HTThíchThanh Từ soạn dịch
TuViệnChơn Không 1971
Giữathếkỷ thứ mười sau Phật Niết-bàn
Ngàidòng Sát-Đế-Lợi ở Nam-Ấn, con vua Đức-Thắng, Lúc bé,Ngài đã sùng mộ Phật giáo, tánh tình thuần lương, thôngminh xuất chúng. Vì can thiệp với vua cha về việc hại TổBà-Xá-Tư-Đa, Ngài bị hạ ngục. Sau khi được thả, Ngàilấy cớ bệnh, từ ngôi Thái-tử, xin xuất gia với Tổ Bà-Xá-Tư-Đa.Sau đó, Ngài được Tổ truyền tâm ấn, đi giáo hóa các nơi.
Ngàisang Đông-Ấn hoằng hóa. Vua nước nầy hiệu Kiên-Cố đangtin trọng các thầy Phạm-Chi. Hay tin Ngài vào nước nầy,chúngPhạm-Chi họp nhau bàn mưu hãm hại. Thầy bọn Phạm-Chi xintheo vua lên chỗ cao, ông chỉ xa hỏi vua: -Bệ hạ thấy gìkhông? Phương-Tây có yêu khí, ắt ma vào nước. Vua đáp: -Khôngthấy,song có gì đáng ngại? Phạm-Chi thưa
-Manầy đến thì quốc gia suy vong. Xin dâng kế với bệ hạ,chi bằng mình tiêu diệt trước đi. Vua đáp: -Chưa thấy họcó tội gì? đâu thể nhẫn tâm hại được. Phạm-Chi lạitiến cử một đồ chúng giỏi chú thuật để theo vua trịma. Ngài dự biết trước việc xảy đến nên dặn đồ chúng:-Ta đến thành nầy ắt có nạn nhỏ, các ngươi chớ sợ.Đến thành, Ngài xin vào yết kiến nhà vua. Vừa gặp, vua liềnhỏi: -Thầy đến đây làm gì ? Ngài đáp: -Tôi đến đâyvì độ chúng sanh. Vua hỏi: -Sẽ lấy pháp gì? độ nhữngloài chúng sanh nào? Ngài đáp: -Tùy mỗi loài kia dùng phápđộ họ.
Vuahỏi: -Nếu có người pháp thuật giỏi, thầy dám chống chăng? Ngài đáp: -Phật pháp rất chơn chánh, dù thiên ma cũng hàngphục được, huống là yêu thuật mà chẳng dám chống sao? Ngoại đạo nghe nói nổi nóng, liền dùng pháp thuật hóaquả núi lớn, hiện trên không ngay đầu Ngài, như chực sắpđè. Ngài lấy tay chỉ, quả núi bay lại trên đầu bọn PhạmChi chúng hoảng sợ cầu Ngài cứu mạng. Ngài lấy tay chỉ,quả núi tan mất. Vua và chúng Phạm-Chi đều kính phục xinNgài từ bi tha lỗi.
Nhơnđó, Ngài đem yếu lý Phật pháp giảng giải cho vua nghe. Vuahiểu rõ, thêm lòng quí kính, thỉnh Ngài lưu lại trong hoàngcung.Ngài cũng cho nhà vua biết rằng trong nước nhà vua cómột vị thánh nhơn sẽ nối tiếp Ngài truyền đạo
Nguyêntrong nước nầy có một đồng tử con dòng Bà-la-môn. Cha mẹmất sớm, đồng tử ấy phải ăn xin để sống qua ngày. Đồngtử nầy tánh tình phóng khoáng lạ thường, không ai biếttên họ gì. Có khi đồng tử tự xưng là Anh-Lạc, nên dânchúng gọi là đồng-tử Anh-Lạc. Gặp lúc đồng tử đi nhanh,có người hỏi:-Sao anh đi nhanh vậy? Đồng tử đáp: -Saocác người đi chậm quá.Có người hỏi: -Anh họ gì? Đồngtử đáp: -Tôi với các người đồng họ.Một hôm,vua Kiên-Cốcùng NgàiBất-Như-Mật-Đa ngồi chung xe đi sang thành Đông. Anh-Lạcra đón, đứng trước xe làm lễ. Ngài nói với nhà vua:
-Ngườinầy là thánh nhơn ở trong nước đại vương vậy. Ngài lạihỏi Anh-Lạc: -Ngươi nhớ việc xưa chăng ? Anh-Lạc thưa: -Tôinhớ xưa đồng trong pháp hội, Tôn-giả giảng Bát-Nhã-Ba-La-Mật-Đa,tôi giảng Tu-Đa-La thậm thâm. Duyên xưalại gặp, nên mới đón nhau đây. Ngài nói với vua: -Đồngtử nầy là hóa thân của Bồ-Tát Đại-Thế-Chí ra đời đểnối dòng pháp cho tôi. Sau tôi sẽ có hai vị đại-sĩ ra đời,vị trước giáo hóa ở Nam-Ấn, vị sau có duyên với nướcTrung-Hoa, nhưngở bên ấy chín năm rồi trở về bổn quốc. Ngài bảo Anh-Lạc:-Do xưa ta giảng Bát-Nhã, ông thuyết Tu-Đa-La, nay lạigặp đây, nên lấy Bát-Nhã-Đa-La đặt tên ngươi. Bát-Nhã-Đa-Lalễ tạ, theo thầy xuất gia. Ngài ở Đông-Ấn ngót sáu chụcnăm hoằng truyền chánh pháp. Thấy cơ duyên sắp mãn, Ngàigọi Bát-Nhã-Đa-La đến dặn dò: -Xưa Như-Lai trao đại phápnhãn tạng lần lượt truyền đến ta, nay ta đem truyền lạicho ngươi, ngươi nên lưu truyền chớ để dứt mất.
-Ngheta nói kệ: Chơn tánh tâm địa tàng, Vô đầu diệc vô đuôi,Ứng duyên nhi hóa vật, Phương tiện hô vi trí.
Dịch: Kho tâm địa chơn tánh, Không đầu cũng không đuôi, Hợpduyên tùy hóa vật, Phương tiện gọi là trí.
Ngàitừ giả vua Kiên-Cố rằng: -Đại-vương gánh vác việc nước,ủng hộ Tam-Bảo đều được an ổn. Vì tôi hóa duyên đãhết, không vì quyến luyến ân đức đại vương mà ở lâu,nay tôi sắp đi, đại vương khéo bảo hộ Phật pháp.
Ngàinói xong, trở lại chổ ngồi, thị hiện các thứ thần biến,rồi thị tịch. Vua và môn đồ xây tháp thờ xá-lợi cúngdường.