện, tức là sự tích lũy công đức, những đạo
pháp phụ thuộc vào các chân lý ước lệ {tục đế}, hay còn được gọi là những giai
đoạn của lộ trình bao quát. Sự phát triển của ba loại trí tuệ thấu suốt[17]cấu trúc nên nhân tố của sự giác ngộ được gọi là trí tuệ, sự tích lũy trí tuệ,
vốn phụ thuộc vào những chân lý tối hậu {chân đế}, hay còn gọi là những giai
đoạn của lộ trình uyên thâm. Vì thế, hãy biết thật chắc chắn về trình tự của
chúng, về sự thật rằng chúng là một danh mục toàn diện, và rằng quý vị không
thể đạt đến sự giác ngộ chỉ bằng phương tiện hay trí tuệ đơn thuần.
Đây là cách mà những chú ngỗng
hoàng gia, những đứa con của bậc Điều ngự, tức những kẻ đang trên con đường ra
đại dương mênh mông những phẩm hạnh diệu hảo của một vị Phật, sải đôi cánh của
chúng và bay lên. Một cánh là những chân lý quy ước – tất cả những nhân tố về
phương tiện, lộ trình bao quát. Một cánh kia, dựa vào những chân lý tuyệt đối,
đang hiểu biết rõ cả thực tại lẫn vô ngã. Tuy nhiên, chúng không thể chỉ sử
dụng một phần đơn lẻ của lộ trình, hay bay lên như chú chim gãy một cánh.[18]Như tác
phẩm Nhập Trung Quán Luận Thíchcủa
ngài Nguyệt Xứng đề cập:[19]
Dang đôi cánh
trắng và rộng của thực tại và ước lệ,
Những chú ngỗng
hoàng gia, hộ tống bởi đàn chúng sinh,
Bay trên những
ngọn gió đức hạnh để đạt đến vô thượng
Trên bờ xa,
những phẩm hạnh Phật lớn tựa đại dương. [94]
Sau khi quý vị rèn luyện tâm thức
bằng lộ trình thông thường, quý vị chắc chắn phải bước vào con đường mật chú
bởi vì khi thực hiện, quý vị sẽ nhanh chóng hoàn thành hai sự tích lũy. Nếu quý
vị không thể tu tập xa hơn lộ trình thông thường, hoặc không muốn làm điều đó
do thiên hướng của quý vị thừa kế từ những kiếp trước quá yếu, vậy thì chỉ cần
cải thiện trên từng giai đoạn này của lộ trình.
Quý vị được chỉ dạy rằng tất cả
các thừa nói chung và mật chú thừa nói riêng nương tựa vào vị đạo sư đều rất
cốt yếu. Bởi thế, một khi bước vào con đường chân ngôn, quý vị nên làm theo
những sự giải thích về mật chú, và tu tập một pháp môn dựa vào vị đạo sư thậm
chí còn chuyên sâu hơn những gì tôi diễn giải trước đây. Sau đó, hãy làm cho
tâm thức quý vị trở nên chín muồi với những quán đảnh đến từ những nguồn Mật thừa
thanh tịnh, trì giữ một cách đúng đắn với ngay cả sự rủi ro cho tính mạng của
quý vị, về tất cả những lời thệ và nguyện mà quý vị nhận được trong suốt các
quán đảnh của quý vị. Quý vị có thể phát nguyện lại nếu mình bị một sự vi phạm
căn bản tác động, tuy nhiên tâm thức quý vị sẽ bị hư hoại, và sẽ rất khó khăn
để tăng trưởng những phẩm hạnh diệu hảo. Vì thế, hãy nỗ lực một cách cụ thể để
không bị những vi phạm căn bản làm hư hỏng và không bị những vi phạm thứ cấp
làm ô nhiễm. Ngay cả nếu quý vị bị ô uế bởi những điều này, hãy thanh tịnh hóa
bản thân với sự sám hối và kiềm chế, vì những sự thệ nguyện là nền tảng của lộ
trình.
Tiếp đó hãy rèn luyện theo những
lời hướng dẫn tốt đẹp về Du-già với các biểu tướng (nói về những cấp độ Mật
thừa thấp hơn), hoặc Du-già của giai đoạn phát khởi (nói về Mật thừa Du-già ở
mức cao nhất). Sau khi sự rèn luyện này đã vững vàng, hãy rèn luyện thật tốt về
Du-già không biểu tướng (nói về những cấp độ Mật thừa thấp hơn), hoặc Du-già
của giai đoạn hoàn mãn (nói về Mật thừa Du-già ở mức cao nhất).[20]
Tác phẩm Bồ-đề Đạo Đăng Luận trình bày phần chính yếu của lộ trình như vậy;
những giai đoạn của lộ trình cũng hướng dẫn quý vị theo cách này. Đại Trưởng
lão cũng đã giáo huấn điều này trong những bản văn khác. Tác phẩm Đại Thừa Đạo Thành Tựu Pháp Tậpcủa Ngài
nói rằng:[21]
Nếu ngươi ước
mong chứng vô thượng Bồ-đề,
Vốn cao quý bất
khả tư lường,
Hãy dốc lòng tu
tập và thành tựu tâm Bồ-đề,
Bởi sự giác ngộ
phụ thuộc vào tu tập. [95]
Bởi thân thể an
lạc và thuận duyên toàn hảo này
Thật khó lòng
đạt được, và một khi nhận được
Sẽ rất khó mà
sở hữu lại lần sau,
Hãy khiến nó
đầy ý nghĩa nhờ nỗ lực tu tập.
Và tác phẩm Đại Thừa Đạo Thành Tựu Pháp Hạng Huống Tậpcủa Ngài nói rằng:[22]
Khi một cơ
duyên sinh khởi
Cho những phạm
nhân trốn khỏi ngục tù,
Họ bỏ chạy khỏi
nơi ấy,
Bởi mục tiêu họ
không như những thường nhân.
Cũng thế khi cơ
duyên sinh khởi
Để vượt qua
biển cả luân hồi,
Ngươi trồi lên
ra khỏi chốn luân hồi,
Bởi mục tiêu
ngươi không như những kẻ khác.
Tương tự:[23]
Hành Bồ-tát
giới bằng cách trì theo
Tu tập quy y,
giữ giới cao hơn,
Và nền tảng
Bồ-đề tâm nguyện mãnh liệt,
Hãy tu tập đúng
đắn, theo các giai đoạn, bằng năng lực của ngươi,
Tất cả những
Bồ-tát hành –
Sáu
Ba-la-mật-đa và tương tự.
Hơn nữa:[24]
Nuôi dưỡng trí
huệ tâm và phương tiện –
Trí huệ định
lực, và hợp nhất chúng.
Ngoài ra, tác phẩm Định Tập Phẩm của Bodhihadra {Giác Hiền}đề cập rằng:[25]
Đầu tiên, hãy
vững vàng tâm Bồ-đề toàn hảo của ngươi,
Sinh khởi từ
sức mạnh từ bi.
Đừng tham chấp
tận hưởng những nguồn vui trong luân hồi,
Và quay lưng
đừng bám lấy chúng.
Được ban những
bảo vật toàn hảo như niềm tin,
Hãy tôn kính
đạo sư của ngươi, người ngang hàng đức Phật.
Với những lời
nguyện đạo sư đã dạy,
Hãy tinh tấn
trong thiền.
Nhận qua lòng
từ của thầy
Sự ban tặng
những quán đảnh, cả bình cam lồ và mật ngữ.
Làm thanh tịnh
thân, khẩu, và ý,
Những hành giả
như vậy thích hợp để chứng ngộ.
Bằng việc hoàn
thành những sự tích tập
Sinh khởi từ
định chi,
Họ sẽ chóng đạt
sự chứng ngộ vô thượng.
Đó là con đường
của mật chú.
ii)Mục đích
Vấn:Nếu những giáo pháp dành cho những hành giả có khả năng giới
hạn và trung bình là các điều kiện tiên quyết cho hành giả thượng căn, chúng có
lẽ cũng được xem là những giai đoạn cho lộ trình của hành giả thượng căn. [96]
Vì sao lại sử dụng thành ngữ này: “các giai đoạn của lộ trình được chia sẻ với
những hành giả có khả năng giới hạn và trung bình”?
Đáp: Có hai mục đích to lớn của
việc phân biệt ba loại người và theo đó hướng dẫn các đệ tử: (1) điều đó đánh
tan suy đoán cho rằng quý vị là một hành giả thượng căn cho dù không phát triển
những trạng thái tâm thức tương tự như những hành giả có khả năng giới hạn và
trung bình, và (2) điều đó mang lại lợi ích to lớn cho những người có tâm thức
ở mức tốt nhất, trung bình và thấp nhất. Nó mang lợi ích cho họ như thế nào?
Ngay cả hai loại hành giả có khả năng cao hơn cũng phải tìm cầu địa vị cao và
sự giải thoát, vì vậy không có gì sai lầm khi giáo huấn các đệ tử có khả năng
trung bình và cao về những sự tu tập phát triển những thái độ của những hành
giả có khả năng giới hạn và những hành giả có khả năng trung bình. Họ sẽ phát
triển được những phẩm hạnh diệu hảo.
Những hành giả có khả năng giới
hạn nhất có thể rèn luyện những sự tu tập cao hơn, nhưng điều này sẽ dẫn đến
việc họ từ bỏ nhãn quan thấp hơn của họ mà lại không tăng trưởng lên được một
nhãn quan cao hơn, và vì vậy họ sẽ không được gì cả. Hơn nữa, có thể có những
hành giả nhiều thiện duyên đã phát khởi những lộ trình cao hơn trong những kiếp
trước. Nếu họ được giáo huấn về những lộ trình chia sẻ với những hành giả khả
năng thấp hơn và sau đó rèn luyện chúng, thì họ sẽ nhanh chóng tăng trưởng
những phẩm hạnh diệu hảo đã phát khởi trước đó hoặc những phẩm hạnh chưa phát
khởi từ trước. Vì vậy, bởi họ đã phát khởi những lộ trình thấp hơn, nên họ có
thể được dẫn dắt theo những lộ trình lần lượt cao hơn, và do đó lộ trình của
chính họ đã tu tập trong những kiếp trước sẽ không bị trì hoãn.
Tác phẩm Chân Ngôn Vương Vấn Kinh[26]dùng ví dụ về một thợ kim hoàn khéo tay dần dần tinh luyện được món trang sức
để minh họa sự cần thiết cho việc hướng dẫn tâm thức của đệ tử theo các giai
đoạn. Để thận trọng tránh sự dài dòng, tôi không trích dẫn chúng đầy đủ ở đây.
Vị hộ pháp Long Thọ cũng đã hướng dẫn các đệ tử theo những giai đoạn trong suốt
những lộ trình để đạt đến địa vị cao và sự tốt lành chắc chắn:[27]
Ban đầu có
những giáo pháp về trạng thái cao;
Rồi đến với
những giáo pháp về sự tốt lành chắc chắn.
Bởi khi đạt đến
trạng thái cao,
Ngươi dần vươn
tới sự tốt lành chắc chắn.
Tương tự, Tôn giả Vô Trước cũng
nói rằng:[28]
Hơn nữa, các vị
Bồ-tát hướng những đệ tử của họ thành tựu nhân tố đức hạnh của sự giác ngộ một
cách đúng đắn và theo các giai đoạn. Để làm được điều này, ban đầu họ đưa ra
những giáo pháp dễ dành cho những chúng sinh có trí tuệ non trẻ, yêu cầu họ tu
tập theo những huấn thị và giải nghĩa ở mức dễ dàng. Khi nhận thấy trí tuệ của
những chúng sinh này phát triển lên khả năng trung bình, các vị yêu cầu họ tu
tập những giáo pháp và huấn thị ở mức trung bình, và những sự giải nghĩa trung
bình. [97] Khi nhận thấy trí tuệ của những chúng sinh này trở nên rộng mở, các
vị yêu cầu họ tu tập những giáo pháp và huấn thị uyên thâm, và những sự giải
nghĩa vi diệu. Đây là luồng hoạt động mang tính quyết định cho hạnh phúc của
những chúng sinh này.
Ngoài ra, tác phẩm Hạnh Hiệp Đăng Luậncủa ngài Thánh Thiên
mô tả phương pháp trước tiên quý vị rèn luyện tư duy về Ba-la-mật-đa thừa và
sau đó bước vào mật chú thừa. Tác phẩm chứng minh rằng quý vị phải thực hiện
điều này theo các giai đoạn. Sau đó điểm này được tóm tắt như sau:[29]
Phương pháp
những chúng sinh khởi đầu
Tham gia vào
mục tiêu tối thượng
Được đức Phật
toàn hảo huấn thị
Tương tự từng
bậc của cầu thang.
Hơn nữa, tác phẩm Tứ Bách Kệ Tụng[30]cũng đề cập rằng trình tự của con đường là xác định:
Thoạt tiên,
ngừng các việc thất đức.
Tiếp theo,
ngừng sai lầm về ngã.
Cuối cùng, dứt
tất cả tà kiến;
Ai hiểu điều
này là bậc tinh thông.
Tương tự, vị đa văn đạo sư Mẫu
Hầu đã nói rằng:[31]
Tựa như việc
nhuộm vải không còn vết nhơ:
Trước tiên họ
phát triển điều thiện trong tâm đệ tử
Thông qua những
bàn luận về bố thí và tương tự,
Và rồi họ bảo
đệ tử quán tưởng về giáo pháp.
Viện dẫn bản văn này, đại sư
Nguyệt Xứng cũng cho rằng đạo pháp có một trình tự xác định. Vì trình tự mà
chúng tôi dùng để hướng dẫn những người khác đi theo con đường một cách rõ ràng
là rất thiết yếu cho sự tu tập của họ, hãy đạt đến sự chắc chắn vững vàng về
phương pháp này.
Chương
BA218 Caryâ-saṃgraha-pradîpa, P5379:186.3.6-7.