Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

24. Kinh Trạm Xe

19/05/202008:12(Xem: 9659)
24. Kinh Trạm Xe

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majjhima  Nikàya )


Tập I
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : [email protected]



24. Kinh TRẠM XE

( Rathavinìta sutta )

 

Như vậy, tôi nghe :

 

          Một thời nọ, Thế Tôn Giác Giả

          Trú Vương Xá – Rá-Chá-Ga-Ha  (1)

              Trúc Lâm – Vê-Lú-Va-Na  (2)

       Là ngôi Tinh Xá không xa thành trì

          Ka-Lanh-Đa-Ka-Ni-Va-Pá(3)

          Là nơi mà Phật đã trú thường.

 

              Một số Tỷ Kheo địa phương     

       Sau an cư tại địa phương nơi này

          Liền đến ngay chỗ Phật an trú

Đảnh lễ đấng Điều Ngự hiện tiền

              Xong rồi ngồi xuống một bên.

       Thế Tôn nhìn các vị trên, nói rằng :

    – “ Này các Tỷ Kheo Tăng ! Ta hỏi :

          Ai ở tại địa phương hành trì

              Được Chúng Tỷ Kheo nể vì

       Các đồng-phạm-hạnh đồng thì tán dương :

    __________________________   

(1) : Ràjagaha ( Vương-Xá ) là thủ phủ của vương quốc Magadha

   – Ma-Kiệt-Đà của vua Tần-Bà-Sa-La  và  sau  là vua A-Xà-Thế .

     Nơi đây cũng đã  tổ chức  Đại Hội Kết Tập Tam Tạng  lần đầu

     tiên sau khi Phật Niết-Bàn 3  tháng tại độngSattapanni , dưới

    sự chủ tọa của Ngài Mahà Kassapa (Đại  Ca-Diếp ). Tôn - giả

   Upali trùng  tuyên về Luật Tạng và Tôn-giả Ananda trùng tuyên

   về Kinh Tạng ; do vua A-Xà-Thế ngoại hộ .

(2) : Trúc Lâm  Tinh Xá  – Veluvanavihàra , là ngôi Tinh Xá đầu

   tiên tại Vương Xá do Vua Bimbisara  (Tần-Bà-Sa-La hay Bình

   Sa Vương) dâng khu rừng trúc cho Đức Phật và Chúng Tăng .

(3) : Địa phương tên Kalandakanivapa .

Trung Bộ  (Tập 1)   Kinh 24 :    TRẠM XE         *  MLH  –340

 

        ‘Vịấy thường tự mình thiểu dục

          Và giảng về thiểu dục, hành theo

              Cho tất cả các Tỷ Kheo ?

       Tự mình tri túc, sống nghèo độc cư,

          Giảng tri túc độc cư cho Chúng ?

          Tự mình sống không đụng nhiễm ô

              Giảng giải về không nhiễm ô ?

       Tự mình tinh tấn, giảng vôđiều này ?

          Tự mình nay tựu thành giới hạnh

          Giảng cho Chúng giới hạnh tựu thành ?

              Tự mình Thiền định tựu thành,

       Giảng về Thiền định tựu thành Chúng nghe ?  

          Giảng Chúng về tựu thành trí tuệ

          Do tự mình trí tuệ tựu thành ?

              Tự mình giải-thoát tựu thành

       Giải-thoát tri-kiến tựu thành cao siêu

          Rồi giảng về hai điều giải thoát

          Cho Chúng Tăng hiểu các pháp này ?

              Vị giáo giới, khai thị ngay

       Là vị khích lệ, trình bày, phước gieo

          Làm cho Chúng Tỷ Kheo phấn khởi

          Đồng-phạm-hạnh vui bởi vị này ? ”.

 

        – “ Bạch Thế Tôn ! Chính nơi đây

       Có vị Tôn-giả trí tài, uy nghi           

          Pun-Nha Manh-Ta-Ni-Pút-Tá(1)

        ( Vị Tôn-giả thuyết giảng tài ba

              Mãn-Từ-Tử – Phú-Lâu-Na )

    __________________________   

(1) : Tôn-giả Punna Mantaniputta – Phú-Lâu-Na  Mãn-Từ-Tử

    ( con bà Mãn Từ  – Mantanì  – chữ putta có nghĩa là người

       con trai  ). Ngài làĐại-đệ-tử Phật Thuyết Giáo Đệ Nhất.   

Trung Bộ  (Tập 1)   Kinh 24 :    TRẠM XE         *  MLH  –341

 

Đã được kính mộ sâu xa, thật lòng        

          Từ Tỷ Kheo Chúng đồng-phạm-hạnh.

          Ngài chân chánh thuyết giảng uy nghiêm

              Về tất cảđiều nói trên

Đã được Thiện Thệ nêu lên vừa rồi ”.

 

          Lúc bấy giờ, đang ngồi cạnh Phật,

          Tôn-giả Xá-Lợi-Phất nghĩ suy :

           “ Hạnh phúc thay ! Có một vì

       Là Pun-Nhá Manh-Ta-Ni-Pút-Tà.

Ôi thật làđiều chơn hạnh phúc !

          Có Tôn-giả thượng túc Pun-Nha !

           ( Là vị biện thuyết tài ba )

       Được đồng-phạm-hạnh rất là tán dương

          Lại được đấng Pháp Vương chấp nhận,

          Nếu may mắn ta sẽ gặp qua

              Vị Tôn-giả tên Pun-Nha

       Tức Manh-Ta-Ní-Pút-Ta , nơi nào

          Thời gian nào, để màđàm luận,

          Chắc sớm muộn ta sẽ gặp mà ! ”.

 

              Trú tại Ra-Chá-Ga-Ha

       Thời gian sau, ý Phật Đà truyền ra :

          Cùng khởi hành đi Sa-Vát-Thí

        ( Tức Xá Vệ ) vị trí không xa

              Tinh Xá Chê-Tá-Va-Na

       Hay Kỳ Viên Tự, tín gia cúng dường.

          Lúc ấy đương phương xa giáo hóa

          Nhưng Tôn-giả Pun-Nhá nghe rằng :

             ‘Phật đã đến Xá Vệ thành

       Kỳ Viên Tinh Xá, Cha Lành trú qua ’.

          Tôn-giả Phú-Lâu-Na thâu dọn

Trung Bộ  (Tập 1)   Kinh 24 :    TRẠM XE         *  MLH  –342

 

          Các vật dụng để gọn tức thì

              Chỉ mang bình bát, tam y

       Khởi hành đi Sa-Vát-Thi trong ngày.

          Đến Xá Vệ, vào ngay Tinh Xá

          Rồi Tôn-giả đến chỗ Thế Tôn

              Kính thành đảnh lễ Thế Tôn

       Rồi nghe Đai Giác ôn tồn răn khuyên

          Để khích lệ tâm chuyên, phấn khởi

          Hoan hỷ với hoằng-pháp tinh cần   

              Tôn-giả hoan hỷ tin vâng

       Đứng dậy đảnh lễ, hữu thân hướng Ngài  (1)

          Rồi từ tạ, đến ngay trú sở

          Nghỉ trưa ở Anh-Thá-Va-Na  (2).

 

              Một vị Tỷ Kheo biết qua

       Tin Tôn-giả Phú-Lâu-Na sáng này

          Đến Xá Vệ, vào ngay gặp Phật

          Được chính Phật khích lệ thuyết lời.

              Hiện Tôn-giảđi đến nơi

       Anh-Tha-Vá-Ná kịp thời nghỉ trưa.

          Tỷ Kheo ấy đến thưa tất cả

          Với Tôn-giả Sa-Rí-Pút-Ta :

           ( Ngài Xá-Lợi-Phất cũng là )

 – “ Thưa ngài Sa-Ri-Pút-Ta ! Sáng này

          Vị mà ngài tán dương mến mộ

          Đến Kỳ Viên, vào chỗ Phật Đà

Đó là Tôn-giả Pun-Nha

       Được Phật khích lệ thuyết ra ân cần

    __________________________   

(1) : Theo phong tục Ấn Độ xưa, khi từ giã bậc đáng kính trọng, 

người ta chắp tay đi quanh vị ấy ba vòng theo hướng tay mặt .

(2) : Khu rừng Andhavana .

Trung Bộ  (Tập 1)   Kinh 24 :    TRẠM XE         *  MLH  –343

 

          Nay Tôn-giả tự thân đi lại

          Nghỉ trưa tại Anh-Thá-Va-Na ”.

 

              Ngài Xá-Lợi-Phất nghe qua

       Vội đem tọa cụ, đi ra hướng rừng

          Rồi ngài đi sau lưng Tôn-giả

          Manh-Ta-Ni-Pút-Tá Pun-Nha

              Cóý quan sát từ xa

    ( Oai nghi tế hạnh cùng là nghiêm thân )

          Thấy đi dần vào sâu trong đấy

          Khu rừng ấy : Anh-Thá-Va-Na

              Ngồi dưới gốc cây an hòa.

       Ngài Xá-Lợi-Phất biết qua nơi này

          Ngài khoan thai thất mình trở lại,

          Buổi chiều ấy, xảĐịnh vừa xong

              Đứng dậy, rảo bước thong dong

       Đến gặp Tôn-giả vốn mong gặp này.

          Sau khi gặp thì ngài chào hỏi

          Theo xã giao rồi nói lên rằng :

        – “ Này Hiền-giả ! Có phải chăng

       Chúng ta phạm-hạnh vẫn hằng thực thi

          Dưới chỉ dạy của vì Thiện Thệ

          Mục đích để Giới thanh tịnh mau ? ”

 

        – “ Hiền-giả ! Không phải vậy đâu ! ”

 – “ Như vậy mục đích Tâm vào tịnh thanh ? ”

    – “ Thưa Hiền-giả ! Ngọn ngành không phải ! ”

    – “ Mục đích lấy Kiến thanh tịnh à ? ”

       – “ Hiền-giả ! Không phải đó mà ! ”

  – “Đoạn-nghi thanh-tịnh chính là mục tiêu ? ”

    – “ Thưa Hiền-giả ! Cũng điều không phải ! ”

    – “Đạo-phi-đạo tri-kiến tịnh-thanh ? ”

Trung Bộ  (Tập 1)   Kinh 24 :    TRẠM XE         *  MLH  –344

 

       – “ Hiền-giả ! Không phải đó sanh ”

 – “ Hay đạo-tri-kiến tịnh-thanh nhắm vào ? ”

    – “ Thưa Hiền-giả ! Không sao như vậy ! ”

     – “ Mục đích lấy tri-kiến tịnh-thanh ? ”

        – “ Hiền-giả ! Không phải đó sanh ! ”.

 

 – “ Hiền-giả ! Khi được hỏi rành rẽđây

          Có phải sống đủ đầy phạm-hạnh

          Dưới chỉ dạy bậc Thánh Thế Tôn

              Mục đích Giới thanh-tịnh không ?

       Hiền-giảđáp lại là ‘không phải vầy’,

          Khi hỏi ngay về Tâm thanh-tịnh,

          Kiến thanh-tịnh, thanh-tịnh đoạn nghi

Đạo-phi-đạo tri-kiến  ni

Đạo-tri-kiến thanh-tịnh, vì chúng ta

          Sống phạm hạnh, Phật Đà chỉ dạy

          Vì mục đích như vậy hay không ?

              Hiền-giả đều trả lời ‘không’,

       Như vậy, mục đích ngài mong là gì ? ”.

 

    – “ Thưa Hiền-giả ! Chỉ vì mục đích

          Vô-thủ-trước Bát-niết-bàn này

              Nên sống phạm-hạnh đủ đầy

       Dưới sự chỉ dạy từ ngay Phật Đà ”.    

 

    – “ Hiền-giảà ! Phải Giới tịnh lạc

          Là vô-thủ-trước Bát-niết-bàn ? ”                                            

        – “ Hiền-giả ! Không phải mọi đàng ! ”

 – “ Hiền giả ! Như thế tịnh an Tâm toàn

          Vô-thủ-trước Niết-bàn là vậy ? ”

    – “ Thưa Hiền-giả ! Điều ấy không mang ! ”

        – “ Hay Kiến-thanh-tịnh lạc an  

Trung Bộ  (Tập 1)   Kinh 24 :    TRẠM XE         *  MLH  –345

 

       Vô-thủ-trước Bát-niết-bàn chính đây ? ”               

    – “ Thưa Hiền-giả ! Điều này không phải ! ”

    – “ Hay đoan-nghi thanh-tịnh làđàng

              Vô-thủ-trước Bát-niết-bàn ? ”

 – “ Hiền-giả ! Không phải hoàn toàn, điều ni ! ”

    – “ Hay đạo-phi-đạo tri-kiến, đủ

          Là vô-thủ-trước Bát-niết-bàn ? ”

        – “ Hiền-giả ! Không phải mọi đàng ! ”

 – “ Có phải đạo-tri-kiến vô vàn tịnh-thanh

          Vô-thủ-trước Bát-niết-bàn đó ? ”

    – “ Thưa Hiền-giả ! Chẳng có như vầy ! ”

        – “ Hay tri-kiến thanh-tịnh này

       Vô-thủ-trước Bát-niết-bàn làđây ? ”                  

    – “ Thưa Hiền-giả ! Nói ngay : Không phải ! ”

    – “ Có phải cái ngoài các pháp đây

              Vô-thủ-trước Niết-bàn ngay ? ”    

 – “ Hiền-giả ! Cả các pháp này cũng không ! ”.

 

    – “ Này Hiền-giả ! Tôi không hiểu tới   

          Khi hỏi : ‘Có phải Giới tịnh an

              Vô-thủ-trước Bát-niết-bàn ?

       Hiền-giả lại đáp dễ dàng là ‘không’,

          Rồi hỏi trong những điều khác nữa

          Hiền-giả cũng đáp tựa vừa rồi,

              Tất cả chỉ là ‘không’ thôi

Ý nghĩa của nó vậy thời hiểu sao ? ”.

 

    – “ Thưa Hiền-giả ! Khi nào Đức Phật

          Thuyết như thật về Giới tịnh an

              Vô-thủ-trước Bát-niết-bàn

       Thì Thế Tôn cũng rõ ràng bảo ban :

         ‘Vô-thủ-trước Niết-bàn chẳng khác

Trung Bộ  (Tập 1)   Kinh 24 :    TRẠM XE         *  MLH  –346

 

          Với hữu-thủ-trước Bát-niết-bàn.

              Tâm, Kiến-thanh-tịnh sẵn sàng

Đoạn-nghi thanh-tịnh… đồng hàng trải sang

          Vô-thủ-trước Niềt-bàn chẳng khác

          Hữu-thủ-trước Bát-niết-bàn này,

Đạo-tri-kiến thanh-tịnh đây

Đạo-phi-đạo tri-kiến đầy tịnh-thanh…

          Đấng Cha Lành tuyên ngôn đầy đủ :

          Là vô-thủ-trước Bát-niết-bàn

              Và hữu-thủ-trước ngang hàng ,

       Nếu Phật tuyên bố dễ dàng cho xong :

         ‘Cái gìở ngoài vòng các pháp

          Là vô-thủ-trước Bát-niết-bàn,

              Phàm phu cũng Bát-niết-bàn

       Vì phàm phu cũng ngoài hàng pháp kia .   

          Thưa Hiền-giả ! Không lìa sự vụ

          Một ví dụ dễ hiểu như vầy

              Một số kẻ tríởđây

       Nhờ ví dụấy, hiểu ngay vấn đề :

 

          Ví như về Ba-Sê-Na-Đí(1)

        ( Ba-Tư-Nặc ) địa vị Quốc vương

              Xứ Kô-Sa-La (1) thịnh cường.

Đang ở Xá Vệ, tinh tường nghe qua :

          Sa-Kê-Ta (2) cóđiều khẩn cấp

          Mà chặng đường thẳng tắp rất xa

              Cần đi ngay Sa-Kê-Ta       

       Để giải quyết gấp, lơ là sẽ nguy.   

          Bảy trạm xe tức thì đặt để

    __________________________   

 (1) : Vua Ba-Tư-Nặc – Pasenadi  – trị vì vương quốc Kosala

(Kiều-Tất-La ).  (2) : Xứ Saketa thuộc vương quốc Kosala .

Trung Bộ  (Tập 1)   Kinh 24 :    TRẠM XE         *  MLH  –347

 

          Giữa Xá Vệ và Sá-Kê-Ta

              Rồi Vua xứ Kô-Sa-La

       Ba-Sê-Na-Đí vội ra khỏi thành

          Lên cỗ xe lao nhanh phía trước

          Trạm thứ nhất đã được dùng ngay.

              Đến được trạm xe thứ hai

       Thay cỗ xe khác, đường dài phóng đi.

          Trạm thứ ba tức thì đến đấy

          Vua thay xe để lại lên đường

              Cỗ xe lại chạy khẩn trương

       Trạm xe thứ bốn an tường tới đây

          Vua đổi ngay cỗ xe thứ bốn

          Để đến chốn trạm xe thứ năm

              Đổi xe ở trạm xe năm

       Cỗ xe nhanh chóng phóng tầm đường xa

          Lại trải qua trạm xe thứ sáu

          Vua lại bảo tiếp tục lên đường

              Đổi cỗ xe mới khẩn trương

       Trạm xe thứ bảy Quốc Vương đến rồi

          Vua tức thời đổi xe ở đấy

          Nhờ trạm xe thứ bảy, tới nhanh

              Sa-Kê-Ta, cửa nội thành.

Đại thần, hoàng tộc, công khanh đứng chờ,

          Hỏi Vua : “ Có phải nhờở đấy

          Do trạm xe thứ bảy này, mà

              Vua đến được Sa-Kê-Ta

       Từ Sa-Vát-Thí đường xa muôn trùng ?

 

          Thưa Hiền-giả ! Nói chung, cụ thể

         Vua Ba-Sế-Na-Đí  trước sau

             Phải trả lời như thế nào

Trung Bộ  (Tập 1)   Kinh 24 :    TRẠM XE         *  MLH  –348

 

       Gọi làđúng đắn với câu trả lời ? ”.

 

    – “ Này Hiền-giả ! Trả lời đúng đắn   

          Đức Vua phải mau mắn trình bày :

             ‘Từ Xá Vệ muốn đến đây

       Phải cấp tốc sử dụng ngay dần dần

          Bảy trạm xe, bảy lần thay đổi

          Bảy cỗ xe ở mỗi trạm này

              Trạm xe Xá Vệ lên ngay

       Đến và đổi ở trạm hai tức thì

          Rồi lại đi trạm ba, trạm bốn

          Đổi cỗ xe trạm bốn một bề

              Trạm năm, trạm sáu thay xe

       Trạm xe thứ bảy gần về đến nơi

          Ta tức thời đổi xe trạm bảy

          Dùng cỗ xe thứ bảy đến đây’.

              Hiền-giả ! Trả lời như vầy

       Mới gọi đúng đắn, Vua này công minh ”.

 

    – “ Thưa Hiền-giả ! Sự tình cũng vậy

          Giới thanh-tịnh, điều ấy hiểu nhanh :

Đạt cho được Tâm tịnh-thanh .

       Với Tâm thanh-tịnh đã thành mục tiêu

Đạt cho được Kiến đều thanh-tịnh.

          Bởi mục đích thanh-tịnh Đoạn-nghi     

              Do Kiến thanh-tịnh tự tri.

Đạo-phi-đạo tri-kiến thì tịnh uy

          Là mục đích Đoạn-nghi thanh-tịnh.

          Rồi hướng Đạo-tri-kiến tịnh-thanh

Đạo-phi-đạo tri-kiến sanh.

Đạt được Tri-kiến tịnh-thanh tức thì.

          Tri-kiến này chỉ vì đểđạt

Trung Bộ  (Tập 1)   Kinh 24 :    TRẠM XE         *  MLH  –349

 

          Được Vô-thủ-trước Bát-niết-bàn.

              Ta sống phạm-hạnh lạc an

       Dưới sự chỉ dẫn của hàng Đạo Sư

          Với mục đích từ từ phải đạt

          Được Vô-thủ-trước Bát-niết-bàn ”.

 

              Khi được đáp lại rõ ràng

       Ngài Xá-Lợi-Phất hướng sang vấn đề

          Là hỏi về phương danh vị nọ :

    – “ Này Tôn-giả ! Ngài có tên gì ?

              Đồng-phạm-hạnh gọi là chi ? ”.

 – “ Hiền-giả ! Tên gọi mọi thì : Pun-Nha

          Còn tên Manh-Ta-Ni-Pút-Tá

          Đồng-phạm-hạnh tất cả quen dùng ”.

 

        – “ Thật là hy hữu vô cùng !

       Thật là kỳ diệu, tương phùng Cao Tăng !

          Những câu hỏi thuộc phần sâu kín

Đã được chính Tôn-giả trả lời

              Từng điểm một, rất tuyệt vời

       Xứng danh mô phạm, một đời hoằng dương

Đại-đệ-tử kiên cường ý chí(1)

          Hiểu tường tận giáo lý Phật Đà

    __________________________   

  (1) :  Tôn-giả Phú-Lâu-Na  rất tinh cần và  miệt mài với công tác

    hoằng pháp độ sinh .  Có lần Phật cử các vị Tỷ Kheo đi bố giáo

   nhiều nơi , duy cóđịa phương Du-Na , dân chúng vô cùng hung

   dữ và vôđạo, không vị nào dám nhận. Ngài Phú-Lâu-Na  khẳng 

  khái xin đi . Phật đưa ra nhiều trường hợp  nguy hiểm , kể cả có

  thể thiệt mạng, nhưng ngài vẫn kiên  cường thưa là nếu có chết

  cũng chỉ là để xả bỏ thân tứđại nhiều nghiệp chướng mà thôi . 

  Đức Phật vô cùng tán thán, đồng ý để  Tôn-giảđến hoằng pháp

 tại đấy, và cuối cùng ngài đã thu phục được dân xứ này quay về

với Chánh Pháp .

Trung Bộ  (Tập 1)   Kinh 24 :    TRẠM XE         *  MLH  –350

 

Đó là Tôn-giả Pun-Nha

       Tức Manh-Ta-Ní-Pút-Tà viên thông !

          Hạnh phúc cho các đồng-phạm-hạnh !

          Thật hạnh phúc chân chánh thâm trầm !

              Đồng-phạm-hạnh được viếng thăm

       Hay hân hạnh được tháng năm cận kề.

          Nếu nói về các đồng-phạm-hạnh

          Do tôn kính bậc Thánh thâm sâu  

              Liền đội Tôn-giả lên đầu

       Với cuộn vải trắng lót đầu cho cân

          Để được thăm, được phần thân cận

          Là may mắn, hạnh phúc họ rồi !

              Thật là hạnh phúc cho tôi

       Được cùng đàm luận tay đôi với vì

          Pun-Nha Manh-Ta-Ni-Pút-Tá ”.

 

          Được nói vậy, Tôn-giả Pun-Nha  

              Hỏi ngài Sa-Ri-Pút-Ta :

– “ Xin hỏi Tôn-giả tên là chi đây ?

         Đồng-phạm-hạnh gọi ngài gì vậy ? ”.

   – “ Tôi tên ấy Ú-Pá-Tít-Sa (1)

            Còn tên Sa-Ri-Pút-Ta  (1)

       Các đồng-phạm-hạnh gọi qua tên này ”.

 

    – “ Thật hân hạnh, thật đầy diễm phước !

          Tôi đang được đối diện luận bàn

              Với bậc được xem ngang hàng           

       Cùng đấng Đại Giác, hoàn toàn Trí minh.

          Nếu thực tình biết là Tôn-giả

    __________________________   

(1) : Tôn-giả Xá-Lợi-Phất – Sariputta  ( con bà Sari ), vịĐại-đệ-tử

      của Phật , Trí TuệĐệ Nhất . Tên thật của ngài là Upatissa .

Trung Bộ  (Tập 1)   Kinh 24 :    TRẠM XE         *  MLH  –351

 

          Thì tôi đã không dám lạm bàn.

              Thật là hy hữu vô vàn !

       Thật là kỳ diệu muôn ngàn cho tôi !

          Những câu hỏi vừa rồi sâu kín

Đã được chính Tôn-giả trả lời

              Từng điểm một, rất tuyệt vời      

       Xứng đáng Thánh giả suốt đời hoằng dương

Đại-đệ-tử vô lường Đại Trí

          Hiểu tường tận giáo lý Phật Đà

              Là ngài Sa-Ri-Pút-Ta

     ( Tức Xá-Lợi-Phất ) thật là viên thông        

          Hạnh phúc cho các đồng-phạm-hạnh !

          Thật hạnh phúc chân chánh thâm trầm !

              Đồng-phạm-hạnh được viếng thăm

       Hay hân hạnh được tháng năm cận kề.

          Nếu nói về các đồng-phạm-hạnh

          Do tôn kính bậc Thánh thâm sâu  

              Liền đội Tôn-giả lên đầu

       Với cuộn vải trắng lót đầu cho cân

          Để được thăm, được phần thân cận

          Là may mắn, hạnh phúc họ rồi !

              Thật là hạnh phúc cho tôi

       Lại được thân cận, đồng thời tường tri

          Với Tôn-giả Sa-Ri-Pút-Tá ! ”.

 

          Như vậy, hai Tôn-giả trí tài

              Cùng nhau thiện thuyết hòa hài

       Cùng nhau tùy hỷ trình bày của nhau ./-

 

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  ( 3 L )

                                *   *   *

( Chấm dứt Kinh số 24 :  TRẠM XE  –  RATHAVINÌTI  Sutta )

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/06/2024(Xem: 1393)
Sau khi bang Niedersachsen của ông Tiến sĩ Albrecht thu nhận hơn 1.000 thuyền nhân từ chiếc tàu Hải Hồng, phân phối đi các vùng trong bang nhưng đông nhất vẫn là thành phố thủ phủ Hannover. Các thuyền nhân tỵ nạn này vừa từ cõi chết đi lên, nên rất cần một chỗ dựa cho tâm linh. Sau chuyến vượt biên thoát nạn, họ đã cầu nguyện Đức Mẹ Maria cứu vớt nếu là người Công giáo. Còn Phật giáo họ sẽ niệm Mẹ hiền Quán Thế Âm, hai hình tượng đã in sâu vào tâm thức, họ tin chắc hai Vị này đã ra tay cứu độ đưa họ đến bến bờ bình yên.
12/06/2024(Xem: 715)
Lời người chuyển ngữ: Thông thường khi nói đến ngồi thiền hay thực hành chánh niệm chúng ta lập tức nghĩ đến việc ngồi yên, ngồi một cách nghiêm trang và chú tâm vào hơi thở hay những cách khác (tùy theo phương pháp chỉ – quán…). Tuy nhiên chúng ta cũng nghe đến tứ oai nghi đi – đứng - nằm – ngồi, nghĩa là ta có thể giữ chánh niệm trong mọi hoàn cảnh và tư thế, điều này phụ thuộc vào năng lực, ý chí của mỗi cá nhân. Trong lá thư gởi độc giả của tạp chí Lion’s Roar (Sư Tử Hống), ngày 51/05/24 có đề cập đến việc ứng dụng và thực hành chánh niệm trong sự di chuyển động, trong lá thư này có dẫn lời của Francis Sanzaro một nhà leo núi chuyên nghiệp và cũng là một Phật tử đã áp dụng chánh niệm trong việc leo núi. Việc ứng dụng chánh niệm trong sự vận động hàng ngày đôi khi tôi cũng có chút xíu kinh nghiệm. Tôi thường chạy bộ, bơi lội… và giữ chánh niệm và cảm thấy thoải mái dễ chịu hơn là khi ngồi nghiêm trang trước bàn thờ Phật. Tôi nhận thấy mọi người ai cũng có thể áp dụng thực hành chán
12/06/2024(Xem: 692)
Sống ở đời, mọi người chúng ta ai ai cũng đã từng ít nhất một lần buộc miệng than: “Sao khổ vậy trời? Sao khổ thế này?”. Khổ là bản chất của đời sống hiện hữu, khổ là tất yếu vì sự thay đổi của vô thường. Đã sanh làm người, đã sống trong đời thì không thể tránh khỏi khổ, cho dù đó là tỷ phú cực giàu, tổng thống cực quyền hay là kẻ ăn mày khố rách áo ôm. Khổ có vô vàn nhưng chung quy lại không ngoài: Sanh, già, bệnh, chết, muốn mà không được, thương phải chia lìa, ghét phải chung đụng, thân và tâm đầy phiền não như lửa cháy. Khổ vì sanh – tử là điều bất khả kháng, khổ vì những ác nghiệp đã chín muồi thì cũng không thể tránh được, duy cái khổ của sự mong cầu, ham muốn, thèm khát là điều mà chúng ta có thể làm giảm thiểu hoặc tránh được.
04/06/2024(Xem: 877)
Ta lên núi, học làm Tiên nhẫn nhục, Mặc thói đời nhân ngã với thị, phi! Mây có hẹn, mà quên về cũng được, Gió có lay, trăng nghiêng ngã hề chi!
02/06/2024(Xem: 1202)
Một trong những lời dạy của Tuệ Trung Thượng Sĩ thường được đời sau nhắc tới là hãy phản quan tự kỷ. Đó là pháp yếu Thiền Tông. Nghĩa là, nhìn lại chính mình. Câu hỏi chúng ta nêu ra nơi đây là, phản quan tự kỷ thế nào?
30/05/2024(Xem: 890)
Đại Trí Độ Luận nói: “Biển cả Phật pháp, tin thì vào được”. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Tín làm tay. Như người có tay, đến nơi trân bảo, tùy ý nhặt lấy. Nếu người không tay, chẳng được thứ gì”. Cũng có câu: “Vừa vào cửa tín, liền lên Tổ vị”. “Mũi Tên Xuyên Vách” ra đời góp một niềm tin nhỏ cho người sơ cơ, chắc không tránh khỏi lỗi lầm. Rất mong bạn đọc bốn phương bổ chính để được tốt hơn trong những lần tái bản tới. Xin thành thật tri ân.
24/05/2024(Xem: 8914)
Hình ảnh Thầy Minh Tuệ xuất hiện trên các mạng xã hội y hệt như một trận bão truyền thông, làm dâng tràn những cảm xúc và suy tưởng. Những bước chân đơn độc của Thầy đã đi bốn vòng đất nước trong nhiều năm qua, để tu hạnh đầu đà là điều khó làm, không phải ai làm cũng được. Một hình ảnh chưa từng nhìn thấy, dù là trong tiểu thuyết hay phim ảnh: hàng trăm người dân, có khi hàng ngàn người dân, cùng ra phố bước theo Thầy, lòng vui như mở hội, niềm tin vào Chánh pháp kiên cố thêm.
17/05/2024(Xem: 675)
Bảo rằng mới, ừ thì là mới nhưng thật sự thì tháng năm đã từ vô thủy đến giờ. Tháng năm là tháng năm nào? Năm nào cũng có tháng năm, nếu bảo mọi tháng đều là tháng năm thì cũng chẳng sai. Năm, tháng, ngày, giờ… là cái khái niệm con người chế ra, tạm gọi là thế, tạm dùng để đo, đếm cái gọi là thời gian. Bản thân thời gian cũng là một khái niệm như những khái niệm dùng để đo lường nó. Bản chất thời gian là gì thì ai mà biết, nó vốn vô hình, vô tướng, vô trọng lượng, vô sắc, vô thanh… Nó không đầu không cuối và dĩ nhiên cũng không thể nào biết đâu là chặng giữa. Con người, vạn vật muôn loài và thế giới này có hình thành hay hoại diệt thì nó vẫn cứ là nó. Nó chẳng sanh ra và cũng chẳng mất đi.
17/05/2024(Xem: 1537)
Phần này ghi lại vài nhận xét về bản chữ quốc ngữ Sấm Truyền Ca và Lập Quốc Kinh, qua lăng kính của chữ quốc ngữ từ thời LM de Rhodes và các giáo sĩ Tây phương sang Á Đông truyền đạo. Đây là lần đầu tiên cách dùng này hiện diện trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh/Bồ (chữ quốc ngữ), điều này cho ta dữ kiện để xem lại một số cách đọc chính xác hơn cùng với các dạng chữ Nôm đồng thời. Rất tiếc là chưa tìm ra bản Nôm Sấm Truyền Ca hay Lập Quốc Kinh, do đó bài này phải dựa vào các dạng chữ quốc ngữ viết tay còn để lại. Tài liệu tham khảo chính của bài viết này là các tài liệu chép tay của LM Philiphê Bỉnh (sđd) và bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC)
12/05/2024(Xem: 1917)
Thế là ngày lễ mẹ lại về, thế nhân rộn ràng với bao lời chúc, với hoa tươi và những món quà… Những người con lại có phút giây xao lòng hay chạnh lòng nghĩ về mẹ, tưởng nhớ mẹ. Những nghệ sĩ lại viết thêm bài nhạc, bài văn hay bài thơ mới về chủ đề mẹ. Đời sống hiện đại hôm nay vô cùng hối hả và bận rộn, nhiều khi con người ta vô tình lơ đễnh quên đi ơn nghĩa mẹ cha. Ngày lễ mẹ là một ngày lễ đầy tính nhân văn cao cả, giúp đánh động tâm mọi người, nhắc nhở mọi người nhớ về mẹ ( về đấng sinh thành nói chung).
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]