HTThíchThanh Từ soạn dịch
TuViệnChơn Không 1971
Đầuthếkỷ thứ bảy sau Phật Niết-bàn
Ngàidòng Phạm-Ma ở nước Ca-Tỳ-La, Thuở nhỏ đã có sẵn lòngmộ đạo. Khi lớn do cơ duyên trong vườn có cây mọc nấm,Tổ Đề-Bà giải thích nhơn do, mà Ngài được xuất gia. Saukhi được truyền tâm ấn, Ngài thống lãnh đồ chúng du hóanhơn gian, lần lượt đến phía Nam thành Thất-La-Phiệt gặpsông Kim-Thủy. Ngài bảo chúng:
-Cácngươi biết chăng? Vừa thấy bóng năm đức Phật hiện dướidòng sông, ta lấy bát mút nước nếm có mùi vị lạ, ngượcdòng sông nầy chừng năm trăm dặm sẽ có bực chí nhơn ở,hiệu là Tăng-Già-Nan-Đề.
Ngàibèn dẫn chúng theo ven bờ sông trở lên,quả nhiên thấy Nan-Đềđang ngồi thiền trong thất đá. Ngài và đồ chúng
dừnglại xem,chờ đến bảy ngày Nan-Đề mới xuất định. Ngàihỏi Nan-Đề: -Thân ông định hay tâm ông định?
Nan-Đềđáp: -Thân tâm đều định. –Thân tâm đều định sao cóxuất nhập? –Tuy có xuất nhập mà không mất tướng định, nhưvàng ở trong giếng,vàng ra ngoài giếng,thể vàng vẫn yênlặng. -Nếu vàng ở trong giếng,vàng ra ngoài giếng,thể vàngkhông động tịnh,thì vật gì ra vào ? -<Nơi vàng không độngtịnh thì vật gì ra vào> ? Đã thừa nhận vàng ravào mà thể vàng không động tịnh. -Nếu vàng ở trong giếngthì ra là vật gì? –Vàng,nếu ra ngoài thì ở trong giếngkhông phải vàng,Vàng nếu ở trong giếng thì ra không phảivật. –Nghĩa nầy không đúng. –Lý kia chẳng nhằm. –Nghĩa nầyđã ngã. –Nghĩa kia chẳng thành. –Nghĩa kia chẳng thành mànghĩa của ta thành. –Nghĩa ta tuy thành mà pháp không có ta.–Nghĩa ta đã thành vì ta mà không ta. –Ta mà không ta lạithành nghĩa gì? –Vì ta không ta nên thành nghĩa của ngươi.–Nhơn giả thờ vị thánh nào mà được <không ta> ấy? -Thầy ta là Bồ-Tát Ca-Na-Đề-Bà chứng được <khôngta>. Nan-Đề tán thán: -Cúi đầu lễ Đề-Bà, người tạothành nhơn giả. Vì nhơn giả <không ta>, tôi muốn thờ nhơngiả. Ngài bảo : -Vì ta đã<không ta>, ngươi cần thấy tata. Ngươi nếu thờ nơi ta, biết ta chẳng ta ta.
Nan-Đềtâm được rỗng rang liền đảnh lễ nói kệ:
Tamgiới nhất minh đăng, Hồi quang nhi chiếu ngã, Thập phươngtất khai lãng, Như nhật hư không trụ.
Dịch: Ba cõi một ngọn đèn, Ánh sáng soi chiếu con, Mười phươngđều sáng lạng, Như mặt trời trong không.
Nan-Đềnói kệ xong,lại đảnh lễ cầu xin thế độ. Ngài bảo: -Tâmngươi tự tại chẳng lệ thuộc vào ta, cần gì nương nhờmà cầu giải thoát. Một hôm, Ngài gọi Nan-Đề đến bảo:-Nay ta đã già không còn ở đời bao lâu, đại pháp nhãntạng của Như-Lai trao lại cho ngươi. Nghe ta nói kệ :
Ưpháp thật vô chứng, Bất thủ diệc bất ly, Pháp phi hữuvô tướng, Nội ngoại vân hà khởi.
Dịch: Nơi pháp thật không chứng, Chẳng giữ cũng chẳng lìa, Phápchẳng tướng có không, Trong ngoài do đâu khởi.
Nan-Đềnghe kệ xong càng thêm cung kính, nói kệ tán thán:
Thiệntai đại thánh giả, Tâm minh du nhật nguyệt, Nhất quang chiếuthế giới, Ám ma vô bất diệt.
Dịch: Lành thay! bậc đại thánh, Tâm sáng như nhật nguyệt, Ánhsáng chiếu thế giới, Ma tối diệt hết sạch.
Ngàingồi trên tòa lặng lẽ thị tịch. Bốn chúng xây tháp cúngdường.