Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

24-Số mạng, nghiệp báo đồng hay khác?

28/01/201109:41(Xem: 8616)
24-Số mạng, nghiệp báo đồng hay khác?

BƯỚCÐẦU HỌC PHẬT

HòathượngThích Thanh Từ
PhậtLịch 2541-1998

Số mạng, nghiệp báo đồng hay khác?

Sự có mặt con ngườitrong thế gian này, trọn một đời từng trải qua những cuộc thành bại, thạnh suy,nhục vinh, vui khổ... dường như có sự an bài đâu sẵn. Cái gì an bài đời sốngcon người? Nhà Nho gọi là số mạng hay thiên mạng. Họ cho rằng con người sanh ramỗi mỗi đều do số định sẵn, hoặc trời sắp đặt cho. Như câu "nhân nguyệnnhư thử thiên lý vị nhiên" (người mong như thế, lẽ trời chưa vậy). Hoặcnói: "Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu." (Lưới trời lồng lộng,thưa mà chẳng lọt.) Chỉ do số trời đã định không ai thoát ra ngoài được. NhàPhật nói là nghiệp báo. Tất cả chúng sanh có mặt trong vũ trụ đều do nghiệptrước tạo nên, phải chịu quả báo hiện nay. Hai bên đều thừa nhận có cái sẵn từđời trước quyết định cho cuộc sống hiện tại. Vậy hai thuyết này đồng hay khác?

ÐỒNG

Ðứng về mặt sẵn có, haibên đều thừa nhận như nhau. Con người sanh ra không phải bỗng dưng mà có, đềumang sẵn cái quá khứ còn lưu lại. Vì thế, có kẻ sanh ra đã sẵn sàng cho mộtcuộc sống sang cả sung túc, có người sanh ra gặp lầm than nghiệt ngã. Tại họchọn lựa chăng? Hẳn là không. Tại sao có sự bất công tàn nhẫn ngay từ buổi đầunhư thế? Nho nói: "số trước đã định", Phật nói: "Nghiệp trướcgây nên." Cả hai đều thừa nhận có cái sẵn từ trước. Song một bên nói số,một bên nói nghiệp, không đồng nhau.

KHÁC

1. Nguyên nhân

Nói số định hay trờiđịnh cũng tương tợ. Số do ai đặt ra, hẳn là trời hay đấng thiêng liêng tốithượng nào đó. Ðã do trời định sẵn sự có mặt của ta; ta là công cụ của Ngài,trọn một đời ta phải hành động theo cái khuôn định sẵn ấy. Quả thật đời sốngcủa ta không có giá trị gì hết. Nếu số định cho ta vui thì ta được vui, số địnhcho ta khổ thì ta phải khổ. Ta khó bề thoát khỏi số phận ấy. Số hay trời địnhcho thân phận ta, mà thật tình ta không biết gì về cái tột cùng ấy hết. Thật làgởi gấm thân phận mình cho một cái viển vông mơ hồ.

Nói do nghiệp báo nên cómặt trên thế gian này để đền trả. Nghiệp từ đâu có? Nghiệp do những tâm tư hànhđộng của mình từ đời trước gây ra. Nếu đời trước hành động thiện nhiều thì đờinay ta sanh ra gặp hoàn cảnh tốt, mọi việc như ý. Nếu đời trước hành động ácthì đời này ta sanh ra trong hoàn cảnh xấu xa bất như ý. Thế là, hiện nay tasanh ra trong hoàn cảnh tốt hay xấu đều do hành động tốt xấu của ta đời trướcchiêu cảm. Ta là chủ nhân sắp đặt lấy cuộc sống hiện tại cho mình. Quyền tốithượng định đoạt là ở chúng ta, không ai khác. Kinh nhân quả nói: "Muốnbiết nhân đời trước, chỉ xem quả hiện tại đang thọ; muốn biết quả đời sau, chỉxem nhân gây tạo trong đời này." (Dục tri tiền thế nhân, kim sanh thọ giảthị; yếu tri hậu thế quả, kim sanh tác giả thị.)

2. Xuất phát

Mọi khổ vui của conngười do số định sẵn. Con người phải chấp nhận số phận của mình, gặp hoàn cảnhnào cam chịu trong hoàn cảnh ấy. Nếu người gặp cảnh khắc nghiệt quá, chịu khôngnổi, họ đâm ra oán trời trách đất. Họ cho rằng trời đất đã chơi xấu với họ, đàyải họ, xử nghiệt ngã với họ, họ sống trong oán trách hận phiền.

Khổ vui do nghiệp chúngta gây nên, dù gặp hoàn cảnh nào, chúng ta cũng can đảm nhận chịu, không thanthở oán trách ai. Mọi việc đều tại sự ngu khờ vụng dại của ta trước kia gây ra.Ta phải vui vẻ nhận chịu, chỉ cần khôn ngoan đừng tiếp tục sự ngu khờ như trướcnữa. Ta làm ta chịu, nhận lấy trọng trách của mình. Không ai để chúng ta vanxin, không ai để chúng ta oán trách. Can đảm nhận lấy trách nhiệm, vui vẻ đểtrả mối nợ tiền khiên.

3. Cảm thọ

Số đã định thì chúng tabất lực, làm sao đổi được số. Nhất là số trời còn ai dám can thiệp vào. Trời đãđịnh như vậy, chúng ta phải chịu như vậy. Người biết an phận, không dám tráilòng trời.

Nghiệp thì biến chuyển,bởi vì nghiệp do hành động mà có, khi xưa ta hành động theo ngu tối nên chiêucảm quả khổ, nay đổi lại ta hành động theo tâm hồn trong sáng thì quả khổ cũngsuy giảm. Như trước ta xử sự xấu với một người bạn, gây ra sự buồn phiền hờngiận, nay ta hối cải xử sự tốt với bạn, sự hờn giận trước dần dần suy giảm.Hành động luôn luôn thay đổi, nghiệp cũng theo đó mà đổi thay. Nói nghiệp khôngphải cái cố định cứng ngắc, mà chuyển biến linh động tùy thuộc tâm tư và hànhđộng con người. Vì thế, nếu trong hiện tại chúng ta cảm thọ cảnh vui hay khổ,biết do nghiệp lành hay dữ trước kia tạo nên. Nếu hiện nay chúng ta chuyển tâmniệm hành động thì sự cảm thọ cũng theo đó mà chuyển.

4. Hoán cải

Số mạng đã định thì làmsao đổi được. Cho nên nói số mạng đã định, con người đành bó tay cúi đầu nhậnlãnh, không ai có thể cưỡng được số. Con người hoàn toàn bất lực dưới mệnh lệnhcủa đấng tạo hóa đã định sẵn.

Nghiệp do mình tạo,chính mình có quyền thay đổi nghiệp xấu thành nghiệp tốt. Trước kia mình họcnghề trộm cắp, sau này mình học nghề thợ mộc thợ nề. Nghề nghiệp do sở thíchcủa mình học tập mà thành. Trước mình dại khờ thích việc làm không hay, saumình nhận thức được đổi thành nghề tốt. Nghề nghiệp đổi thay tùy theo tâm tỉnhgiác của mình, đổi sang nghề nghiệp mới thì nghề nghiệp cũ từ từ phai nhạt. Vìthế, nói nghiệp là sửa đổi, cố gắng tích cực chớ không có nghĩa cam chịu đầuhàng. Tuy nhiên, có thiểu số người học Phật mà thiếu nghị lực, không có ý chí,họ không vượt qua được những trở ngại của nghiệp cũ, đành cam bó tay đầu hàngrồi đổ thừa tại nghiệp của tôi. Như đồng thời ghiền rượu, đồng biết rõ tai hạicủa rượu, cùng hứa bỏ rượu, song anh A thì bỏ rượu được, anh B lại bỏ khôngđược. Vì anh A đủ nghị lực giàu ý chí, khi quyết định bỏ là can đảm bỏ, nênthắng trận. Anh B thì không có ý chí, thiếu nghị lực, tuy cũng muốn bỏ rượu màkhi bị cơn ghiền hành hạ không kham chịu, đành thua trận.

Nghiệp chuyển được, songđòi hỏi giàu ý chí, đủ nghị lực.

5. Ðịnh chế

Nói số mạng là do mộtđấng quyền lực tối cao, qui định hết mọi sanh hoạt của chúng sanh trên thế giannày. Chấp nhận số mạng là con người thừa nhận và cam đặt mình lệ thuộc vàoquyền lực đấng thiêng liêng ấy. Vì thế, số mạng phù hợp với thể chế quân chủphong kiến, con người bị một đấng quân vương chi phối toàn bộ cuộc đời.

Nói nghiệp là quyền năngtrong tay mình định đoạt. Cuộc sống đời này và đời sau do mình an bài lấy. Muốnan vui do mình, muốn đau khổ cũng do mình. Ta là chủ của mọi cuộc sống, nếu tacòn muốn tiếp tục. Không ai thay ta sắp đặt cuộc khổ vui, chỉ có ta mới là ngườiban vui cứu khổ cho ta. Ta phải sáng suốt gan dạ chọn lựa một cuộc sống đẹp đẽvui tươi trong hiện tại và mai sau. Tự ta vạch sẵn một lối sống cho ta, tự tatô điểm đời ta cho tươi sáng. Nếu có khổ đau đến với ta, ta hãy cười, vì đây làhành vi vụng dại ngày trước của mình. Chúng ta trả và chuyển những cái gì khônghay của quá khứ, đồng thời xây dựng những điều an vui hạnh phúc cho vị lai. Mọiquyền lực trong tay chúng ta, thật thỏa thích thay! Cuộc sống của chúng ta làcuộc sống tự do tự chủ. Cho nên, lý nghiệp báo thích ứng thể chế dân chủ tự docủa nhân loại hiện nay. Ta là chủ ta có quyền chọn lựa người thay ta lo việcnước việc dân.

PHÊ BÌNH

Nói số mạng là mơ hồkhông xác thực. Nghiệp báo là thực tế rõ ràng. Thuyết số mạng đưa con người đếnchỗ vô trách nhiệm về hành động của mình. Nghiệp báo dạy người nhận lấy tráchnhiệm do mọi hậu quả tốt xấu đến với mình. Số mạng khiến con người thụ động,tiêu cực, phó thác, liều lĩnh. Nghiệp báo xây dựng con người chủ động, tíchcực, nỗ lực và sáng tạo. Số mạng tập con người yếu đuối, an phận, đầu hàng.Nghiệp báo chỉ cho ta phải cố gắng, can đảm và thăng tiến. Số mạng thích hợpvới thời quân chủ phong kiến. Nghiệp báo thích hợp với thời dân chủ tự do. Ứngdụng thuyết nghiệp báo trong cuộc sống, chúng ta thấy mình đồ sộ hiên ngang,đầy đủ quyền năng trong công cuộc kiến tạo con người và vũ trụ.

NGHIỆP BÁO KHÔNG THẬT

Tuy thuyết nghiệp báothực tế, chủ động, tích cực...Song cuối cùng nhà Phật nói nó không thật. Bởi vìnghiệp do hành động tạo tác của con người. Hành động là tướng sanh diệt, cái gìsanh diệt nhà Phật đều cho là hư dối. Trong bài Chứng Ðạo Ca của Thiền sư HuyềnGiác có hai câu "liễu tức nghiệp chướng bản lai không, vị liễu ưng tu hoàntúc trái" (liễu ngộ tức nghiệp chướng xưa nay không, chưa liễu ngộ cầnphải đền nợ trước). Có thiền khách hỏi Thiền sư Cảnh Sầm ở Trường Sa: Tổ Sư Tửliễu chưa mà bị vua nước Kế-tân chặt đầu? Tổ Huệ Khả liễu chưa mà bị chết trongkhám? Thiền sư Cảnh Sầm đáp: Ðại đức chưa hiểu nghĩa nghiệp chướng. Thiền kháchhỏi: Thế nào là nghiệp chướng? Thiền sư Cảnh Sầm đáp: Bản lai không. Qua câuchuyện này, đa số người không hiểu gì cả. Sự thật là vầy, sau khi liễu ngộ PhậtTổ thấy các pháp duyên hợp hư dối. Thân này là pháp duyên hợp nên hư dối. Hànhđộng tạo tác từ thân phát xuất lại càng hư dối hơn. Hành động đã hư dối thìnghiệp do hành động tạo thành làm sao thật được. Bởi thấy nghiệp hư dối nên xemthường không quan trọng, có đến cũng như trò chơi, có gì phải kinh hoảng sợhãi. Cho nên khi vua nước Kế-tân muốn hại Tổ Sư Tử, cầm dao đến trước Tổ hỏi:Ngài thấy thân năm uẩn đều không, phải chăng? Tổ đáp: Phải. Vua nói: Ngài chotôi cái đầu được không? Tổ đáp: Năm uẩn đã không, sá gì cái đầu. Vua chặt đầuNgài.

Qua mắt chúng ta, thấyđó là trả nghiệp, đáng sợ, song với Tổ đã không thấy thật, nói gì là trả. Cũngnhư ông A khi chưa hiểu đạo, bị ông B làm vài hành động không vừa lòng, ôngliền mắng chửi ông B. Thời gian sau, ông A hiểu đạo, đúng lúc ông B trả thùmắng chửi thậm tệ hơn trước. Song ông A thấy lời nói không thật, không có gìquan trọng, nên vẫn tươi cười không buồn, không đổi nét mặt. Như thế ông A cótrả nợ trước hay không trả nợ trước? Thật sự, nợ đã vay thì phải trả, chỉ khácở chỗ mê thì thấy thật, ngộ thì thấy không thật. Ðã không thật thì trả cũng nhưkhông trả. Vì thế, nói "liễu tức nghiệp chướng bản lai không". Cứukính thấy nghiệp báo không thật, quả là thấu tột bản chất của nghiệp báo. Tuykhông thật mà chẳng mất, đây là bí yếu của đạo Phật.











Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
14/12/2022(Xem: 2161)
Đạo đức và Luân lý chẳng những là nền tảng của mọi tôn giáo, mà còn là nền tảng của mọi xã hội loài người. Một xã hội sẽ không hoạt động hoặc phát triển nếu không có Đạo đức và Luân lý; nó sẽ không chịu nổi sự hỗn loạn và bạo lực. Đạo đức và Luân lý cũng đóng vai trò là hệ thống giá trị mà từ đó luật pháp và công lý được hình thành, cùng với các định nghĩa của chúng ta về đúng và sai. Một hệ thống Đạo đức và Luân lý không chỉ tạo ra hòa bình và trật tự trên thế giới này, nó còn cung cấp một mục đích trong cuộc sống. Sống có Đạo đức và Luân lý cho chúng ta cảm giác thành một ơn gọi cao hơn có thể mang bản chất tâm linh, cho phép chúng ta trải nghiệm sự siêu việt vượt qua những cám dỗ vật chất trần tục.
02/11/2022(Xem: 18655)
Đức Phật thuyết giảng giáo nghĩa Đại thừa vì tám lý do, được nêu lên ở trong bài kệ của Đại thừa trang nghiêm kinh luận: "Bất ký diệc đồng hành Bất hành diệc thành tựu Thể, phi thể, năng trị Văn dị bát nhân thành". Bài kệ này nêu lên tám lý do, tám bằng chứng kinh điển Đại thừa là do đức Phật nói chứ không phải là ai khác. Hàng Thanh văn không đủ khả năng để nói đến kinh điển Đại thừa. Hàng Duyên giác không có khả năng để nói đến kinh điển Đại thừa. Bồ tát cũng chưa đủ sự toàn giác để nói kinh điển Đại thừa. Còn đối với ngoại đạo thì đương nhiên không thể nói được một từ nào ở trong kinh điển Đại thừa. Có nhiều vị cố chấp, thiên kiến nói rằng kinh điển Đại thừa do ngoại đạo tuyên thuyết; nói như vậy là hồ đồ, không có luận cứ. Tu tập đến cỡ như hàng Thanh văn, hàng Duyên giác mà còn không nói được kinh điển Đại thừa thì làm gì cái đám ngoại đạo chấp ngã, chấp trước, chấp danh, chấp lợi mà nói được kinh điển Đại thừa. Cho nên nói kinh điển Đại thừa do ngoại đạo nói, đó
02/11/2022(Xem: 14275)
Bấy giờ, tôi khoảng chín tuổi, một hôm đi xem đưa đám tang ông Võ Hờ trong xóm, thấy mọi người đi sau đám tang đều khóc nức nở và tức tối. Thấy họ khóc, tôi cũng khóc, nhưng bấy giờ tôi không biết tại sao tôi lại khóc như vậy.
31/10/2022(Xem: 12547)
SOTAPATTI, quả vị Dự lưu, là cấp bậc đầu tiên trong bốn cấp bậc giác ngộ được đề cập trong Phật giáo Sơ kỳ. Tên gọi của quả vị nầy là từ ý nghĩa của một hành giả nhập vào dòng chảy không thối chuyển (sotāpanna, thánh Dự lưu) đưa đến giải thoát hoàn toàn. Dòng chảy nầy chính là đường thánh tám chi (Bát chi Thánh đạo, SN 55:5, kinh Sāriputta), là dòng sông hướng đến Niết-bàn cũng giống như sông Hằng chảy ra biển cả (SN 45:91, kinh Phương đông). Thời gian cần thiết để dòng sông nầy tiến đến mục tiêu tối hậu là tối đa bảy kiếp sống, không kiếp nào tái sinh trong cõi giới thấp hơn cõi người (SN 55:8, kinh Giảng đường bằng gạch).
29/10/2022(Xem: 6720)
Nhận tin nhắn trễ trên Viber sau khi đã ra khỏi nhà, và mãi đến trưa con mới trở về nên con chỉ nghe lại bài phỏng vấn này do TT Thích Nguyên Tạng có nhã ý cho chúng đệ tử học hỏi thêm giáo lý Phật Pháp trước khi Ngài trở về trú xứ Hoa Kỳ sau 3 tuần tham dự Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư và Lễ Mừng 32 năm Khai Sơn Tu Viện Quảng Đức, vào trước giờ có pháp thoại của Tổng Vụ Hoằng Pháp và Giáo Dục của Giáo Hội Úc Châu cùng ngày. Tuy nhiên với sự ngưỡng mộ của con đối với bậc cao tăng trí tuệ viên minh, diệu huyền thông đạt như Ngài, mà những lời Ngài trình bày qua những kinh nghiệm tu chứng hành trì, hạnh giải tương ưng thu thập được trong suốt hơn 46 năm qua đã khiến con phấn chấn tu tập hơn, hầu đạt được mục đích tối cao mà Đức Phật đã truyền trao nên con đã nghe lại đôi lần vào hôm nay để có thể uống được cam lồ qua những lời đáp trao đổi Phật Pháp. Thành kính tri ân TT Thích Nguyên Tạng và HT Thích Đồng Trí và kính xin phép cho con chia sẻ lại những gì con đã học được.
13/07/2022(Xem: 8832)
Phải nói là khi nhận được tin TT Giảng Sư Thích Nguyên Tạng sẽ có bài pháp thoại giảng tại Thiền Lâm Pháp Bảo hôm nay (12/7/2022) lại vừa nghe tin tức mưa lớn và lụt tràn về Sydney mấy ngày qua, thế mà khi nhìn vào màn ảnh livestream lại thấy khuôn viên thiền môn trang nghiêm thanh tịnh quá, dường như thời tiết khí hậu chẳng hề lay động đến nơi chốn này, nơi đang tập trung những người con cầu tiến muốn hướng về một mục đích mà Đức Phật hằng mong chúng ta đạt đến : Vô Sanh để thoát khỏi vòng sinh tử .
15/06/2022(Xem: 7846)
Tôi thật chưa tìm ra cuốn nào như cuốn này, tác giả viết từ những năm 50s, hữu duyên được dịch ra tiếng Việt vào những năm 80s… Tìm lại được bản thảo sau khoảng 33 năm (2021). Tốn thêm một năm hiệu đính trên đường ta bà, gọt dũa lại.
17/11/2021(Xem: 20353)
Nghiệp, phổ thông được hiểu là quy luật nhân quả. Nhân quả cũng chỉ là mối quan hệ về tồn tại và tác dụng của các hiện tượng tâm và vật trong phạm vi thường nghiệm. Lý tính của tất cả mọi tồn tại được Phật chỉ điểm là lý tính duyên khởi.266F[1] Lý tính duyên khởi được nhận thức trên hai trình độ khác nhau. Trong trình độ thông tục của nhận thức thường nghiệm, quan hệ duyên khởi là quan hệ nhân quả. Chân lý của thực tại trong trình độ này được gọi là tục đế, nó có tính quy ước, lệ thuộc mô hình cấu trúc của các căn hay quan năng nhận thức. Nhận thức về sự vật và môi trường chung quanh chắc chắn loài người không giống loài vật. Trong loài người, bối cảnh thiên nhiên và xã hội tạo thành những truyền thống tư duy khác nhau, rồi những dị biệt này dẫn đến chiến tranh tôn giáo.
14/11/2021(Xem: 16755)
Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại xứ Sāvatthi, gần đến ngày an cư nhập hạ suốt ba tháng trong mùa mưa, chư Tỳ khưu từ mọi nơi đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, xin Ngài truyền dạy đề mục thiền định, đối tượng thiền tuệ thích hợp với bản tánh của mỗi Tỳ khưu. Khi ấy, có nhóm năm trăm (500) Tỳ khưu, sau khi thọ giáo đề mục thiền định xong, dẫn nhau đến khu rừng núi thuộc dãy núi Himavantu, nơi ấy có cây cối xanh tươi, có nguồn nước trong lành, không gần cũng không xa xóm làng, chư Tỳ khưu ấy nghỉ đêm tại đó. Sáng hôm sau, chư Tỳ khưu ấy dẫn nhau vào xóm làng để khất thực, dân chúng vùng này khoảng một ngàn (1.000) gia đình, khi nhìn thấy đông đảo chư Tỳ khưu, họ vô cùng hoan hỉ, bởi vì những gia đình sống nơi vùng hẻo lánh này khó thấy, khó gặp được chư Tỳ khưu. Họ hoan hỉ làm phước, dâng cúng vật thực đến chư Tỳ khưu xong, bèn bạch rằng: – Kính bạch chư Đại Đức Tăng, tất cả chúng con kính thỉnh quý Ngài an cư nhập hạ suốt ba tháng mùa mưa tại nơi vùng này, để cho tất cả chúng con có
08/11/2021(Xem: 11800)
Đây chỉ là chiếc thuyền nan, chưa tới bờ bên kia, vẫn còn đầy ảo tưởng chèo ra biển cả. Thân con kiến, chưa gột sạch đất cát, bò dưới chân Hy Mã Lạp Sơn, nghe tiếng vỗ của một bàn tay trên đỉnh cao. Chúng sinh mù, nếm nước biển, ngỡ bát canh riêu cá, Thế gian cháy, mải vui chơi, quên cảnh trí đại viên. Nắm vạt áo vàng tưởng như nắm lấy diệu quang, bay lên muôn cõi, theo tiếng nhạc Càn Thát Bà réo gọi về Tịnh Độ, ngửi mùi trầm Hương Tích, an thần phóng thoát. Con bướm mơ trăng Cực Lạc, con cá ngụp lặn dưới nước đuôi vàng như áo cà sa quẫy trong bể khổ, chờ thiên thủ thiên nhãn nghe tiếng sóng trầm luân vớt lên cõi Thanh văn Duyên giác. Những trang sách còn sở tri chướng của kẻ sĩ loanh quanh thềm chùa Tiêu Sơn tìm bóng Vạn Hạnh, mơ tiên Long Giáng lào xào bàn tay chú tiểu Lan trên đồi sắn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567