Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

137. Kinh Phân Biệt Sáu Xứ

19/05/202011:35(Xem: 10672)
137. Kinh Phân Biệt Sáu Xứ

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majhima  Nikàya )


Tập IV
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : [email protected]


137. Kinh PHÂN BIỆT SÁU XỨ

( Salàyatanavibhanga sutta )

 

Như vậy, tôi nghe :

 

          Một thời, Đức Thế Tôn Thiện Thệ 

          An trú tại Xá-Vệ thành này

              Sa-Vát-Thí (1) cũng là đây

       Kỳ Viên Tinh Xá  hôm mai tịnh, hòa

          Còn có tên Chê-Ta-Va-Ná  (2)

          Khu vườn do Trưởng giả tên là

              A-Na-Thá-Pin-Đi-Ka  (3)

       Tức Cấp-Cô-Độc , thuần hòa tín gia

          Mua lại từ Kỳ Đà thái tử  (4)

          Để cúng dường Điều Ngự Thế Tôn

              Cùng với Tăng đoàn Sa-môn

     __________________________

 

(1) : Thành Xá-Vệ – Savatthi  – là thủ phủ của nước Kosala, do vua 

       Ba-Tư-Nặc ( Pasenadi ) trị vì.

(2) & (3) : Kỳ Viên Tinh Xá – Jetavana Vihàra,  do Trưởng giả Tu-

     Đạt (Sudatta ) thường được gọi là Cấp Cô Độc (Anathapindika)

    dâng cúng. 

(3) : Thái tử Kỳ-Đà – Jeta , là con vua Ba-Tư-Nặc, là chủ nhân của

    khu vườn mà ông Cấp Cô Độc muốn mua để dâng cúng làm Tinh

   Xá. Thái tử thì không muốn bán, ông Sudatta thì quyết tâm muốn

   mua vì thấy khu vườn rất thích hợp. Bị nài nỉ mãi nên Thái tử mới

   nói để ông Trưởng giả bỏ ý định mua : trải vàng tới đâu thì bán

  tới đó. Không ngờ ông Trưởng giả hoan hỷ cho chở vàng đến lót

  khắp vườn. Cảm phục trước tâm đạo nhiệt thành đó nên Thái tử

  xin dâng cúng luôn toàn bộ cây cối trong vườn.   Do đó Tinh Xá

  có tên là Jetavanànàthapindikàràma  – Kỳ thọ Cấp-cô-độc viên

 ( vườn Cấp-cô-độc, cây Kỳ-đà ).   Nhưng sau Thái tử bị giết bởi người anh em khác mẹ là Adudubbha (Tỳ-Lưu-Ly) để cướp ngôi. 

 

 

       Có nơi hoằng hóa pháp môn nhiệm huyền.

          Lúc bấy giờ Phật liền cho gọi

          Chư Tỷ Kheo và nói như vầy :

 

        – “ Các Tỷ Kheo ! Hãy nghe đây ! ”.

 

       Chúng Tăng vâng đáp lời Ngài truyền ra.

          Đức Phật Đà trang nghiêm thuyết giảng :

 

    – “ Các Tỷ Kheo ! Ta giảng giải ra

             ‘Phân biệt sáu xứ’ sâu xa

       Các ông hãy lắng nghe và nghiệm suy ”.

 

    – “ Bạch đấng Chánh Biến Tri ! Vâng ạ ! ”.

 

          Chúng Tăng đã vâng đáp lời Ngài.

          Thế Tôn liền thuyết giảng ngay :

 – “ Có ‘sáu nội xứ’ ở đây phải tường.

         ‘Sáu ngoại xứ’ phải đương cần biết.

          Sáu ‘thức thân’ cần thiết biết đây

              Sáu ‘xúc thân’ cần biết ngay,

      ‘Ý hành mười tám’ phải rày biết tinh,

         ‘Ba mươi sáu hữu tình’ các loại

          Cũng cần phải hiểu biết đủ đầy.

              Tại đây, y cứ cái này

       Và cũng đoạn tận cái này sâu xa.

          Còn có ba niệm xứ bậc Thánh

          Phải thực hành chân chánh trải qua

              Bậc Thánh mới xứng đáng là

       Bậc Đạo Sư diễn giả mà chúng nhân

          Hằng kính phục. Trong phần các bậc

          Huấn luyện sư, chính thật vị này

              Đáng được gọi là bậc Thầy

       Vô thượng Điều-ngự-sư đây tuyệt vời,  

          Điều phục người đáng được điều phục.

          Đây là mục tổng thuyết về phần

             ‘Phân biệt sáu xứ’ chánh chân

       Khi được nói đến về phần nêu trên.

 

         ‘Sáu nội xứ’ phải nên cần biết

          Do duyên gì cần thiết nói ra ?

              Nhãn & nhĩ & tỷ & thiệt xứ, và 

       Thân xứ, ý xứ. Đó là duyên đây.

          Được nói ngay ‘sáu nội xứ’ đó.

 

          Còn khi có nói đến điều này :  

             ‘Sáu ngoại xứ’ phải biết ngay,

       Duyên gì nói đến điều đây như vầy ?

          Sắc xứ này cùng thanh & hương xứ,

          Vị & xúc xứ, pháp xứ sáu phần.

              Khi ta được nghe đến rằng :

       Có ‘sáu ngoại xứ’ phải cần biết đây

          Do duyên này được nói như vậy.

 

          Khi được nói : ‘Sáu loại thức thân’

              Cần nên biết, phải hiểu rằng

       Do duyên gì nói đến phần ‘thức thân’ ?  

          Nhãn & nhĩ & tỷ & thiệt & thân thức ấy

          Cùng ý thức ; chính đấy là duyên,

              Sáu thức thân phải biết liền.

 

       Còn khi nói đến từ duyên nào mà

         ‘Sáu xúc thân’ của ta cần biết ?

          Nhãn & nhĩ & tỷ cùng thiệt xúc, và

              Thân xúc, ý xúc. Khi mà 

       Nói đến : Sáu xúc thân ta phải tường

          Do duyên này nên thường nói vậy.

          Khi nói : ‘Mười tám loại ý hành

 

              Cần phải biết cho thật rành’,

       Duyên gì nói đến ý hành ở đây ?

 

          Khi ‘mắt’ này thấy ‘sắc’ đủ thứ

          Ý theo sắc trú xứ hỷ này,

              Theo sắc trú xứ ưu ngay,

       Theo sắc trú xứ xả đây tức thì.

 

          Và sau khi ‘tai’ nghe được ‘tiếng’…

         ‘Mũi’ ngửi ‘hương’, ‘lưỡi’ nếm ‘vị’ vầy,

              Sau khi ‘thân’ cảm ‘xúc’ đầy,

       Khi ‘ý’ nhận thức ‘pháp’ này được nêu…

          Ý chạy theo pháp khởi lên hỷ

          Ý chạy theo pháp khởi ưu liền,

              Và xả theo pháp khởi lên.

       Như vậy tất cả có nên, tựu thành

          Sáu hỷ hành, ưu hành cũng sáu

          Và có sáu xả hành, như vầy

              Đó chính là do duyên này,

       Ý hành mười tám biết ngay đủ đầy,

          Do duyên này nói đến như vậy.

 

          Còn ‘Ba mươi sáu loại hữu tình’

              Cần phải biết. Duyên gì sinh

       Để nói như vậy ? Quá trình xảy ra 

          Hỷ liên hệ tại gia có sáu,

          Hỷ có sáu liên hệ xuất ly.

              Sáu ưu liên hệ xuất ly,

       Sáu ưu liên hệ tại gia, cùng là

          Xả liên hệ xuất ly có sáu,

          Xả có sáu liên hệ tại gia,

              Ý nghĩa là chi đề ra ?

       Sáu hỷ liên hệ tại gia này, và

 

          Hỷ khởi lên, hoặc là do nó

          Nhận được hay thấy có nhận vào.

 

              Sắc do mắt nhận thức mau

       Khả ái, khả hỷ, dạt dào lạc an

          Liên hệ sang đến thế vật đó

          Hoặc do nhớ những gì nhận rồi,

              Đã qua, đã diệt, mất rồi.

       Loại hỷ như vậy ta thời gọi ra :

         ‘Hỷ liên hệ tại gia’ là nó.

 

          Còn khi có hỷ khởi lên, và  

              Hoặc do nhận được, hay là

       Thấy sự nhận được tiếng là do tai…

          Hương do mũi ở đây nhận thức,

          Vị do lưỡi nhận thức đủ đầy,

              Xúc do thân nhận thức ngay,

       Do ý nhận thức pháp này gần xa,

          Khả ái, khả hỷ và khả lạc,

          Khả ý, liên hệ các vật chi

              Hoặc do nhớ được những gì

       Nhận được về trước, đã đi qua rồi,

          Đã diệt rồi và đã biến hoại.

          Như vậy gọi Ưu Hỷ trải qua

              Thường liên hệ đến tại gia.

 

       Còn sáu hỷ thế nào mà liên quan  

          Đến xuất ly ? Khi đang biết chắc

          Là vô thường các sắc pháp này ,

              Ly tham, biến diệt, hoại ngay.

       Nghĩ rằng : ‘Các sắc pháp này ngày xưa

          Và sắc pháp sớm trưa hiện tại

          Tất cả sắc pháp ấy vô thường,

 

              Khổ và biến hoại, tai ương,                    

       Sau khi như thật tỏ tường thấy ra

          Như vậy, và với chánh trí tuệ

          Có hỷ khởi lên thế, là chi ?

              Khi hỷ liên hệ xuất ly ?

       Thế nào liên hệ mọi thì sáu ưu

          Với tại gia ? Có ưu đã khởi

          Hoặc do bởi không nhận được này

              Thấy sự không nhận được này,

       Sắc do mắt nhận thức ngay, đó là

          Khả ái, khả hỷ và khả lạc

          Khả ý, liên hệ các vật chi

              Hoặc do nhớ được những gì

       Không nhận được trước, đã đi qua rồi,

          Đã diệt rồi và đã biến hoại

          Như vậy gọi là Ưu trải qua

             ‘Ưu liên hệ đến tại gia’.

       Thế nào sáu ưu ấy mà liên quan 

          Đến xuất ly ? Khi đang biết chắc

          Là vô thường các sắc pháp này

              Ly tham, biến diệt, hoại ngay.

       Sau khi như thật thấy vầy, vị trên

          Có chánh trí, khởi lên ước muốn

          Với vô thượng giải thoát, nghĩ là :

             ‘Khi nào ta chứng đạt, và

       An trú trong xứ (A-Da-Ta-Nà)

          Mà bậc Thánh trải qua chứng đạt,

          Trú an lạc. Do ước muốn đây

              Với vô thượng giải thoát vầy,

       Do duyên ước muốn, Ưu này khởi lên

          Loại ưu trên dược gọi, được kể

 

         ‘Ưu liên hệ xuất ly’ vân… vân…

 

              Sau khi biết được ‘lục trần’

      (Sắc, thinh, xúc, pháp và phần vị, hương)

          Sáu trần là vô thường, biến hoại,

          Ly dục lại biến diệt. Nghĩ ngay :

             ‘Sáu trần xưa kia, hiện nay

       Đều khổ, biến hoại, diệt ngay, vô thường

          Khi như thật tinh tường thấy thế’,

          Quán với chánh trí tuệ, vị này

              Liền khởi lên ước muốn ngay

       Với vô thượng giải thoát đây. Nghĩ là :

         ‘Khi nào ta có thể chứng đạt

          Trú an lạc trong ‘xứ’, khi mà

              Bậc Thánh đang chứng đạt, và

       An trú trong ấy. Đó là vì sao ?

         ‘Ước muốn vào vô thượng giải thoát’.

          Ưu khởi phát do ước muốn ni

              Gọi : ‘Ưu liên hệ xuất ly’.

       Sáu ưu liên hệ đồng thì xuất ly.

 

          Thế nào khi ‘sáu xả’ liên hệ  

          Đến tại gia ? Sự thể là vì

              Khi người ám độn, ngu si

       Phàm phu, con mắt thấy gì ở đây ?

          Thấy sắc này với con mắt ấy,

          Xả khởi dậy của một kẻ ngu

              Là người vô văn phàm phu

       Không chinh phục được âm u não phiền,

          Không chinh phục quả duyên dị thục,

          Không thấy mục nguy hiểm sâu xa,

              Loại xả này không vượt qua         

 

       Khỏi sắc pháp. Nên gọi ra xả là

          Liên hệ đến tại gia. Cũng thế

          Khi một kẻ ám độn, ngu si,

              Phàm phu, nghe tiếng mọi thì

       Với tai. Hay mũi họ thì ngửi hương,

          Nếm vị thường với lưỡi của họ,

          Cảm xúc với thân đó, hay là

              Với ý nhận thức pháp ra…

       Vô văn phàm tục  xả mà khởi lên

          Không chinh phục được quả dị thục

          Không chinh phục được phiền não này,

              Không thấy nguy hiểm dẫy đầy

       Xả ấy không vượt qua ngay các trần,

          Do vậy, cần được gọi, được kể

          Xả ‘liên hệ tại gia’ sáu phần.

 

              Ở đây, thế nào nói rằng :  

      ‘Sáu xả liên hệ đến phần xuất ly’ ?

          Ngay sau khi biết sắc, vị, xúc,

          Và tiếp tục biết pháp, thinh, hương

              Là khổ, biến hoại, vô thường,

       Ly tham, biến diệt. Hiểu tường, nghĩ ngay :

         ‘Các sắc pháp, thinh & hương & vị & xúc

          Và các pháp chung cục vô thường,

              Khổ não, biến hoại, tai ương,

       Khi như thật thấy tinh tường điều đây

          Với chánh trí tuệ này, xả khởi,

          Xả ấy gọi ‘liên hệ xuất ly’,

              Sáu xả liên hệ xuất ly.

 

       Còn ‘ba mươi sáu loại chi hữu tình’ 

          Cần phải biết cho tinh, từng loại

 

          Do duyên này, được nói đến vầy.

              Khi được nói đến ở đây :

      ‘Do y cứ vào cái này, diệt ngay

          Vào cái này’. Duyên gì nói vậy ?

          Các Tỷ Kheo ! Ở đấy sẵn sàng

              Do duyên sáu hỷ, liên quan

       Đến xuất ly, diệt hoàn toàn, vượt qua

          Liên hệ đến tại gia sáu hỷ.

          Các Tỷ Kheo ! Nghe kỹ suy nguyên

              Do y cứ và do duyên

       Sáu ưu, sáu hỷ cũng liền liên quan

          Đến xuất ly, hoàn toàn dứt cả,

          Vượt sáu ưu, sáu xả liên quan

              Đến tại gia. Vậy rõ ràng

       Sự đoạn tận chúng, vượt ngang chúng rồi. 

 

          Các Tỷ Kheo ! Do nơi y cứ 

          Do duyên tự sáu hỷ, đồng thì

              Sáu xả liên hệ xuất ly,

       Dứt, vượt khỏi sáu ưu vì liên quan

          Đến xuất ly. Nói sang như vậy

          Là sự ấy đoạn tận chúng thôi,

              Là sự vượt qua chúng rồi.

       Do y cứ, do duyên nơi mọi thì

          Xả liên hệ xuất ly, đình chỉ

          Vượt qua cả sáu hỷ liên quan

              Đến xuất ly. Nên hoàn toàn

       Là sự đoạn tận, vượt ngang chúng rồi.

 

          Các Tỷ Kheo ! Có xả đa diện 

          Và y cứ đa diện một phương,

              Có xả nhất diện dựa nương        

 

 

       Nhất diện đó. Hiểu tận tường ra sao

          Xả đa diện dựa vào đa diện ?

          Như có xả đối diện lục trần

              Sắc pháp, thinh pháp cùng phần

       Hương & vị & xúc & pháp. Ta cần hiểu qua

          Như vậy là thuộc xả đa diện

          Y cứ vào đa diện, hiểu mau.

 

              Còn xả nhất diện là sao ?

       Y cứ nhất diện thế nào ở đây ?

          Có loại xả chỉ ngay y cứ

         ‘Hư không vô biên xứ’ chủ trương,

              Nương ‘Thức vô biên xứ’ thường,

      ‘Vô sở hữu xứ’ xả nương tức thì,

          Nương ‘Phi tưởng phi phi tưởng xứ’.

 

          Các Phích-Khú ! Là xả thuộc vào

              Nhất diên - nhất diện nương mau.

       Các ông ! Do y cứ vào, do duyên

          Xả nhất diện, xả nguyên y cứ

          Vào nhất diện và tự diệt ngay,

              Vượt qua xả đa diện này,

       Xả y cứ đa diện đây đồng thì.

          Như vậy thì sự diệt xả ấy

          Là như vậy, vượt qua xả mau.

 

              Các ông ! Do y cứ vào

       Sự không tham dục, từ đầu do duyên

          Không tham dục và liền diệt cả,

          Vượt qua xả nhất diện đó ngay.

              Xả y cứ nhất diện này

       Như vậy là sự diệt ngay xả này

          Là vượt qua xả đây. Nói tới :

 

         ‘Tại đây bởi y cứ cái này

              Và cũng đoạn tận cái này’

       Chính do duyên đó, như vầy nói ra.

 

          Khi được nói : ‘Có ba niệm xứ

          Một bậc Thánh phải tự thực hành,

              Niệm xứ ấy có thực hành

       Mới xứng được gọi trọn lành Đạo Sư,

          Vị thuần từ giảng cho đồ chúng’.

          Do duyên gì nói cứng như vầy ?

 

              Ở đây, các Tỷ Kheo này !

       Bậc Đạo Sư thuyết pháp đây rõ ràng

          Cho các hàng đệ tử tinh tấn,

          Vì tử mẫn, đem hạnh phúc cho,

              Vì lòng thương tưởng học trò,

       Bảo : ‘Đây là hạnh phúc to lớn vầy,

          An lạc này các ông được hưởng’.

          Một số đệ tử vướng tâm mê

              Không lóng tai để lắng nghe,

       Tâm họ không an trú về trí chân

          Hành động ngược với phần lời dạy

          Của bậc Đạo Sư ấy. Ở đây

              Như Lai không vui điều này

       Không có cảm giác điều này hỷ hoan,

          Nhưng hoàn toàn Ta không dao động,

          Chánh niệm, sống tỉnh giác, an hòa.

 

              Này các Tỷ Kheo ! Đây là 

       Niệm xứ thứ nhất để mà hành qua.

          Của một bậc Thánh, và nếu có

          Thực hành niệm xứ đó. Vị này

              Mới xứng Đạo Sư trí tài

 

       Diễn giảng cho đồ chúng đây đủ đầy.

          Lại nữa, này Chúng Tăng ! Mặt khác

          Bậc Đạo Sư thuyết pháp suốt thông

              Cho các đệ tử, do lòng

       Từ mẫn, mong hạnh phúc trong hành trình

          Của đệ tử để sinh lợi lạc

 

          Một số đệ tử khác lóng tai

              Khéo nghe, an trú tâm hoài

       Vào chánh trí, nhưng đi ngoài lời răn

          Của Đạo Sư, không hằng thực hiện.

          Các Tỷ Kheo ! Thuộc diện như vầy

              Ta không hoan hỷ điều này,

       Không có cảm giác điều này hỷ hoan.

 

          Sau khi bỏ hai đàng ý nghĩ

          Hoan hỷ, không hoan hỷ cả hai,

              Như Lai trú xả đủ đầy,

       Chánh niệm, tỉnh giác. Điều này ở đây

          Là niệm xứ thứ hai, mãi mãi

          Một bậc Thánh cần phải thực hành,

              Niệm xứ ấy có thực hành

       Mới xứng là Đạo Sư lành đáng phô

          Để diễn giảng cho đồ chúng vậy.

 

          Các Tỷ Kheo ! Được thấy có vì

              Vì lòng bi mẫn, từ bi

       Vì sự hạnh phúc và vì lòng thương

          Thuyết pháp thường cho các đệ tử

          Số đệ tử khéo nghe, lóng tai

              Trú tâm và chánh trí hoài

       Và không đi ngược lời ngài Đạo Sư.

          Các Tỷ Kheo ! Như Lai bản ý

 

          Hoan hỷ, cảm giác hỷ hoan ngay.

              Sống không dao động như vầy

       Chánh niệm, tỉnh giác. Điều đây chính là

          Niệm xứ thứ ba mà bậc Thánh

          Phải thực hành chân chánh đủ đầy,

              Có thực hành niệm xứ này

       Mới xứng là Đạo Sư tài trí thay !

          Diễn giải ngay cho đồ chúng vậy.

 

          Khi nói : ‘Niệm xứ ấy có ba

              Bậc Thánh phải thực hành qua

       Có thực hành đúng mới là xứng danh

          Đạo Sư lành dạy cho đồ chúng’

          Do duyên này, nói đúng như vầy.

 

              Khi được nói đến điều này : 

      ‘Trong các Huấn-luyện-sư đây, vị từ

          Được gọi ‘Điều-ngự-sư vô thượng’

          Điều phục người đáng hưởng điều là

             ‘Đáng được điều phục’ trải qua,

       Do duyên gì được nói ra như vầy ?

          Một con voi bị nài chế ngự

          Là một vị ‘Điều ngự tượng sư’,

              Dẫn dắt để nó chạy từ

       Phương đông, nam, bắc hoặc từ phương tây.

 

          Hoặc ngựa hay do sự điều phục

          Của ‘Điều phục mã sư’ có tài

              Hoặc một con bò ở đây

       Được ‘Điều ngự ngưu sư’ hay, giỏi nghề

          Dẫn dắt chỉ chạy về một hướng

          Hướng bắc, nam hoặc hướng đông, tây.

              Cũng vậy, các Tỷ Kheo này !

 

       Một người do được Như Lai, Phật Đà

          Chánh Đẳng Giác, Đại A-La-Hán

          Dẫn dắt, chạy khắp mãn bốn phương

              Có sắc, thấy sắc pháp tường

       Là phương thứ nhất. Không thường có ra

          Tưởng nội sắc, thấy qua ngoại sắc,

          Đó đích thật là phương thứ hai.

              Nghĩ đến thanh tịnh tràn đầy

       Chú tâm trên ấy, phương này thứ ba.

 

          Rồi vượt qua hoàn toàn sắc tưởng

          Diệt trừ đối-ngại-tưởng trải qua

              Không nghĩ sai-biệt-tưởng, và

       Nghĩ rằng : Chính ‘Hư không là vô biên’

          Chứng đạt, trú Không Vô Biên Xứ

          Đó chính là phương thứ tư đây.

 

              Vượt Không vô biên xứ này,

       Nghĩ : ‘Thức là vô biên’ vầy, chứng ngay,

          An trú đây : Thức Vô Biên Xứ

          Phương này là phương thứ năm an.

              Vượt qua một cách hoàn toàn

       Thức Vô Biên Xứ, nghĩ sang điều là

         ‘Không có gì cả’ và chứng, trú

          Vào Vô Sở Hữu Xứ nơi này,

              Đó là phương thứ sáu đây.

 

       Vượt Vô sở hữu xứ ngay tức thì

          Chứng Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ

          Và an trú. Phương thứ bảy ni.

              Tưởng xứ Phi tưởng phi phi

       Hoàn toàn vượt khỏi, rồi thì chứng sang

          Và trú an Diệt Thọ Tưởng Định                      

 

          Phương thứ tám là chính điều đây.

 

              Tóm lại, các Tỷ Kheo này !

       Một người đáng được Như Lai, Phật Đà

          Chánh Đẳng Giác, Đại A-La-Hán,

          Dẫn dắt chạy khắp mãn tám phương.

              Khi được nói đến tỏ tường :

      ‘Trong các Huấn-luyện-sư thường an như

          Được gọi ‘Điều ngự sư vô thượng’,

          Là vị điều phục, hướng mục tiêu,

              Người đáng điều phục lợi nhiều,

       Do duyên ấy, được mọi điều như trên ”.

 

          Đức Thế Tôn an nhiên thuyết giảng 

          Pháp vi diệu, viên mãn, minh quang,

              Chư Tỷ Kheo trong đạo tràng

       Hoan hỷ tín thọ lời vàng Thế Tôn ./-

 

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  ( 3 L )

 

*

*  *

 

(  Chấm dứt Kinh số 137 :  PHÂN BIỆT SÁU XỨ  –  SALÀYATANAVIBHANGA  Sutta  )  

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/06/2024(Xem: 1393)
Sau khi bang Niedersachsen của ông Tiến sĩ Albrecht thu nhận hơn 1.000 thuyền nhân từ chiếc tàu Hải Hồng, phân phối đi các vùng trong bang nhưng đông nhất vẫn là thành phố thủ phủ Hannover. Các thuyền nhân tỵ nạn này vừa từ cõi chết đi lên, nên rất cần một chỗ dựa cho tâm linh. Sau chuyến vượt biên thoát nạn, họ đã cầu nguyện Đức Mẹ Maria cứu vớt nếu là người Công giáo. Còn Phật giáo họ sẽ niệm Mẹ hiền Quán Thế Âm, hai hình tượng đã in sâu vào tâm thức, họ tin chắc hai Vị này đã ra tay cứu độ đưa họ đến bến bờ bình yên.
12/06/2024(Xem: 715)
Lời người chuyển ngữ: Thông thường khi nói đến ngồi thiền hay thực hành chánh niệm chúng ta lập tức nghĩ đến việc ngồi yên, ngồi một cách nghiêm trang và chú tâm vào hơi thở hay những cách khác (tùy theo phương pháp chỉ – quán…). Tuy nhiên chúng ta cũng nghe đến tứ oai nghi đi – đứng - nằm – ngồi, nghĩa là ta có thể giữ chánh niệm trong mọi hoàn cảnh và tư thế, điều này phụ thuộc vào năng lực, ý chí của mỗi cá nhân. Trong lá thư gởi độc giả của tạp chí Lion’s Roar (Sư Tử Hống), ngày 51/05/24 có đề cập đến việc ứng dụng và thực hành chánh niệm trong sự di chuyển động, trong lá thư này có dẫn lời của Francis Sanzaro một nhà leo núi chuyên nghiệp và cũng là một Phật tử đã áp dụng chánh niệm trong việc leo núi. Việc ứng dụng chánh niệm trong sự vận động hàng ngày đôi khi tôi cũng có chút xíu kinh nghiệm. Tôi thường chạy bộ, bơi lội… và giữ chánh niệm và cảm thấy thoải mái dễ chịu hơn là khi ngồi nghiêm trang trước bàn thờ Phật. Tôi nhận thấy mọi người ai cũng có thể áp dụng thực hành chán
12/06/2024(Xem: 692)
Sống ở đời, mọi người chúng ta ai ai cũng đã từng ít nhất một lần buộc miệng than: “Sao khổ vậy trời? Sao khổ thế này?”. Khổ là bản chất của đời sống hiện hữu, khổ là tất yếu vì sự thay đổi của vô thường. Đã sanh làm người, đã sống trong đời thì không thể tránh khỏi khổ, cho dù đó là tỷ phú cực giàu, tổng thống cực quyền hay là kẻ ăn mày khố rách áo ôm. Khổ có vô vàn nhưng chung quy lại không ngoài: Sanh, già, bệnh, chết, muốn mà không được, thương phải chia lìa, ghét phải chung đụng, thân và tâm đầy phiền não như lửa cháy. Khổ vì sanh – tử là điều bất khả kháng, khổ vì những ác nghiệp đã chín muồi thì cũng không thể tránh được, duy cái khổ của sự mong cầu, ham muốn, thèm khát là điều mà chúng ta có thể làm giảm thiểu hoặc tránh được.
04/06/2024(Xem: 877)
Ta lên núi, học làm Tiên nhẫn nhục, Mặc thói đời nhân ngã với thị, phi! Mây có hẹn, mà quên về cũng được, Gió có lay, trăng nghiêng ngã hề chi!
02/06/2024(Xem: 1202)
Một trong những lời dạy của Tuệ Trung Thượng Sĩ thường được đời sau nhắc tới là hãy phản quan tự kỷ. Đó là pháp yếu Thiền Tông. Nghĩa là, nhìn lại chính mình. Câu hỏi chúng ta nêu ra nơi đây là, phản quan tự kỷ thế nào?
30/05/2024(Xem: 890)
Đại Trí Độ Luận nói: “Biển cả Phật pháp, tin thì vào được”. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Tín làm tay. Như người có tay, đến nơi trân bảo, tùy ý nhặt lấy. Nếu người không tay, chẳng được thứ gì”. Cũng có câu: “Vừa vào cửa tín, liền lên Tổ vị”. “Mũi Tên Xuyên Vách” ra đời góp một niềm tin nhỏ cho người sơ cơ, chắc không tránh khỏi lỗi lầm. Rất mong bạn đọc bốn phương bổ chính để được tốt hơn trong những lần tái bản tới. Xin thành thật tri ân.
24/05/2024(Xem: 8914)
Hình ảnh Thầy Minh Tuệ xuất hiện trên các mạng xã hội y hệt như một trận bão truyền thông, làm dâng tràn những cảm xúc và suy tưởng. Những bước chân đơn độc của Thầy đã đi bốn vòng đất nước trong nhiều năm qua, để tu hạnh đầu đà là điều khó làm, không phải ai làm cũng được. Một hình ảnh chưa từng nhìn thấy, dù là trong tiểu thuyết hay phim ảnh: hàng trăm người dân, có khi hàng ngàn người dân, cùng ra phố bước theo Thầy, lòng vui như mở hội, niềm tin vào Chánh pháp kiên cố thêm.
17/05/2024(Xem: 675)
Bảo rằng mới, ừ thì là mới nhưng thật sự thì tháng năm đã từ vô thủy đến giờ. Tháng năm là tháng năm nào? Năm nào cũng có tháng năm, nếu bảo mọi tháng đều là tháng năm thì cũng chẳng sai. Năm, tháng, ngày, giờ… là cái khái niệm con người chế ra, tạm gọi là thế, tạm dùng để đo, đếm cái gọi là thời gian. Bản thân thời gian cũng là một khái niệm như những khái niệm dùng để đo lường nó. Bản chất thời gian là gì thì ai mà biết, nó vốn vô hình, vô tướng, vô trọng lượng, vô sắc, vô thanh… Nó không đầu không cuối và dĩ nhiên cũng không thể nào biết đâu là chặng giữa. Con người, vạn vật muôn loài và thế giới này có hình thành hay hoại diệt thì nó vẫn cứ là nó. Nó chẳng sanh ra và cũng chẳng mất đi.
17/05/2024(Xem: 1537)
Phần này ghi lại vài nhận xét về bản chữ quốc ngữ Sấm Truyền Ca và Lập Quốc Kinh, qua lăng kính của chữ quốc ngữ từ thời LM de Rhodes và các giáo sĩ Tây phương sang Á Đông truyền đạo. Đây là lần đầu tiên cách dùng này hiện diện trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh/Bồ (chữ quốc ngữ), điều này cho ta dữ kiện để xem lại một số cách đọc chính xác hơn cùng với các dạng chữ Nôm đồng thời. Rất tiếc là chưa tìm ra bản Nôm Sấm Truyền Ca hay Lập Quốc Kinh, do đó bài này phải dựa vào các dạng chữ quốc ngữ viết tay còn để lại. Tài liệu tham khảo chính của bài viết này là các tài liệu chép tay của LM Philiphê Bỉnh (sđd) và bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC)
12/05/2024(Xem: 1917)
Thế là ngày lễ mẹ lại về, thế nhân rộn ràng với bao lời chúc, với hoa tươi và những món quà… Những người con lại có phút giây xao lòng hay chạnh lòng nghĩ về mẹ, tưởng nhớ mẹ. Những nghệ sĩ lại viết thêm bài nhạc, bài văn hay bài thơ mới về chủ đề mẹ. Đời sống hiện đại hôm nay vô cùng hối hả và bận rộn, nhiều khi con người ta vô tình lơ đễnh quên đi ơn nghĩa mẹ cha. Ngày lễ mẹ là một ngày lễ đầy tính nhân văn cao cả, giúp đánh động tâm mọi người, nhắc nhở mọi người nhớ về mẹ ( về đấng sinh thành nói chung).
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]