Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

31. Tổ Đạo-Tín

16/04/201109:18(Xem: 3969)
31. Tổ Đạo-Tín

BAMƯƠIBA VỊ TỔ ẤN HOA
HTThíchThanh Từ soạn dịch
TuViệnChơn Không 1971

Tổthứ tư Trung-Hoa
31.-Đạo-Tín ( 580 – 651 T.L. )

Sưhọ Tư-Mã, tổ tiên quê ở Hà-Nội, thân phụ Sư dời vềKỳ-Châu huyện Quảng-Tế, mới sanh Sư. Sư xuất gia khi cònđể chóp. Tuy tuổi ấu thơ, mà Sư có ý chí siêu việt, ngưỡngmộ Không tông và các môn giải thoát.

Năm14 tuổi là một Sa-di, Sư gặp Tổ Tăng-Xán cầu xin pháp môngiải thoát, được Tổ khai ngộ cho. Sư theo hầu Tổ suốtchín năm, mới được truyền pháp. Sau khi được pháp, Sưmột bề tinh tấn trọn ngày đêm không nằm. Niên hiệu Đại-Nghiệpthứ 13 (613 T.L.) đời Tùy, Sư thống lãnh đồ chúng sang Kiết-Châu.Đến đây bị bọn giặc Tào-Võ-Vệ vây thành suốt bảy tuần.Dân chúng trong thành kinh hoàng. Sư dạy họ chí tâm niệm <Ma-ha-bát-nhã>. Toàn dân trong thành đều thành kính tụng niệm. Quả nhiênbọn giặc nhìn trên thành có thần binh trùng điệp, chúngsợ hãi rút quân. Niên hiệu Võ-Đức thứ hai (619 T.L.) đờiĐường, Sư sang đất Loa-Xuyên. Ở đây, Sư giáo hóa ngótbảy năm. Sau Sư trở về an trụ tại Kỳ-Xuân trên núi Phá-Đầu.Ở đây, Tăng chúng bốn phương đua nhau tìm đến tham vấnrất đông.

ĐờiĐường niên hiệu Trịnh-Quán thứ tư (630 T.L.) Sư đang ởtrên núi Phá-Đầu nhìn xem khí tượng, biết trên núi Ngưu-Đầucó bậc dị nhơn. Sư đích thân tìm đến núi nầy, vào ChùaU-Thê hỏi thăm những vị tăng rằng: -Ở đây có đạo nhơnchăng? Có vị tăng đáp: -Phàm là người xuất gia ai chẳngphải đạo nhơn? Sư hỏi: -Cái gì là đạo nhơn? Tăng imlặng không đáp được. Có vị tăng khác thưa: -Cách đâychừng mười dặm bên kia núi,có một vị sư tên Pháp-Dung,lười biếng đến thấy người chẳng đứng dậy chào, cũngkhông chấp tay, phải là đạo nhơn chăng? Sư liền trèo núitìm đến thấy Pháp-Dungđang ngồi thiền trên tảng đá, dường như chẳng để ýđến ai. Sư hỏi: -Ở đây làm gì ? Pháp-Dung đáp: -Quán tâm.-Quánlà người nào, tâm là vật gì? Pháp-Dung không đáp được,bèn đứng dậy làm lễ thưa: -Đại đức an trụ nơi nào?

Sưđáp: -Bần tăng không có chỗ ở nhất định, hoặc Đônghoặc Tây. –Ngài biết thiền sư Đạo-Tín chăng ? –Vì saohỏi ông ấy? –Vì nghe danh đức đã lâu, khao khát muốnđến lễ yết. -Thiền sư Đạo-Tín là bần đạo đây. –Vìsao Ngài quan lâm đến đây? –Vì tìm đến thăm hỏi ngươi,lại có chỗ nào nghỉ ngơi chăng? Pháp-Dung chỉ phía sau,thưa: -Riêng có cái am nhỏ. Pháp-Dung liền dẫn Sư về am.Chung quanh am toàn loài cọp sói nằm đứng lăng xăng, Sư giơhai tay lên làm thế sợ. Pháp-Dung hỏi: -Ngài vẫn còn cáiđó sao ? Sư hỏi: -Cái đó là cái gì? Pháp-Dung không đápđược. Giây lát, Sư lại tấmđá của Pháp-Dung ngồi vẽ một chữ PHẬT, Pháp-Dung nhìnthấy giật mình. Sư bảo: -Vẫn còn cái đó sao? Pháp-Dungkhông hiểu, bèn đảnh lễ cầu xin Sư chỉ dạy chỗ chânyếu. Sư bảo: -Phàm trăm ngàn pháp môn đồng về một tấtvuông. Diệu đức như hà-sa thảy ở nơi nguồn tâm. Tất cảmôn giới, định, huệ, thần thông biến hóa, thảy đều đầyđủ nơi tâm ngươi. Tất cả phiền não xưa nay đều khônglặng. Tất cả nhơn quả đều như mộng huyễn, không có tamgiới có thể ra, không có bồ-đề có thể cầu. Người cùngphi nhơn tánh tướng bình đẳng. Đại đạo thênh thang rộnglớn bặt suy dứt nghĩ. Pháp như thế, nay ngươi đã đượckhông thiếu khuyết, cùng Phật không khác, lại không có phápgì lạ.

Chỉtâm ngươi tự tại, chớ khởi quán hạnh, cũng chớ lóng tâm,chớ khởi tham sân, chớ ôm lòng lo buồn, rỗng rang không ngại,mặc tình tung hoành, chẳng làm các việc thiện, chẳng làmcác việc ác, đi đứng ngồi nằm, mắt thấy gặp duyên thảyđều là diệu dụng của Phật. Vì vui vẻ không lo buồn nêngọi là Phật.

Pháp-Dungthưa: -Tâm đã đầy đủ, cái gì là Phật? cái gì là tâm? Sư đáp: -Chẳng phải tâm thì không hỏi Phật, hỏi Phậtthì chính là tâm. Pháp-Dung thưa: -Đã không khởi quán hạnh,khi gặp cảnh khởi tâm làm sao đối trị? Sư đáp: -Cảnhduyên không có tốt xấu, tốt xấu khởi nơi tâm, nếu tâmchẳng theo danh (tên), vọng tình từ đâu khởi? Vọng tìnhđã chẳng khởi, chơn tâm mặc tình biết khắp. Ngươi chỉtùy tâm tự tại, chẳng cầu đối trị, tức gọi là phápthân thường trụ, không có đổi thay. Ta thọ pháp môn đốngiáo của Tổ Tăng-Xán, nay trao lại cho ngươi. Nay ngươi nhậnkỹ lời ta, chỉ ở núi nầy sau có năm vị đạt nhơn đếnnối tiếp giáo hóa. Một hôm Sư đến huyện Huỳnh-Mai, giữađường gặp một đứa bé dáng vẻ khôi ngô, độ chừng bảytuổi. Sư để tâm nơi đứa bé, bèn hỏi: -Ngươi họ gì ?Đứa bé đáp: -Họ thì có, mà không phải họ thường. –Làhọ gì? –Là họ Phật.

-Ngươikhông họ à ? –Vì họ ấy là không. Sư nhìn những ngườithị tùng bảo: -Đứa bé nầy không phải hạng phàm, sau nầysẽ làm Phật pháp hưng thịnh. Sư cùng thị tùng tìm đếnnhà đứa bé, thuật những lời đối đáp lạ thường củanó và xin cha mẹ cho nó xuất gia. Cha mẹ đứa bé đồng ýcho nó xuất gia. Thế là, Sư nhận đứa bé làm đệ tử xuấtgia, đặt tên là Hoằng-Nhẫn. Một hôm Sư gọi Hoằng-Nhẫnđến bảo: -Xưa Như-Lai truyền chánh pháp nhãn tạng chuyểnđến đời ta, nay ta trao lại cho ngươi cùng với y bát. Ngươiđều giữ gìn, cố gắng truyền trao không cho dứt bặt. Ngheta nói kệ:

Hoachủng hữu sanh tánh, Nhơn địa hoa sanh sanh, Đại duyên dữtín hiệp, Đương sanh sanh bất sanh.

Dịch:Giống hoa có tánh sống, Nhơn đất hoa nảy mầm, Duyên lớncùng tín hợp, Chính sanh, sanh chẳng sanh.

Sưlại bảo Hoằng-Nhẫn: -Trước trong thời Võ-Đức ta có viếngLô-Sơn, lên tột trên đảnh nhìn về núi Phá-Đầu thấy mộtvầng mây màu tía giống như cái lộng, dưới phát ra lằnhơi trắng chia ra sáu đường, ngươi cho là điềm gì ? Hoằng-Nhẫnthưa: -Đó là điềm sau Hòa-Thượng con cháu sẽ chia thêm mộtnhánh Phật pháp. Sư khen: -Hay thay, ngươi khéo biết đó

Niênhiệu Trinh-Quán thứ 18 (644 T.L.) nhà Đường, Vua Thái-Tôngngưỡng mộ đạo hạnh của Sư sai sứ mang chiếu thỉnh Sưvề kinh đô để tham vấn đạo lý. Sứ đi đến ba phen màthỉnh không được. Sư cứ từ chối là già bệnh. Lần thứtư, vua hạ lệnh nếu Sư không chịu đi thì lấy thủ cấpđem về, vì Sư phạm tội trái lệnh. Sứ giả đọc chiếuchỉ xong, Sư ngửa cổ chosứ chém, mà thần sắc vẩn thản nhiên. Sứ giả thấy thế,không dám hạ thủ, trở về tâu lại nhà vua. Vua nghe việcnầy càng thêm kính phục, gởi đồ lụa gấm đến cúng dường.

Đếnniên hiệu Vĩnh-Huy năm thứ 2 (651 T.L) đời Đường, ngày mùng4 tháng 9 nhuần năm Tân-Hợi, Sư gọi môn nhân vào dặn: -Tấtcả các pháp thảy đều là giải thoát, các ngươi phải tựgìn giữ và giáo hóa đời sau. Nói xong, Sư ngồi an nhiên thịtịch. Sư thọ 72 tuổi. Môn nhơn xây tháp thờ tại núi Phá-Đầu.Sư từ khi ngộ đạo cho đến lúc thị tịch gần ngót mườinăm mà vẫn tinh tấn tu hành không khi nào nằm nghỉ.Thậtlà một gương sáng về hạnh giải đều tuyệt đỉnh.

Ngàymùng tám tháng tư năm sau, tự nhiên cửa tháp mở ra, nghi dungcủa Sư xinh tươi như lúc sống. Từ đây về sau môn nhơnkhông đóng cửa tháp. Đời Tống vua truy phong Sư hiệu ĐạiY Thiền Sư.

_____________________________

Phần-Phụ:1. –Tài Tòng Đạo Giả

Mộthôm, Tổ Đạo-Tín đi viếng núi Long-Phong gặp một vị sưgià trồng tòng, thời nhơn gọi là Tài-Tòng đạo giả. Vịsư ấy hỏi Tổ rằng: -Đạo Pháp của Như-Lai có thể chotôi nghe được chăng? Tổ đáp: -Tuổi ông đã già, dù cónghe được cũng

khônghoằng hóa kịp. Nếu có tái sanh được thì ta cũng nán chờ.

Đạogiả nghe dạy rồi từ tạ đi xuống núi. Đến huyện Huỳnh-Mai,thấy một cô gái đang giặt áo ở bờ sông, ông chào và hỏi:-Nhà cô ở gần xa, cô vui lòng cho tôi nghỉ nhờ được chăng? Cô đáp: -Tôi còn cha mẹ không dám tự quyền, mời Sư vàonhà hỏi cha mẹ tôi là hơn. Ông bảo: -Vậy cô có bằng lòngkhông cho tôi biết? Cô đáp: -Riêng tôi bằng lòng. Đạo giảnghe cô hứa chịu, bèn trở về núi ngồi ngay thẳng viên tịch.

Côgái kia là con út của nhà họ Châu, sau khi hứa lời với Đạogiả rồi, không bao lâu có thai. Cha mẹ cô thấy chưa chồngmà có thai, là làm ô nhục gia phong, quyết định đuổi côđi. Cô đang tuổi trẻ mà mang phải cái nợ giữa đường,sống bơ vơ không chỗ nương đỡ, phải đi kéo chỉ mướnnuôi miệng qua ngày.

Đếnngày, cô sinh ra một đứa con trai xinh xắn, nhưng vì sự kỳdị không chồng có con, nên cô đành đem thả xuống sông.

Sángngày, cô thấy đứa bé ngồi xếp bằng trên mặt nước, khísắc tươi tỉnh lạ thường.Cô vừa lấy làm lạ vừa xótthương nên bồng về nuôi dưỡng. Đến bảy tuổi, đứa bégặp Tổ Đạo-Tín đối đáp một cách phi thường, đượcTổ xin về cho xuất gia đặt tên là Hoằng-Nhẫn. Hoằng-Nhẫncó nghĩa là mẹ nhẫn nhục nuôi con, cũng có nghĩa Tổ Đạo-Tínnhẫn chờ đứa bé khôn lớn truyền pháp. Theo truyện nầy,Tổ Hoằng-Nhẫn là thân sau của Tài-Tòng đạo giả.

2.-Thiềnsư Pháp-Dung núi ngưu Đầu (594 – 567 T.L.)

Sưhọ Vi quê ở Duyên-Lăng, Nhuận-Châu. Năm mười chín tuổi,Sư đã học thông kinh sử, tìm xem đại bộ Bát-Nhã hiểuthấu lý chơn không. Một hôm, Sư tự than: -Đạo nho sách đời,không phải pháp cứu cánh. Bát-Nhã chánh quán là thuyền bèxuất thế.Sư bèn vào ở ẩn núi Mao theo thầy xuất gia họcđạo. Sau, Sư đến núi Ngưu-Đầu ở trong thất đá trên ngọnnúi phía bắc chùa U-Thê. Lúc đó, có các loài chim tha bôngđến cúng dường. Các loài thú dữ quanh quẩn bên Sư khôngngớt.

Khoảngniên hiệu Trinh-Quán nhà Đường (627-650 T.L) Tổ Đạo-Tínnhơn thấy khí tượng lạ tìm đến gặp Sư. Nhơn đó, Sưđược đại ngộ. Từ khi đắc pháp về sau, nơi pháp tịchcủa Sư đại thạnh. Khoảng niên hiệu Vĩnh-Huy đời Đường(650-656 T.L) đồ chúng thiếu lương thực, Sư phải sang Đơn-Dươnghóa duyên. Đơn-Dương cách núi Ngưu-Đầu đến tám mươi dặm,Sư đích thân mang một thạch(tạ) tám đấu, sáng đi chiềuvề để cúng dường ba trăm tăng. Như vậy, mà ngót ba năm,Sư cung cấp không thiếu. Quan Ấp Tể tên Tiêu-Nguyên-Thiệnthỉnh Sư giảng Kinh Bát-Nhã tại chùa Kiến-Sơ. Thính giảvân tập. Sư giảng đến phẩm Diệt-Tĩnh, đất chấn động.Bác-Lăng-Vương hỏi Sư: -Khi cảnh duyên sắc phát, không nóiduyên sắc khởi; làm sao biết được duyên, muốn dứt cáikhởi ấy? Sư đáp: -Cảnh sắc khi mới khởi, Sắc cảnh tánhvẫn không, Vốn không người biết duyên, Tâm lượng cùngtri đồng, Soi gốc phát chẳng phát, Khi ấy khởi tự dứt,Ôm tối sanh hiểu duyên, Khi duyên, tâm chẳng theo, Chí nhưtrước khi sanh, Sắc tâm không nuôi dưỡng, Từ không vốnvô niệm, Tưởng thọ ngôn niệm sanh, Khởi pháp chưa từngkhởi, Đâu cầu Phật chỉ dạy. Hỏi: -Nhắm mắt không thấysắc, Cảnh lự lại thêm phiền, Sắc đã chẳng quan tâm, Cảnhtừ chỗ nào phát? Sư đáp: -Nhắm mắt không thấy sắc, Trongtâm động lự nhiều, Huyễnthức giả thành dụng, Há gọi trọn không lỗi, Biết sắcchẳng quan tâm, Tâm cũng chẳng quan người, Tùy đi có tướngchuyển, Chim bay trông không thật. Hỏi: -Cảnh phát không chỗnơi, Duyên đó hiểu biết sanh, Cảnh mất hiểu lại chuyển,Hiểu bèn biến làm cảnh, Nếu dùng tâm kéo tâm, Lại thànhbiết bị biết, Theo đó cùng nhau đi, Chẳng lìa mé sanh diệt? Sư đáp: -Tâm sắc, trước, sau, giữa, Thật không cảnh duyênkhởi, Một niệm tự ngừng mất, Ai hay tính động tịnh, Đâybiết tự không biết, Biết, biết duyên chẳng hợp, Nên tựkiểm bản hình, Đâu cầu tìm ngoại cảnh, Cảnh trước khôngbiến mất, Niệm sau chẳng hiện ra, Tìm trăng chấp bóng huyền,Bàn dấu đuổi chim bay, Muốn biết tâm bản tánh, Lại nhưxem trong mộng, Ví đó băng tháng sáu, Nơi nơi đều giốngnhau, Trốn không trọn chẳng khỏi, Tìm không lại chẳng thành,Thử hỏi bóng trong gương, Tâm từ chỗ nào sanh? Hỏi: -Khiđều đặn dụng tâm, Nếu là an ổn tốt? Sư đáp: -Khi đềuđặn dụng tâm

Đềuđặn không tâm dụng, Bàn quanh danh tướng nhọc, Nói thẳngkhông mệt phiền, Không tâm đều đặn dụng, Thường dụngđều đặn không, Nay nói chỗ không tâm, Chẳng cùng có tâmkhác. Hỏi: -Người trí dẫn lời diệu, Cùng tâm phù hợpnhau, Lời cùng tâm đường khác, Hiệp thì trái vô cùng ? Sưđáp: -Phương tiện nói lời diệu, Phá bệnh đạo đại thừa,Bàn chẳngquan bản tánh, Lại từ không hóa tạo, Vô niệm là chơn thường,Trọn phải bặt đường tâm, Lìa niệm tánh chẳng động

Sanhdiệt chẳng trái lầm, Cốc hưởng đã có tiếng, Bóng gươnghay ngó lại.

Niênhiệu Hiển-Khánh năm đầu (656 T.L) nhà đường, Ấp Tể TiêuNguyên Thiện thỉnh Sư xuống núi trụ trì chùa Kiến Sơ

Sưhết lời từ chối mà không được. Bất đắc dĩ, Sư gọiđệ tử thượng thủ là Trí-Nham truyền trao pháp ấn và dặndò tiếp nối truyền dạy tại núi nầy. Sư sắp xuống núibảo chúng: -Ta không còn bước chơn lại núi nầy. Lúc đóchim thú kêu buồn gần suốt tháng không dừng. Trước am cóbốn cây ngô đồng, giữa tháng hè bỗng nhiên rụng lá.

Nămsau (657 T.L) ngày 23 tháng giêng, Sư thị tịch tại chùa Kiến-Sơ,thọ 64 tuổi, tuổi hạ được 41. Ngày 27 đưa quan tài lênnúi Kê-Long an táng, số người tiển đưa hơn vạn.

Pháithiền của Sư truyền, sau nầy gọi là Ngưu-Đầu-Thiền, vìlấy tên núi mà đặt tên. Số môn đồ khá đông, lưu truyềnthạnh hành đến sáu đời mới dứt.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567