Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

1. Tổ Ma-Ha-Ca-Diếp (Mahakasyapa)

16/04/201109:18(Xem: 4306)
1. Tổ Ma-Ha-Ca-Diếp (Mahakasyapa)

BAMƯƠIBA VỊ TỔ ẤN HOA
HTThíchThanh Từ soạn dịch
TuViệnChơn Không 1971

ẤnĐộ
01-TổMa-Ha-Ca-Diếp. (Mahakasyapa)15-TổCa-Na-Đề-Bà. (Kanadeve)
02-TổA-Nan. (Ananda)16-TổLa-Hầu-La-Đa. (Rahulata)
03-TổThương-Na-Hòa-Tu. (Sanakavasa)17-TổTăng-Già-Nan-Đề. (Sanghanandi)
04-TổƯu-Ba-Cúc-Đa. (Upagupta)18-TổGià-Da-Xá-Đa. (Gayasata)
05-TổĐề-Đa-Ca. (Dhrtaka)19-TổCưu-Ma-La-Đa. (Kumarata)
06-TổDi-Dá-Ca. (Miccaka)20-TổXà-Dạ-Đa. (Jayata)
07-TổBà-Tu-Mật. (Vasumitra)21-TổBà-Tu-Bàn-Đầu. (Vasubandhu)
08-TổPhật-Đà-Nan-Đề. (Buddhanandi)22-TổMa-Noa-La. (Manorhita)
09-TổPhục-Đà-Mật-Đa. (Buddhamitra)23-TổHạc-Lặc-Na. (Haklena)
10-TổHiếp-Tôn-Giả. (Parsvika)24-TổSư-Tử. (Aryasimha)
11-TổPhú-Na-Dạ-Xa. (Punyayasas)25-TổBà-Xá-Tư-Đa..(Basiasita)
12-TổMã-Minh. (Asvaghosha)26-TổBất-Như-Mật-Đa. (Punyamitra)
13-TổCa-Tỳ-Ma-La. (Kapimala)27-TổBát-Nhã-Đa-La. (Prajnatara)
14-TổLong-Thọ. (Nagarjuna)28-TổBồ-Đề-Đạt-Ma. (Bodhidharma)


1.-Tổ Ma-Ha-Ca-Diếp (Mahakasyapa)
Đồngthời đức Phật

NgàidòngBà-la-môn (Brahmana) ở nước Ma-Kiệt-Đà, cha tên Ẩm-Trạch,mẹ tên Hương-Chí. Thuở bé, Ngài dung nghi trang nhã, toànthân màu vàng, ánh sáng chiếu rất xa. Thầy tướng xem tướngngài nói:

─Đứa bé nầy đời trước có phước đức thù thắng, lẽưng xuất gia

Chamẹ Ngài nghe nói lo sợ,cùng nhau thầm bàn (sẽ cưới vợđẹp để làm nhụt chí của nó). Vừa lớn lên, cha mẹ liềnlo chọn người lập gia thất cho ngài, nhưng ngài một bềtừ chối, sau cùng bất đắc dĩ ngài phải nói:

─Có người con gái nào thân đồng màu sắc như con, con mớiưng cưới.

Chamẹ ngài bèn đúc một tượng vàng, đẩy đi khắp trong nước,tìm người nữ nào giống màu sắc ấy, cưới cho ngài. Quảnhiên, gặp được một cô con gái giống hệt như ngài, thếlà ngài phải lập gia đình

Bởiđời đức Phật Tỳ Bà Thi (Vipasyin), sau khi Phật Niết-bàn,chúng xây tháp thờ Xá-lợi, trong tháp có an trí một pho tượngPhật phết vàng. Lâu ngày pho tượng trên mặt bị lở khuyết.Khi ấy, ngài ca-diếp là thợ đúc vàng, có cô gái nhà nghèo,vì thấy mặt Phật hư khuyết, cô còn một đồng tiền vàngđem đến nhờ Ngài ca-diếp nấu ra để phết lại tượngPhật.Thấy cô phát tâm tu bổ tượng Phật, ngài rất hoanhỷ đứng ra làm chu tất việc nầy, nhơn đó, hai người cùngnguyện đời đời sẽ làm vợ chồng, mà coi như đôi tri-kỷ,chớ không vì tình dục.

Dophước báo đó nên 91 kiếp thân thể hai vị đều toàn mộtmàu vàng. Sau sanh cõi Phạm-thiên, hết phước cõi Phạm-thiênchết, sanh về cõi nầy trong nhà Bà-là-môn giàu có hiện tại.Tuy hiện nay hai vị làm vợ chồng, mà sống như tình tri-kỷ,không có ý dâm dục.
Đếnsau,cả hai đều xin cha mẹ xuất gia. Cha mẹ bằng lòng, ngàiliền xuất gia làm Sa-môn vào núi tu hạnh Đầu-đà (Dhuta).Một hôm,nhơn nghe trong hư không có tiếng bảo:

─Phật đã ra đời, nên đến đó thọ giáo.

Ngàiliền tìm đến tịnh-xá Trúc-Lâm, chí thành đảnh lễ Phật.

Phậtbảo:

─Lành thay Tỳ-kheo đến đây, hãy cạo bỏ râu tóc đi.

Ngàiliền cạo bỏ râu tóc, thọ giới Tỳ-kheo, mặc y cà-sa. Từđây, ngài theo Phật hiểu sâu giáo Pháp, tinh tấn tu hành khônglúc nào lơi lỏng, cho đến chứng quả A-La-Hán. Có lần ngàitừ xa đến ra mắt Phật. Các chúng Tỳ kheo ngồi vây quanhPhật, trông thấy ngài mặc y bằng vải rách, thân hình tiềutụy, có ý thầm khi. Phật biết, bèn bảo:

─Ca-Diếp đến đây! Ta nhường nửa tòa cho ngồi.

Ngàivẫn không dám ngồi. Phật bảo các Tỳ-kheo:

Tacó đại từ đại bi, các thiền-định tam-muội và vô lượngcông đức để tự trang nghiêm. Tỳ-kheo Ca-Diếp cũng như thế.Do đó,ta nhường nửa tòa cho Ca-Diếp ngồi. Chúng Tỳ-kheođều dứt tâm ngạo mạn, lại thầm cung kính ngài.

Hômnọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên,cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chímcười (niêm hoa vi tiếu). Phật bảo :

─Ta có chánh Pháp nhãn tạng, Niết-bàn diệu-tâm, pháp môn mầunhiệm, chẳng lập văn-tự, ngoài giáo lý truyền riêng, naygiao phó cho ngươi. Ngươi khéo gìn giữ chánh pháp nầy, truyềntrao mãi đừng cho dứt, đến sau sẽ truyền cho A-Nan. Thế-Tônđến trước tháp Đa-Tử gọi Ma-Ha-Ca-Diếp đến chia nửatòa cho ngồi, lấy y Tăng-Già-Lê quấn vào mình Ca-Diếp, rồinói kệ phó pháp:

Phápbổn pháp vô pháp
vôpháppháp diệc pháp
Kimphóvô pháp thời
Pháppháphà tằng pháp.
Dịch:
Phápgốcpháp không pháp
Phápkhôngpháp cũng pháp
Naykhitrao không pháp
Mỗiphápđâu từng pháp.
Ngàigiàyếu, Phật nhiều lần khuyên:

─Ca-Diếp tuổi đã già, nên ở một chổ nhận những thứccúng dường của thí chủ, chớ đi khất thực nhọc nhằn.

Ngàibạch Phật :

─Con tuy già yếu, song không dám ở một chổ thọ sự cúng dườngcủa thí chủ. Vì sợ e sau này, các Tỳ kheo đời sau sẽ nói:

─Đệ tử lớn của Phật trước kia vẫn ở một chỗ thọsự cúng dường, rồi họ sanh phóng túng.
LúcPhậtNiết-bàn tại thành Câu-Thi-Na trong rừng Sa-La, thì ngàiđang ở trong động Tất-Bát-La (SthaviRa) trên núi Kỳ-Xà-Quật.Nghe tin Phật Niết-bàn, ngài và 500 đệ tử vội vã hướngvề thành Câu-Thi-Na. Đến nơi, đã đễ Phật vào kim-quan,ngài buồn bã. Thầy trò đi nhiễu kim-quan ba vòng, rồi đảnhlễ Phật. Khi ấy, hai bàn chân Phật duỗi ra ngoài kim-quanđể an ủi ngài. Ngài vuốt ve hai bàn chân Phật, lòng rấtbi thảm.

Saukhi thiêu thân Phật xong,ngài tuyên bố với chúng Tỳ-kheo:

─Xá-lợi của Phật giao cho trời, người xây tháp thờ làmruộng phước, còn trách nhiệm Tỳ-kheo chúng ta phải lo kếttập kinh điển để lưu lại đời sau.

Ngàibèn nói kệ :
Như-Laiđệtử
ThảmạcNiết-bàn
Đắcthầnthông giả
Đươngphókiết tập
Dịch:
ĐệtửNhư-Lai
ChớvộiNiết-bàn
Ngườiđượcthần thông
Nênđếnkiết tập .

Thếlà, sau Phật Niết-bàn 7 ngày, Ngài triệu tập 500 vị đạiA-La-Hán tụ hợp tại núi Kỳ-Xà-Quật, trong động Tất-Bát-Lakiết tập.nChỉ có tôn giả A-Nan không được dự hội, vìchưa sạch các lậu, Tôn-giả A-Nan buồn bả, suốt đêm chuyêntâm thiền-định, đến gần sáng liền chứng ngộ, các lậudứt sạch được quả A-La-Hán .

Sauđó,tôn giả được mời dự hội. Ngài thưa toàn chúng:

─Tỳ-kheo A-Nan nhớ giỏi bậc nhất, thường theo hầu hạ Như-Lai,nghe pháp Phật nói ghi nhớ không sót, như nước rót vào bìnhkhông rơi ngoài một giọt, nên mời kiết-tập tạng Kinh vàtạng Luận . Mời Tỳ-kheo Ưu-Ba Ly kiết tập tạng Luật. Toànchúng đều hoan-hỷ chấp thuận.

Hộikiết-tập nầy, Ngài là chủ-tịch. Sau cuộc kiết tập đãviên mãn,nhơn duyên độ sanh đã xong xuôi, Ngài thấy tuổiđã già yếu lắm, bèn gọi tôn giả A-Nan đến bảo:

─Khi Như-Lai sắp vào Niết-bàn có dặn ta đem chánh pháp nhãntạng giao phó cho ông. Nay ta sắp ẩn, đúng lúc giao phó choông, ông phải khéo gìn giữ chớ để đoạn dứt.

Ngàinhớ lời Phật dặn giữ gìn y bát của Phật đợi đến PhậtDi-Lặc ra đời sẽ trao lại, nên dự bị vào núi Kê-Túc nhậpđịnh. Liền đó, Ngài đi từ giả vua A-Xà-Thế và nhữngngười thân thuộc, rồi vào núi Kê-Túc trải tòa cỏ ngồian nhiên nhập định.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com