HTThíchThanh Từ soạn dịch
TuViệnChơn Không 1971
Sanhsau Phật 30 năm
Ngàiconvua Hộc-Phạn, dòng Sát-đế-lợi, ở thành Ca-tỳ-la-vệ,em ruột Đề-bà-đạt-đa, em con nhà chú của Phật Thích Ca.Thuở nhỏ, ngài có nhiều tướng tốt và thông minh tuyệtvời. Đến 25 tuổi xin theo Phật xuất gia.
Mộthôm, Phật cần chọn người làm thị giả, tất cả hội chúnglần lượt đứng ra xin làm thị giả, mà Phật không bằnglòng. Sau cùng, Tôn-giả Đại-Mục-Kiền-Liên nhập định biếttôn ý Phật muốn A-Nan làm thị giả.
Đạichúng cử Tôn- giả Mục-Kiền-Liên, Xá-Lợi-Phất, v, v….đến yêu cầu Ngài làm thị giả. Ngài nhiều lần từ chối,song các Tôn-giả một bề nài nỉ buộc lòng Ngài phải xinPhật ba điều, nếu Phật ưng cho, Ngài mới dám làm thị giả.
1/Không theo Phật thọ trai riêng, nếu thí chủ không mời ngài.
2/Không mặc y thừa của Phật.
3/Không đến Phật phi thời. Thế-Tôn chẳng những chấp thuậnlời xin của Ngài, mà còn khen ngợi Ngài thông minh biết dựđoán trước những điều sẽ xẩy ra. Thế là, Ngài theo làmthị giả Phật ngót 25 năm.
Hômnọ, Ngài đi khất thực về đến tịnh-xá Phật, thấy Dimẫu Ma-ha Ba-Xà-Ba-Đề đang đứng tựa cửa khóc. Di mẫu quầnáo bụi bặm, chân dính bùn nhơ, vẻ người bi thảm. Ngàiđến gần hỏi duyên cớ. Biết Bà từ xa tìm đến xin Phậtxuất gia, đôi ba phen năn nỉ mà Phật quyết định không cho.Ngài cảm động, vào đảnh lễ Phật xin cho Bà được xuấtgia. Phật vẫn nhiều lần từ chối, Ngài vẫn kiên chí xinkỳ được mới thôi. Thế là mở đầu cho phái nữ xuấtgia, chính Ngài là người tích cực khai đường vậy.
Chínhđức Phật đã từng khen Ngài:
─Thị giả của các đức Phật đời quá khứ, không ai hơnA-Nan, thị giả các đức Phật đời vị lai cũng không ai hơnA-Nan.
VàPhật khen A-Nan được tám điều chưa từng có v.v…
Saukhi Phật Niết-bàn, Tổ Ca-Diếp triệu tập các đại Tỳ-kheokiết tập kinh điển, Ngài là người được toàn hội đềcử kiết tập tạng kinh… Khi sắp tụng lại lời Phật, Ngàinhìn qua đại chúng nói kệ:
Tỳ-kheochư quyến thuộc
LyPhật bất trang nghiêm !
Dunhư hư không trung
Chúngtinh chi vô nguyệt.
Dịch:
Tỳ-kheocác quyến thuộc
VắngPhật chẳng trang nghiêm !
Vínhư trong hư-không ,
Nhiềusao mà không trăng.
Nóikệ xong, Ngài đảnh lễ đại chúng, lên pháp tòa mở đầu:
─Tôi nghe như vầy, một lúc nọ Phật ở tại xứ... nói kinh…cho đến trời người v.v… đều kính lễ vâng làm.
Ngàikiết tập kinh xong Tổ Ca Diếp hỏi đại chúng:
─Đại-Đức A-Nan tụng đọc lại có chỗ nào sai lầm chăng?
Đạichúng đồng thinh đáp:
Chẳngkhác những lời đức Thế-Tôn đã nói.
Mộthôm Ngài hỏi Tổ Ca-Diếp:
─Khi Thế-Tôn phú chúc và truyền y kim-tuyến cho sư-huynh, còncó truyền pháp gì riêng nữa chăng ?
TổCa-Diếp liền gọi:
─A-Nan !
Ngàiứng thinh:
─Dạ.!
TổCa-Diếp bảo:
─Cây cột phướng trước chùa ngã. Ngài nhơn đây tỏ ngộ.
TổCa-Diếp bèn ấn chứng và đem chánh pháp nhãn-tạng truyềnlại cho Ngài. Tổ nói kệ:
Pháppháp bổn lai pháp,
Vôpháp vô phi pháp.
Hàư nhất pháp trung,
Hữupháp hữu phi pháp
Dịch:
Cácpháp,pháp xưa nay,
Khôngpháp,không phi pháp .
Tạisao trong một pháp,
Cópháp,có phi pháp ?
Ngàiđảnh lễ thọ nhận. Môn đệ của Ngài có hai vị xuất sắc,Thương-Na-Hòa-Tu và Mạc-Điền-Để Ca (Mạc-Điền-Địa).Ngài chọn Thương Na Hòa Tu làm người kế thừa tổ vị vàtruyền trao y bát lại.
Cảmthấy thân bèo bọt đã đến thời kỳ hoại diệt, đã tìmđược người kế.thừa, Ngài dự định vào Niết-bàn, Ngàiđến từ giả vua A-Xà-Thế, song không gặp vua. Ngài liềnđi thẳng đến bờ sông Hằng, lên một chiếc thuyền ngồikiết-già thả trôi lơ lửng giữa dòng sông. Vua A-Xà-Thếhay tin Ngài sắp vào Niết-bàn ở sông Hằng, liền cùng quanquân tùy tùng tìm đến bờ sông. Vua thấy Ngài ngồi trênthuyền ở giữa dòng sông bèn đảnh lễ nói kệ:
Khểthủ tam giới tôn,
Khíngã như chí thử.
Tạmbằng bi nguyện lực,
Thảmạc Bát-niết-bàn.
Dịch:
Lạyđấng tôn tam giới,
Bỏcon đến nơi nầy.
Tạmnương sức bi nguyện,
Xinchớ vội Niết-bàn.
Vuanước Tỳ-Xá-Ly nghe tin cũng đến bên bờ kia sông Hằng, đảnhlễ và nói kệ:
Tôngiả nhất hà tốc,
Nhiqui tịch diệt trường !
Nguyệntrụ tu du gian,
Nhithọ ư cúng dường.
Dịch:
Tôngiả sao quá nhanh,
Sớmvào nơi tịch diệt !
Xintạm dừng chốc lát,
Đểnhận con cúng dường.
Ngàithấy hai vua đồng đến khuyến thỉnh, bèn nói kệ:
Nhịvương thiện nghiêm trụ,
Vậtvi khổ bi luyến.
Niết-bànđương ngã tịnh,
Nhivô chư hửu cố.
Dịch:
Haivua ở an vui,
Chớvì thương buồn khổ.
Niết-bàn,tôi an tịnh,
Vìkhông còn các nghiệp.
Ngàigiữ tâm bình đẳng ở giữa dòng sông vào Niết-bàn. Hai vuahọp nhau làm lễ thiêu thân Ngài và phân chia xá-lợi xây thápcúng dường.