Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Ngày Lễ Mẹ (12/5/2024)

12/05/202405:55(Xem: 2357)
Ngày Lễ Mẹ (12/5/2024)


Me_Tam_Thai_2014 (1)

NGÀY LỄ MẸ

 

Thế là ngày lễ mẹ lại về, thế nhân rộn ràng với bao lời chúc, với hoa tươi và những món quà… Những  người con lại có phút giây xao lòng hay chạnh lòng nghĩ về mẹ, tưởng nhớ mẹ. Những nghệ sĩ lại viết thêm bài nhạc, bài văn hay bài thơ mới về chủ đề mẹ. Đời sống hiện đại hôm nay vô cùng hối hả và bận rộn, nhiều khi con người ta vô tình lơ đễnh quên đi ơn nghĩa mẹ cha. Ngày lễ mẹ là một ngày lễ đầy tính nhân văn cao cả, giúp đánh động tâm mọi người, nhắc nhở mọi người nhớ về mẹ ( về đấng sinh thành nói chung).

 Các bà mẹ trên đời đều vĩ đại cả, theo như một danh nhân phương tây từng nói:” Mẹ là món quà tuyệt vời nhất mà thượng đế ban tặng cho loài người”. Dân gian ta thì thiết thực hơn, gần gũi hơn, thân mật hơn:

” Mẹ già như chuối ba hương

   Như xôi nếp một như đường mía lau”, hoặc đơn giản hơn nữa: “ Không chi bằng cơm với cá, không gì bằng má với con”. Người mẹ thân thiết, ngọt ngào và thơm tho như chuối ba hương. Mẹ như đường mía lau, như bát cơm với cá… Không còn gì gần gũi hơn và thiết yếu hơn những món trên. Mẹ, chính là người tạo ra những món trên và cũng là hiện thân như những thứ ấy. Những đứa con lớn lên nhờ những món này, nhờ sự mang nặng đẻ đau, nhờ sự chăm sóc của mẹ. Những đứa con lớn lên, đủ lông đủ cánh bay xa bốn phương nhưng có mấy ai quên: chuối ba hương, đường mía lau, bát cơm có cá kho… hay nói cách khác có ai quên được người mẹ tần tảo sớm hôm để rồi có mình hôm nay! Cũng người dân quê, cái tình, cái nghĩa, cái tâm hồn lân mẫn nhớ mẹ, thương mẹ:

“ Mẹ già như chuối chín cây

  Gió lay mẹ rụng con rày mồ côi”

 Mẹ là một đề tài vô tận, một nguồn cảm xúc vô biên để cho thế nhân sáng tác. Đã có vô số những bản nhạc, bài thơ, tác phẩm văn, tranh, ảnh, tượng… về mẹ và sẽ có những sáng tác mới vẫn đang và sẽ tiếp tục tôn vinh người mẹ, ca tụng mẹ. Dẫu có thế nào đi nữa cũng khó mà diễn tả hay nói cho trọn công lao của mẹ ( cha mẹ nói chung). Những sáng tác của người nghệ sĩ chỉ là nét chấm phá, chỉ là phản ảnh được từng khía cạnh nào đó mà thôi. Làm sao có thể mô tả trọn vẹn được? Biển cả mênh mông không thể dùng chung rượu mà lường, hư không bao la, không thể dùng thước thợ may để đo. Ai đó đã viết nên câu này ( giờ thường thấy ở những dòng thư pháp):

” Nước biển mênh mông không đong đầy tình mẹ

   Mây trời lồng lộng không phủ kín công cha”

Công ơn của mẹ mang nặng đẻ đau, vất vả nuôi con tháng ngày. Mẹ suốt đời quan hoài lo lắng, vui với những gì người con đạt được trên đường đời; khổ đau với những mất mát thất bại và lại tiếp tục hỗ trợ cho con, cho dù sức đã yếu, lực đã tàn, dù đã gần đất xa trời...Có những người con cũng biết nghĩ về mẹ, nhưng cũng không hiếm những người con bất hiếu:

“ Cha mẹ nuôi con biển hồ lai láng

   Con nuôi cha mẹ tính tháng kể ngày”

Mẹ nuôi con, thương con vô điều kiện, nhưng con thương mẹ thì tính toán đo lường hơn thiệt, nặng nhẹ  mưu toan.

 Những bà mẹ trên đời đều vĩ đại, tuy nhiên với cái môi trường sống khác nhau, tập quán văn hóa khác nhau mà những bà mẹ phương tây và phương đông có cách thương và hành xử khácnhau. Những bà mẹ Việt gần như cả đời hy sinh cho chồng con, nuôi nấng dẫn dắt đứa con từ tấm bé cho đến khi rưởng thành:

“Ví dầu cầu ván đóng đinh

 Cầu tre lắt lẻo gập ghềnh khó đi

 Khó đi mẹ dắt con đi

 Con thi trường học mẹ thi trường đời”

Sự trưởng thành, sự thành công của người con trên đường học vấn, công danh sự nghiệp là nhờ mồ hôi nước mắt của người mẹ đổ ra trên đường đời.

Những bà mẹ phương tây cũng yêu con cái rất mực, sẵn sàng hy sinh để bảo vệ con cái, nhưng những bà mẹ phương tây trông rất cứng rắn, dứt khoát không có lối nhẫn nại, mềm mỏng như người mẹ Việt. Người mẹ phương tây cũng không quá vất vả trong việc nuôi con và cũng không có cái lối suốt đời hy sinh cho con.

 Ngày lễ mẹ, nhớ mẹ, nghĩ về mẹ. Những người con xa chắc không khỏi chạnh lòng, khoảng cách xa diệu vợi làm sao sớm hôm thăm hỏi, chăn sóc khi ốm đau, khó mà phụng dưỡng dù chỉ là tối thiểu...Hoàn cảnh quốc độ xa xôi làm sao vượt qua được? Âu cũng là cái khổ trong tám khổ mà Phật đã nói:” Ái biệt ly khổ” là vậy! Khi những đứa con trưởng thành cũng là lúc cha mẹ dần già đi, khi những đứa con tóc xanh thì mẹ tóc dần phai màu. Mỗi đứa con là một giọt máu đào, là một khúc ruột rút ra. Khi những đứa con vô minh bất hiếu với mẹ cha thì cũng chính là tự hại lấy thân mình, tự rước họa về sau cho chính bản thân.

 Truyền thống phương đông con ngườui ta ít biểu lộ tình cảm, thường che giấu cảm xúc của mình, rất ít khi người mẹ hay người con nói “ Mẹ yêu con, con yêu mẹ” kiểu như người phương tây. Người mẹ Viêt ít khi nào nói yêu thương như người mẹ phương tây, biểu hiện kín đáo, tình cảm ẩn giấu đằng sau những câu nói, câu hỏi tưởng chừng như vu vơ, tỷ như:” Con ăm chưa? Con có mệt không? Con mới về? Con chuẩn bị đi?...” những lời nói đơn sơ, mộc mạc nhưng chứa đầy ắp tình yêu thương, lo lắng, quan tâm. Hoặc tình cảm biểu hiện bằng việc làm như: nấu nồi cơm với món ăn mà con thích, vá cái áo, sửa soạn túi hành trang… tất cả những việc ấy chứa cả một trời yêu thương, chứa cả tấm lòng của người mẹ.

 Hoàn cảnh nước Việt đôi khi lại rất trớ trêu. Có một thời những bà mẹ Việt đau khổ vì những đứa con của mình rứt ruột sanh ra. Cùng một mẹ, một nhà nhưng thằng lớn thì vào bưng kháng chiến, thằng nhỏ thì làm sĩ quan quốc gia. Những đứa con thù nghịch nhau, sẵn sàng bắn giết nhau. Bà mẹ ở thế kẹt, chỉ biết khóc thầm và ôm nỗi đau:” Con ta giết con ta”, Khi thời thế đổi thay, thằng lớn lại có quyền uy danh phận thì thằng nhỏ lại phải chịu tù đày. Không biết thế gian này có nơi nào khác,  bà mẹ phải chứng kiến nỗi đau những đứa con giết nhau như thế! Những năm gần đây, có những hình ảnh về bà mẹ Palestine ôm con thơ đứng trước ngôi nhà để ngăn chặn xe ủi của người Israel. Những chiếc xe ủi hạng nặngvô cảm cán nát cả người mẹ bồng con và ngôi nhà của họ. Những cái chết kinh hoàng của những bà mẹ Palestine làm chấn động lương tâm của những người tiến bộ trên toàn thế giới. Hình ảnh những bà mẹ ôm con hoặc ở tư thế quỳ khom lưng che chở cho đứa con trong những trận động đất ở Nhật Bản, Iran làm xúc động bao trái tim nhân loại. Những người mẹ che chở cho con đến hơi thở cuối cùng.

 Ngày lễ mẹ ở Mỹ vào ngày chủ nhật thứ hai của tháng năm, đã được quy định thành luật từ năm 1914 bởi tống thống Woodrow Wilson. Thế giới có nhiều quốc gia có ngày lễ mẹ nhưng khác ngày và khác tuyền thống, tuy nhiên nhìn chung là đều tôn vinh người mẹ. Việt Nam không có ngày lễ này nhưng có lễ Vu Lan. Lễ Vu Lan cũng có thể xem như là lễ mẹ, ngày lễ tưởng nhớ mẹ hiện tiền cũng như mẹ quá vãng, tưởng nhớ cả cửu huyền thất tổ. Ngày nay, nhờ sự giao thoa của các nền văn hóa nên ở xứ mình giờ những ngày lễ của phương tây cũng rất thịnh hành, không chỉ ngày lễ mẹ mà còn có những ngày lễ khác như: Lễ tình nhân, lễ Halloween…Lễ Vu Lan vốn có xuất phát từ tích Mục Kiền Liên của nhà Phật, là một ngày lễ vừa có tính truyền thống vừa pha tính dân gian… Người dân Việt ngày xưa rất thật thà, rất tâm thành, thương cha mẹ biểu hiện bằng hành động:

“ Đêm đêm con thắp đèn trời

  Cầu cho cha mẹ sống đời với con”

Và việc thể hiện lòng yêu thương cha mẹ cũng rất thiết thực, rất cao cả

“ Đói lòng ăn hạt chà là

   Để cơm nuôi mẹ, mẹ già yếu răng’

Hột chà là làm sao mà ăn được? Nhưng với người con có hiếu thì chẳng việc gì mà không thể, sẵn sàng làm mọi việc vì mẹ. Người dân quê không biết sáo ngữ, không văn vẻ bóng bẩy, chẳng miệng lưỡi  nhiều. Người dân quê rất đơn giản, thật thà chất phác, thậm chí quê mùa, nhưng đằng sau những lời nói bình dị, những việc làm thông thường ấy là sự yêu thương đằm thắm và sâu sắc, là một tâm hồn mẫn cảm rung động.

Trong giai thoại thiền của Nhật Bản có một câu chuyện về mẹ rất hay, rất nhân bản. Chuyện kể rằng:” Có anh thanh niên nọ học Phật đã lâu, anh ta muốn biết Phật là gì, Phật là ai… nên cất công đi khắp nơi để tham học. Ngày tháng dần qua mà anh ta vẫn không hiểu ra, cho đến một hôm anh ta gặp một vị thiền sư và vị ấy bảo anh ta hãy quay về nhà và người đầu tiên anh ta gặp ấy chính là vị Phật. Anh ta nghe lời quay về, khi về đến nhà, thấy người mẹ ra mừng rỡ ra mở cửa trong khi chân còn mang đôi dép lộn. Anh ta chợt ngộ rằng: Mẹ chính là một vị Phật!”. Câu chuyện này cũng có ý nghĩa gần với câu ca dao của Việt Nam:

“ Tu đâu cho bằng tu nhà

   Thờ cha kính mẹ ấy là chân tu”

me tam thai-thay nguyen tang





Ở đây không nói chuyện tu cao thấp, cái ý chính: Cha mẹ cũng chính là Phật trong nhà, trước khi muốn tu đạo thì phải có hiếu, trước khi muốn thành vị gì thì cũng phải là một người con hiếu trước đã! Đạo Phật là đạo hiếu, phải có hiếu làm nền móng sau đó mới có thể phát triển những mặt khác.

 Nước Việt là nước văn minh nông nghiệp lúa nước, con người sống quây quần trong những cộng đồng làng, xã, dòng tộc… rất ít khi rời xa nơi chôn nhau cắt rốn, nếu đi ra khỏi làng đã cho là xa; đi khỏi tỉnh  lại xa hơn; đi khỏi miền thì xa thẳm. Nếu một ai đó vì điều gì đó mà phải đi xa, mỗi chiều về nhớ mẹ thì trong lòng buồn không biết bút mực nào tả nổi

“ Chiều chiều ra đứng ngõ sau

   Nhớ về quê mẹ ruột đau chín chiều”

Người đi xa ra ngõ nhìn về quê mẹ, có thể là cô gái lấy chồng xa, có thể người ly hương, có thể là kẻ mưu sinh ở phương trời… Tình mẹ là cái tình thiêng liêng cao quý, nhưng cuộc đời vốn muôn màu muôn vẻ. Tâm con người bất đồng nên cũng có những diện mạo khác nhau. Đời có những người mẹ hiền con thảo nhưng cũng có không ít những người con bất hiếu những người mẹ dữ dằn. Sử Tàu ghi rõ những việc bà Lữ Hậu, Võ Hậu, Từ Hy giết con chỉ vì tham lam quyền lực. Sử Việt ta chưa từng ghi có việc này. Tuy nhiên có những  bà mẹ ác như dì ghẻ thì chuyện dân gian có  nhiều, Ngày nay ở xứ mình có những bà mẹ buộc đứa con mình đẻ ra bán dâm, đi ăn xin, bán vé số cho đến hành hạ tàn nhẫn, cũng may là những trường hợp thiểu số này không nhiều.

 Những bà mẹ Việt xưa nay rất chơn chất thật thà, rất đơn sơ giản dị cả đời lo cho chồng con quên cả thân mình. Sử Việt nghìn năm đương đầu với giặc Tàu, trăm năm chống giặc Tây, Những bà mẹ Việt bao lần ầm thầm gạt lệ tiễn chồng con ra trận, người đi rất ít quay về. Những bà mẹ âm thầm ôm nỗi đau, nỗi nhớ thương da diết. Những bà mẹ muôn đời nặng tình nghĩa, đầy ắp tình thương. Những bà mẹ hiền hòa chơn chất nhưng một khi đất nước nguy nan thì lại can đảm lạ thường. Những bà mẹ luôn là hậu phương vững chắc để hỗ trợ cho chồng con ở tuyến đầu.

Những bà mẹ Việt Nam

Sống nghĩa tình, sống nặng về tình cảm

Hy sinh cả đời vì con

Những bà mẹ của thế gian này

Đẻ đau mang nặng, vất vả mưu sinh

Thương yêu chăm lo cho những đứa con của mình

Tình mẹ thiêng liêng cao quý

Bút mực khó chép ghi

Chữ nghĩa nào tả được

Những bức tranh càng chẳng vẽ nên hình

Dẫu có dựng tượng đồng bia đá

Cũng không khắc được biển cả công lao

Những bà mẹ trên đời đều vĩ đại

Tạo nên thế giới con người

Ơn mẹ suốt đời và mãi mãi

Ngày lễ mẹ

Tâm nhân thế nao nao

Nhưng nào chỉ một ngày hôm nay

Bóng dáng mẹ còn hoài trong tâm tưởng

Mẹ là biểu tượng của tình thương

 

TIỂU LỤC THẦN PHONG

Ất Lăng thành, tháng ngày nhớ mẹ

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
21/06/2024(Xem: 3565)
Trong lúc dọn dẹp lại thư viện kinh sách bé nhỏ của mình, người viết vừa nâng niu, vừa bâng khuâng xao xuyến khi nhìn kỹ lại hơn 50 tác phẩm được biên soạn bằng chính năng lực, trí tuệ của quý danh tăng của thế kỷ 20 -21 đã ký tặng( mà người viết cho đấy là sách giáo khoa hàn lâm về Phật Giáo ) với những dòng chữ thật trân quý đầy tinh thần nhân văn cao cả của lý tưởng, lại mang đậm các giá trị đạo đức truyền thống trong Phật Giáo mà trong suốt đời tu học, khoảng 10 năm gần đây người viết mới được tiếp xúc những bậc hiền triết này.
15/06/2024(Xem: 1493)
Sau khi bang Niedersachsen của ông Tiến sĩ Albrecht thu nhận hơn 1.000 thuyền nhân từ chiếc tàu Hải Hồng, phân phối đi các vùng trong bang nhưng đông nhất vẫn là thành phố thủ phủ Hannover. Các thuyền nhân tỵ nạn này vừa từ cõi chết đi lên, nên rất cần một chỗ dựa cho tâm linh. Sau chuyến vượt biên thoát nạn, họ đã cầu nguyện Đức Mẹ Maria cứu vớt nếu là người Công giáo. Còn Phật giáo họ sẽ niệm Mẹ hiền Quán Thế Âm, hai hình tượng đã in sâu vào tâm thức, họ tin chắc hai Vị này đã ra tay cứu độ đưa họ đến bến bờ bình yên.
12/06/2024(Xem: 837)
Lời người chuyển ngữ: Thông thường khi nói đến ngồi thiền hay thực hành chánh niệm chúng ta lập tức nghĩ đến việc ngồi yên, ngồi một cách nghiêm trang và chú tâm vào hơi thở hay những cách khác (tùy theo phương pháp chỉ – quán…). Tuy nhiên chúng ta cũng nghe đến tứ oai nghi đi – đứng - nằm – ngồi, nghĩa là ta có thể giữ chánh niệm trong mọi hoàn cảnh và tư thế, điều này phụ thuộc vào năng lực, ý chí của mỗi cá nhân. Trong lá thư gởi độc giả của tạp chí Lion’s Roar (Sư Tử Hống), ngày 51/05/24 có đề cập đến việc ứng dụng và thực hành chánh niệm trong sự di chuyển động, trong lá thư này có dẫn lời của Francis Sanzaro một nhà leo núi chuyên nghiệp và cũng là một Phật tử đã áp dụng chánh niệm trong việc leo núi. Việc ứng dụng chánh niệm trong sự vận động hàng ngày đôi khi tôi cũng có chút xíu kinh nghiệm. Tôi thường chạy bộ, bơi lội… và giữ chánh niệm và cảm thấy thoải mái dễ chịu hơn là khi ngồi nghiêm trang trước bàn thờ Phật. Tôi nhận thấy mọi người ai cũng có thể áp dụng thực hành chán
12/06/2024(Xem: 810)
Sống ở đời, mọi người chúng ta ai ai cũng đã từng ít nhất một lần buộc miệng than: “Sao khổ vậy trời? Sao khổ thế này?”. Khổ là bản chất của đời sống hiện hữu, khổ là tất yếu vì sự thay đổi của vô thường. Đã sanh làm người, đã sống trong đời thì không thể tránh khỏi khổ, cho dù đó là tỷ phú cực giàu, tổng thống cực quyền hay là kẻ ăn mày khố rách áo ôm. Khổ có vô vàn nhưng chung quy lại không ngoài: Sanh, già, bệnh, chết, muốn mà không được, thương phải chia lìa, ghét phải chung đụng, thân và tâm đầy phiền não như lửa cháy. Khổ vì sanh – tử là điều bất khả kháng, khổ vì những ác nghiệp đã chín muồi thì cũng không thể tránh được, duy cái khổ của sự mong cầu, ham muốn, thèm khát là điều mà chúng ta có thể làm giảm thiểu hoặc tránh được.
04/06/2024(Xem: 1041)
Ta lên núi, học làm Tiên nhẫn nhục, Mặc thói đời nhân ngã với thị, phi! Mây có hẹn, mà quên về cũng được, Gió có lay, trăng nghiêng ngã hề chi!
02/06/2024(Xem: 1431)
Một trong những lời dạy của Tuệ Trung Thượng Sĩ thường được đời sau nhắc tới là hãy phản quan tự kỷ. Đó là pháp yếu Thiền Tông. Nghĩa là, nhìn lại chính mình. Câu hỏi chúng ta nêu ra nơi đây là, phản quan tự kỷ thế nào?
30/05/2024(Xem: 1014)
Đại Trí Độ Luận nói: “Biển cả Phật pháp, tin thì vào được”. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Tín làm tay. Như người có tay, đến nơi trân bảo, tùy ý nhặt lấy. Nếu người không tay, chẳng được thứ gì”. Cũng có câu: “Vừa vào cửa tín, liền lên Tổ vị”. “Mũi Tên Xuyên Vách” ra đời góp một niềm tin nhỏ cho người sơ cơ, chắc không tránh khỏi lỗi lầm. Rất mong bạn đọc bốn phương bổ chính để được tốt hơn trong những lần tái bản tới. Xin thành thật tri ân.
24/05/2024(Xem: 9204)
Hình ảnh Thầy Minh Tuệ xuất hiện trên các mạng xã hội y hệt như một trận bão truyền thông, làm dâng tràn những cảm xúc và suy tưởng. Những bước chân đơn độc của Thầy đã đi bốn vòng đất nước trong nhiều năm qua, để tu hạnh đầu đà là điều khó làm, không phải ai làm cũng được. Một hình ảnh chưa từng nhìn thấy, dù là trong tiểu thuyết hay phim ảnh: hàng trăm người dân, có khi hàng ngàn người dân, cùng ra phố bước theo Thầy, lòng vui như mở hội, niềm tin vào Chánh pháp kiên cố thêm.
17/05/2024(Xem: 807)
Bảo rằng mới, ừ thì là mới nhưng thật sự thì tháng năm đã từ vô thủy đến giờ. Tháng năm là tháng năm nào? Năm nào cũng có tháng năm, nếu bảo mọi tháng đều là tháng năm thì cũng chẳng sai. Năm, tháng, ngày, giờ… là cái khái niệm con người chế ra, tạm gọi là thế, tạm dùng để đo, đếm cái gọi là thời gian. Bản thân thời gian cũng là một khái niệm như những khái niệm dùng để đo lường nó. Bản chất thời gian là gì thì ai mà biết, nó vốn vô hình, vô tướng, vô trọng lượng, vô sắc, vô thanh… Nó không đầu không cuối và dĩ nhiên cũng không thể nào biết đâu là chặng giữa. Con người, vạn vật muôn loài và thế giới này có hình thành hay hoại diệt thì nó vẫn cứ là nó. Nó chẳng sanh ra và cũng chẳng mất đi.
17/05/2024(Xem: 1705)
Phần này ghi lại vài nhận xét về bản chữ quốc ngữ Sấm Truyền Ca và Lập Quốc Kinh, qua lăng kính của chữ quốc ngữ từ thời LM de Rhodes và các giáo sĩ Tây phương sang Á Đông truyền đạo. Đây là lần đầu tiên cách dùng này hiện diện trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh/Bồ (chữ quốc ngữ), điều này cho ta dữ kiện để xem lại một số cách đọc chính xác hơn cùng với các dạng chữ Nôm đồng thời. Rất tiếc là chưa tìm ra bản Nôm Sấm Truyền Ca hay Lập Quốc Kinh, do đó bài này phải dựa vào các dạng chữ quốc ngữ viết tay còn để lại. Tài liệu tham khảo chính của bài viết này là các tài liệu chép tay của LM Philiphê Bỉnh (sđd) và bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC)
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]