Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

74. Kinh Trường Trảo

19/05/202010:33(Xem: 10170)
74. Kinh Trường Trảo

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majhima  Nikàya )


Tập II
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : [email protected]



74. Kinh TRƯỜNG TRẢO
( Dìghanakha sutta )
 
Như vậy, tôi nghe :
 
          Một thời, Đức Thế Tôn Giác Giả
          Trú Vương Xá – Rá-Chá-Ga-Ha  (1)
              Trên núi Ghít-Chá-Kú-Ta  (2)
     ( Linh Sơn – Linh Thứu cũng là núi đây,
          Kỳ-Xà-Quật tên này thường tả )
          Trong hang Sú-Ká-Rá-Khá-Ta  (3)
 
              Du sĩ Đi-Gá-Ná-Kha  (4)
     ( Cũng tên : Trường Trảo, dịch ra như vầy )
          Đi đến ngay chỗ Phật an trú
          Gặp Điều Ngự, nói những lời chào
              Một cách thân hữu, xã giao
       Rồi du sĩ ấy đứng vào một bên
          Rồi nói lên với Ngài về chuyện :
 
    – “ Thưa Tôn Giả ! Tri kiến của tôi
              Hay lý thuyết tôi có, thời :
   ____________________________
 
(1) : Ràjagaha ( Vương-Xá ) là thủ phủ của vương quốc Magadha 
    – Ma-Kiệt-Đà của vua Tần-Bà-Sa-La và sau là vua A-Xà-Thế .
     Nơi đây cũng đã tổ chức  Đại Hội Kết Tập Tam Tạng lần đầu
     tiên sau khi Phật Niết-Bàn 3  tháng tại độngSattapanni, dưới
    sự chủ tọa của Ngài Mahà Kassapa (Ma-Ha Ca-Diếp).Tôn-giả
    Upali trùng  tuyên về Luật Tạng và Tôn-giả Ananda trùng tuyên
    về Kinh Tạng ; do vua A-Xà-Thế ngoại hộ .
(2) : Núi Gijjhakuta  – Kỳ-Xà-Quật hay Linh Sơn hoặc Linh Thứu
    (vì có một mõm đá nhô ra giống hình con chim Thứu) .
(3) : Hang đá Sukarakhata . (4) : Dìghanakha - Trường Trảo .
Trung Bộ (Tập 2)  Kinh 74 :  TRƯỜNG TRẢO      * MLH –  504
 
      ‘Tất cả đều chẳng làm tôi vui lòng,
          Không thích thú ở trong mọi thứ ”.
    – “ Này Du sĩ ! Về sự việc này
             Có phải ông nói như vầy :  
      ‘Tất cả không khiến tôi đây vui lòng’.
          Tri kiến ấy ông không thích thú ? ”.
 
    – “ Nếu nó làm thích thú tôi ngay
              Thời đây cũng giống như vầy,
       Thời đây cũng giống như vầy, còn chi ? ”.
 
    – “ Này Ất-Ghi-Vết-Sa-Na ! Vậy
          Nếu đông người sống tại đời này
              Đã thốt những lời sau đây :
      ‘Thời đây cũng giống như vầy’, nói xong
          Thời họ không bỏ tri kiến ấy,
Chấp thủ lấy tri kiến khác ngay.
 
              Ất-Ghi-Vết-Sa-Na này !    
       Nếu thiểu số kẻ đời nay nói vầy :
        ‘Thời đây cũng giống tày như vậy’
        ‘Thời đây cũng như vậy giống’ nhau
              Họ bỏ tri kiến này mau,
       Không chấp thủ tri kiến nào khác hơn.
 
          Có trường hợp Sa-môn, Phạm-chí
          Một số vị lý thuyết rêu rao
              Hay có tri kiến như sau :            
      ‘Tất cả làm thích thú vào tôi đây’
          Hoặc có ngay Sa-môn, Phạm-chí
          Một số vị tri kiến họ thì :
 ‘Tất cả tôi không thích gì’,
 
       Hoặc : ‘Một phần thích, phần thì chẳng ưa’.     
Trung Bộ (Tập 2)  Kinh 74 :  TRƯỜNG TRẢO      * MLH –  505
 
      *  Với những người luôn ưa, thích thú’,
          Tri kiến bị vây phủ liên miên
              Gần với tham dục, nhiễi phiền,
       Gần với hoan lạc, gần triền phược  đây,
          Gần đắm trước, gần ngay chấp thủ.
 
       * Còn với chủ trương họ thực thi :  
             ‘Tất cả tôi không thích gì’,
       Tri kiến vậy được các vì kể trong
          Là gần với sự không tham dục,
          Không thằng thúc, chấp thủ, lạc hoan ”.
 
              Được nghe Phật nói rõ ràng
       Đi-Gá-Ná-Khá hướng sang Phật Đà
          Thưa rằng : “ Gô-Ta-Ma Tôn Giả !
          Chính Ngài đã nói lời tán dương,
              Tôn Giả hết sức tán dương
       Về quan điểm của tôi thường nêu ra ”.
 
     – “Ất-Ghi-Vết-Sa-Na ! Phải hiểu
          Như tiêu biểu các vị Sa-môn
              Hay là các Bà-la-môn  
       Lý thuyết, tri kiến bảo tồn không thôi :
         ‘Một phần làm cho tôi thích thú,            
          Làm tôi không thích thú một phần’.
 
              Làm họ thích thú, là gần
       Tham dục, triền phược và gần lạc hoan,
          Gần chấp thủ, gần đàng đắm-trước.
 
          Cái gì thuộc tri kiến thực thi
             ‘Khiến họ không thích thú gì’ :
       Gần không tham dục, không chi nhiễu phiền,
          Không hoan lạc, không triền phược cả,
Trung Bộ (Tập 2)  Kinh 74 :  TRƯỜNG TRẢO      * MLH –  506
 
Không chấp thủ ròng rã trải qua.
 
              Này Ất-Ghi-Vết-Sa-Na !
       Với những Phạm-chí hay là Sa-môn,
          Có lý thuyết hay còn tri kiến :
         ‘Tất cả, khiến thích thú cho tôi’.
              Thì người trí nghĩ tức thời :
      ‘Nếu nói tri kiến của tôi như vầy
          Nếu ta đây tri kiến cố chấp :
         ‘Đây là thật, ngoài nó là sai ?
              Như vậy đối nghịch cả hai : 
 
       Một là các vị vẫn hay chấp điều :
        ‘Tất cả đều khiến tôi không thích’.
          Hai, đối nghịch tri kiến đã đưa :
             ‘Một phần làm tôi thích ưa,      
       Một phần tôi chẳng thích ưa’ chút nào.
 
          Khi đối nghịch, đưa vào tranh luận,
          Có tranh luận thời có chống kình,
     Chống đối thời có bực mình.
       Vì thấy đối nghịch thật tình chẳng hay,
          Nên vị này bỏ tri kiến ấy
          Không chấp lấy tri kiến khác nào,
              Như vậy là đoạn trừ mau
  Và hủy bỏ tri kiến đầu nêu ra.
 
          Ất-Ghi-Vết-Sa-Na ! Mặt khác
          Nếu có các Phạm-chí, Sa-môn
              Lý thuyết, tri kiến bảo tồn :
      ‘Tất cả đều khiến tôi không thích gì’.
          Hoặc các vì Sa-môn, Phạm-chí
          Có tri kiến và lý thuyết rằng :
             ‘Làm tôi thích thú một phần,
Trung Bộ (Tập 2)  Kinh 74 :  TRƯỜNG TRẢO      * MLH –  507
 
       Tôi không thích thú một phần’, nêu ra.
          Người có trí sâu xa suy nghĩ :
       “ Nếu ta chỉ cố chấp ý ta
              Khăng khăng kiên chấp, nói là :
      ‘Đây là sự thật, ngoài ra sai lầm’,
          Như vậy thầm đối nghịch, bài bác
 Hai tri kiến vốn khác nói trên.
              Khi nào đối nghịch có nên
       Có sự tranh luận, nổi lên chống kình,
          Có chống đối, bực mình liền có ”.
 
          Vị ấy bỏ tri kiến này mau 
              Không giữ tri kiến khác nào
       Như vậy là đoạn trừ vào tự tri,
    Là hủy bỏ những tri kiến ấy.
 
          Nhưng này Ất-Ghi-Vết-Sa-Na !   
              Thân này có sắc, tạo ra
       Là do bốn đại, mẹ cha sinh thành,
          Nhờ có cháo, cơm, canh nuôi dưỡng,
          Do nhiều hướng biến hoại, vô thường,
              Phân tán, đoạn tuyệt đáng thương !
       Cần quán sát là vô thường, khổ nên
          Như cục bướu, mũi tên, bệnh hoạn,
          Điều bất hạnh vô hạn, hay là
              Kẻ địch, phá hoại trầm kha,
       Là không, vô ngã. Quán ra như vầy
          Thời thân này, thân dục, thân ái,
          Thân phục tùng được mãi diệt qua.
 
              Này Ất-Ghi-Vết-Sa-Na !              
       Ba Thọ : lạc & khổ thọ và tiếp theo
          Bất lạc bất khổ đều thọ cả. 
Trung Bộ (Tập 2)  Kinh TRƯỜNG TRẢO                 MLH –  508
 
  Khi cảm giác lạc thọ tràn trề,
              Khi ấy không cảm giác về
       Khổ &Bất lạc khổ thọ kề bên ta.
          Ất-Ghi-Vết-Sa-Na ! Tương tợ
          Khi cảm giác khổ thọ, hay là
              Bất lạc bất khổ thọ đa,
       Thời không cảm giác trải qua đồng thời
          Hai thọ kia – tách rời như vậy,
    Chỉ cảm giác thọ ấy mà thôi.
 
              Phải hiểu lạc & khổ thọ rồi
       Bất lạc bất khổ thọ rơi vô thường,
          Hữu vi, nương duyên sanh, đoạn diệt,
Bị hủy hoại, tiêu diệt, suy tàn.
              Bậc Thánh đệ tử đa văn
       Yểm ly lạc & khổ thọ càng sớm đi.
      Và yểm ly bất khổ bất lạc.
          Yểm ly đạt, không có dục tham,
              Do nhờ không có dục tham
       Vị ấy giải thoát bao hàm tự thân.
          Bởi như vậy, khởi phần hiểu biết :
 
         ‘Ta đã thiệt giải thoát an lành
              Biết rằng Phạm hạnh đã thành
       Sự Sanh đã tận, thực hành đã xong,
          Sau đời này sẽ không tiếp nối
          Đời sống khác ở cõi trần này’.
 
              Với tâm giải thoát như vầy
       Ất-Ghi-Vết-Sa-Vá này ! Tỷ Kheo
          Không chiều theo một ai để nói               
          Không tranh luận với mọi người đời
          Chỉ dùng từ ngữ ở đời,
Trung Bộ (Tập 2)  Kinh 74 :  TRƯỜNG TRẢO      * MLH –  509
 
       Không hề chấp thủ vào nơi ngôn từ.
          Lúc ấy, vị Đại Sư Tôn-giả
          Đại Trí Xá-Lợi-Phất đứng sau
              Hướng về Thế Tôn, quạt hầu,
       Tôn-giả chợt suy nghĩ sâu như vầy :
 
       “ Thế Tôn nay thuyết cho đại chúng 
          Sự từ bỏ và cũng diệt ngay
              Các pháp (ấy) nhờ thắng trí này ”.
 
       Khi Tôn-giả suy nghĩ ngay như vầy
          Tâm của ngài giải thoát lậu-hoặc
          Không chấp chặt, chấp thủ mọi phần.
 
               Còn với Du-sĩ, tự thân
       Pháp nhãn vô cấu ly trần khởi lên
         ‘Phàm pháp gì khởi lên như vậy,
          Các pháp ấy được đoạn diệt ngay’.
              Rồi du-sĩ ngoại đạo này
     ( Đi-Ga-Ná-Khá ) pháp đây thấy liền,
          Chứng, ngộ pháp, hiện tiền thể nhập
          Vào pháp ấy và lập tức thì
              Tiêu trừ do dự, hoài nghi,
       Chứng được tự tín, không y cứ vào
          Một người nào, đối với giáo pháp
          Của Đại Giác, liền bạch như vầy :
 
        – “ Bạch Tôn Giả ! Vi diệu thay !           
       Như người dựng vật lăn quay ngã nằm
         Chỉ hướng kẻ sai lầm lạc lối
          Đem đèn sáng vào tối như bưng
              Để ai có mắt mở bừng
       Có thể thấy được sáng trưng sắc màu
          Cũng như thế, nhiệm mầu Chánh Pháp
Trung Bộ (Tập 2)  Kinh 74 :  TRƯỜNG TRẢO      * MLH –  510
 
          Được Thế Tôn giải đáp, trình bày     
              Con xin quy ngưỡng từ nay
       Quy y Đức Phật, nương ngay Pháp mầu,
          Quy y Tăng thanh cao đức cả
          Nối tiếp nhau hoằng hóa Pháp môn
              Mong Thế Tôn nhận cho con
       Được làm đệ tử, vun tròn thiện duyên
          Con xin nguyền từ nay ngưỡng phục
          Cho đến lúc thân hoại xảy ra ”.
 
              Từ đó Đi-Gá-Ná-Kha
       Nương theo giáo pháp Phật Đà thậm thâm ./-
 
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  ( 3 L )
 
 
 
*
*   *
 
 
(  Chấm dứt  Kinh số 74  :  TRƯỜNG TRẢO   –   DÌGHANAKHA   Sutta  )
 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
21/06/2024(Xem: 3161)
Trong lúc dọn dẹp lại thư viện kinh sách bé nhỏ của mình, người viết vừa nâng niu, vừa bâng khuâng xao xuyến khi nhìn kỹ lại hơn 50 tác phẩm được biên soạn bằng chính năng lực, trí tuệ của quý danh tăng của thế kỷ 20 -21 đã ký tặng( mà người viết cho đấy là sách giáo khoa hàn lâm về Phật Giáo ) với những dòng chữ thật trân quý đầy tinh thần nhân văn cao cả của lý tưởng, lại mang đậm các giá trị đạo đức truyền thống trong Phật Giáo mà trong suốt đời tu học, khoảng 10 năm gần đây người viết mới được tiếp xúc những bậc hiền triết này.
15/06/2024(Xem: 1441)
Sau khi bang Niedersachsen của ông Tiến sĩ Albrecht thu nhận hơn 1.000 thuyền nhân từ chiếc tàu Hải Hồng, phân phối đi các vùng trong bang nhưng đông nhất vẫn là thành phố thủ phủ Hannover. Các thuyền nhân tỵ nạn này vừa từ cõi chết đi lên, nên rất cần một chỗ dựa cho tâm linh. Sau chuyến vượt biên thoát nạn, họ đã cầu nguyện Đức Mẹ Maria cứu vớt nếu là người Công giáo. Còn Phật giáo họ sẽ niệm Mẹ hiền Quán Thế Âm, hai hình tượng đã in sâu vào tâm thức, họ tin chắc hai Vị này đã ra tay cứu độ đưa họ đến bến bờ bình yên.
12/06/2024(Xem: 768)
Lời người chuyển ngữ: Thông thường khi nói đến ngồi thiền hay thực hành chánh niệm chúng ta lập tức nghĩ đến việc ngồi yên, ngồi một cách nghiêm trang và chú tâm vào hơi thở hay những cách khác (tùy theo phương pháp chỉ – quán…). Tuy nhiên chúng ta cũng nghe đến tứ oai nghi đi – đứng - nằm – ngồi, nghĩa là ta có thể giữ chánh niệm trong mọi hoàn cảnh và tư thế, điều này phụ thuộc vào năng lực, ý chí của mỗi cá nhân. Trong lá thư gởi độc giả của tạp chí Lion’s Roar (Sư Tử Hống), ngày 51/05/24 có đề cập đến việc ứng dụng và thực hành chánh niệm trong sự di chuyển động, trong lá thư này có dẫn lời của Francis Sanzaro một nhà leo núi chuyên nghiệp và cũng là một Phật tử đã áp dụng chánh niệm trong việc leo núi. Việc ứng dụng chánh niệm trong sự vận động hàng ngày đôi khi tôi cũng có chút xíu kinh nghiệm. Tôi thường chạy bộ, bơi lội… và giữ chánh niệm và cảm thấy thoải mái dễ chịu hơn là khi ngồi nghiêm trang trước bàn thờ Phật. Tôi nhận thấy mọi người ai cũng có thể áp dụng thực hành chán
12/06/2024(Xem: 742)
Sống ở đời, mọi người chúng ta ai ai cũng đã từng ít nhất một lần buộc miệng than: “Sao khổ vậy trời? Sao khổ thế này?”. Khổ là bản chất của đời sống hiện hữu, khổ là tất yếu vì sự thay đổi của vô thường. Đã sanh làm người, đã sống trong đời thì không thể tránh khỏi khổ, cho dù đó là tỷ phú cực giàu, tổng thống cực quyền hay là kẻ ăn mày khố rách áo ôm. Khổ có vô vàn nhưng chung quy lại không ngoài: Sanh, già, bệnh, chết, muốn mà không được, thương phải chia lìa, ghét phải chung đụng, thân và tâm đầy phiền não như lửa cháy. Khổ vì sanh – tử là điều bất khả kháng, khổ vì những ác nghiệp đã chín muồi thì cũng không thể tránh được, duy cái khổ của sự mong cầu, ham muốn, thèm khát là điều mà chúng ta có thể làm giảm thiểu hoặc tránh được.
04/06/2024(Xem: 947)
Ta lên núi, học làm Tiên nhẫn nhục, Mặc thói đời nhân ngã với thị, phi! Mây có hẹn, mà quên về cũng được, Gió có lay, trăng nghiêng ngã hề chi!
02/06/2024(Xem: 1341)
Một trong những lời dạy của Tuệ Trung Thượng Sĩ thường được đời sau nhắc tới là hãy phản quan tự kỷ. Đó là pháp yếu Thiền Tông. Nghĩa là, nhìn lại chính mình. Câu hỏi chúng ta nêu ra nơi đây là, phản quan tự kỷ thế nào?
30/05/2024(Xem: 939)
Đại Trí Độ Luận nói: “Biển cả Phật pháp, tin thì vào được”. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Tín làm tay. Như người có tay, đến nơi trân bảo, tùy ý nhặt lấy. Nếu người không tay, chẳng được thứ gì”. Cũng có câu: “Vừa vào cửa tín, liền lên Tổ vị”. “Mũi Tên Xuyên Vách” ra đời góp một niềm tin nhỏ cho người sơ cơ, chắc không tránh khỏi lỗi lầm. Rất mong bạn đọc bốn phương bổ chính để được tốt hơn trong những lần tái bản tới. Xin thành thật tri ân.
24/05/2024(Xem: 9088)
Hình ảnh Thầy Minh Tuệ xuất hiện trên các mạng xã hội y hệt như một trận bão truyền thông, làm dâng tràn những cảm xúc và suy tưởng. Những bước chân đơn độc của Thầy đã đi bốn vòng đất nước trong nhiều năm qua, để tu hạnh đầu đà là điều khó làm, không phải ai làm cũng được. Một hình ảnh chưa từng nhìn thấy, dù là trong tiểu thuyết hay phim ảnh: hàng trăm người dân, có khi hàng ngàn người dân, cùng ra phố bước theo Thầy, lòng vui như mở hội, niềm tin vào Chánh pháp kiên cố thêm.
17/05/2024(Xem: 743)
Bảo rằng mới, ừ thì là mới nhưng thật sự thì tháng năm đã từ vô thủy đến giờ. Tháng năm là tháng năm nào? Năm nào cũng có tháng năm, nếu bảo mọi tháng đều là tháng năm thì cũng chẳng sai. Năm, tháng, ngày, giờ… là cái khái niệm con người chế ra, tạm gọi là thế, tạm dùng để đo, đếm cái gọi là thời gian. Bản thân thời gian cũng là một khái niệm như những khái niệm dùng để đo lường nó. Bản chất thời gian là gì thì ai mà biết, nó vốn vô hình, vô tướng, vô trọng lượng, vô sắc, vô thanh… Nó không đầu không cuối và dĩ nhiên cũng không thể nào biết đâu là chặng giữa. Con người, vạn vật muôn loài và thế giới này có hình thành hay hoại diệt thì nó vẫn cứ là nó. Nó chẳng sanh ra và cũng chẳng mất đi.
17/05/2024(Xem: 1617)
Phần này ghi lại vài nhận xét về bản chữ quốc ngữ Sấm Truyền Ca và Lập Quốc Kinh, qua lăng kính của chữ quốc ngữ từ thời LM de Rhodes và các giáo sĩ Tây phương sang Á Đông truyền đạo. Đây là lần đầu tiên cách dùng này hiện diện trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh/Bồ (chữ quốc ngữ), điều này cho ta dữ kiện để xem lại một số cách đọc chính xác hơn cùng với các dạng chữ Nôm đồng thời. Rất tiếc là chưa tìm ra bản Nôm Sấm Truyền Ca hay Lập Quốc Kinh, do đó bài này phải dựa vào các dạng chữ quốc ngữ viết tay còn để lại. Tài liệu tham khảo chính của bài viết này là các tài liệu chép tay của LM Philiphê Bỉnh (sđd) và bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC)
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]