Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

24-Số mạng, nghiệp báo đồng hay khác?

28/01/201109:41(Xem: 8631)
24-Số mạng, nghiệp báo đồng hay khác?

BƯỚCÐẦU HỌC PHẬT

HòathượngThích Thanh Từ
PhậtLịch 2541-1998

Số mạng, nghiệp báo đồng hay khác?

Sự có mặt con ngườitrong thế gian này, trọn một đời từng trải qua những cuộc thành bại, thạnh suy,nhục vinh, vui khổ... dường như có sự an bài đâu sẵn. Cái gì an bài đời sốngcon người? Nhà Nho gọi là số mạng hay thiên mạng. Họ cho rằng con người sanh ramỗi mỗi đều do số định sẵn, hoặc trời sắp đặt cho. Như câu "nhân nguyệnnhư thử thiên lý vị nhiên" (người mong như thế, lẽ trời chưa vậy). Hoặcnói: "Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu." (Lưới trời lồng lộng,thưa mà chẳng lọt.) Chỉ do số trời đã định không ai thoát ra ngoài được. NhàPhật nói là nghiệp báo. Tất cả chúng sanh có mặt trong vũ trụ đều do nghiệptrước tạo nên, phải chịu quả báo hiện nay. Hai bên đều thừa nhận có cái sẵn từđời trước quyết định cho cuộc sống hiện tại. Vậy hai thuyết này đồng hay khác?

ÐỒNG

Ðứng về mặt sẵn có, haibên đều thừa nhận như nhau. Con người sanh ra không phải bỗng dưng mà có, đềumang sẵn cái quá khứ còn lưu lại. Vì thế, có kẻ sanh ra đã sẵn sàng cho mộtcuộc sống sang cả sung túc, có người sanh ra gặp lầm than nghiệt ngã. Tại họchọn lựa chăng? Hẳn là không. Tại sao có sự bất công tàn nhẫn ngay từ buổi đầunhư thế? Nho nói: "số trước đã định", Phật nói: "Nghiệp trướcgây nên." Cả hai đều thừa nhận có cái sẵn từ trước. Song một bên nói số,một bên nói nghiệp, không đồng nhau.

KHÁC

1. Nguyên nhân

Nói số định hay trờiđịnh cũng tương tợ. Số do ai đặt ra, hẳn là trời hay đấng thiêng liêng tốithượng nào đó. Ðã do trời định sẵn sự có mặt của ta; ta là công cụ của Ngài,trọn một đời ta phải hành động theo cái khuôn định sẵn ấy. Quả thật đời sốngcủa ta không có giá trị gì hết. Nếu số định cho ta vui thì ta được vui, số địnhcho ta khổ thì ta phải khổ. Ta khó bề thoát khỏi số phận ấy. Số hay trời địnhcho thân phận ta, mà thật tình ta không biết gì về cái tột cùng ấy hết. Thật làgởi gấm thân phận mình cho một cái viển vông mơ hồ.

Nói do nghiệp báo nên cómặt trên thế gian này để đền trả. Nghiệp từ đâu có? Nghiệp do những tâm tư hànhđộng của mình từ đời trước gây ra. Nếu đời trước hành động thiện nhiều thì đờinay ta sanh ra gặp hoàn cảnh tốt, mọi việc như ý. Nếu đời trước hành động ácthì đời này ta sanh ra trong hoàn cảnh xấu xa bất như ý. Thế là, hiện nay tasanh ra trong hoàn cảnh tốt hay xấu đều do hành động tốt xấu của ta đời trướcchiêu cảm. Ta là chủ nhân sắp đặt lấy cuộc sống hiện tại cho mình. Quyền tốithượng định đoạt là ở chúng ta, không ai khác. Kinh nhân quả nói: "Muốnbiết nhân đời trước, chỉ xem quả hiện tại đang thọ; muốn biết quả đời sau, chỉxem nhân gây tạo trong đời này." (Dục tri tiền thế nhân, kim sanh thọ giảthị; yếu tri hậu thế quả, kim sanh tác giả thị.)

2. Xuất phát

Mọi khổ vui của conngười do số định sẵn. Con người phải chấp nhận số phận của mình, gặp hoàn cảnhnào cam chịu trong hoàn cảnh ấy. Nếu người gặp cảnh khắc nghiệt quá, chịu khôngnổi, họ đâm ra oán trời trách đất. Họ cho rằng trời đất đã chơi xấu với họ, đàyải họ, xử nghiệt ngã với họ, họ sống trong oán trách hận phiền.

Khổ vui do nghiệp chúngta gây nên, dù gặp hoàn cảnh nào, chúng ta cũng can đảm nhận chịu, không thanthở oán trách ai. Mọi việc đều tại sự ngu khờ vụng dại của ta trước kia gây ra.Ta phải vui vẻ nhận chịu, chỉ cần khôn ngoan đừng tiếp tục sự ngu khờ như trướcnữa. Ta làm ta chịu, nhận lấy trọng trách của mình. Không ai để chúng ta vanxin, không ai để chúng ta oán trách. Can đảm nhận lấy trách nhiệm, vui vẻ đểtrả mối nợ tiền khiên.

3. Cảm thọ

Số đã định thì chúng tabất lực, làm sao đổi được số. Nhất là số trời còn ai dám can thiệp vào. Trời đãđịnh như vậy, chúng ta phải chịu như vậy. Người biết an phận, không dám tráilòng trời.

Nghiệp thì biến chuyển,bởi vì nghiệp do hành động mà có, khi xưa ta hành động theo ngu tối nên chiêucảm quả khổ, nay đổi lại ta hành động theo tâm hồn trong sáng thì quả khổ cũngsuy giảm. Như trước ta xử sự xấu với một người bạn, gây ra sự buồn phiền hờngiận, nay ta hối cải xử sự tốt với bạn, sự hờn giận trước dần dần suy giảm.Hành động luôn luôn thay đổi, nghiệp cũng theo đó mà đổi thay. Nói nghiệp khôngphải cái cố định cứng ngắc, mà chuyển biến linh động tùy thuộc tâm tư và hànhđộng con người. Vì thế, nếu trong hiện tại chúng ta cảm thọ cảnh vui hay khổ,biết do nghiệp lành hay dữ trước kia tạo nên. Nếu hiện nay chúng ta chuyển tâmniệm hành động thì sự cảm thọ cũng theo đó mà chuyển.

4. Hoán cải

Số mạng đã định thì làmsao đổi được. Cho nên nói số mạng đã định, con người đành bó tay cúi đầu nhậnlãnh, không ai có thể cưỡng được số. Con người hoàn toàn bất lực dưới mệnh lệnhcủa đấng tạo hóa đã định sẵn.

Nghiệp do mình tạo,chính mình có quyền thay đổi nghiệp xấu thành nghiệp tốt. Trước kia mình họcnghề trộm cắp, sau này mình học nghề thợ mộc thợ nề. Nghề nghiệp do sở thíchcủa mình học tập mà thành. Trước mình dại khờ thích việc làm không hay, saumình nhận thức được đổi thành nghề tốt. Nghề nghiệp đổi thay tùy theo tâm tỉnhgiác của mình, đổi sang nghề nghiệp mới thì nghề nghiệp cũ từ từ phai nhạt. Vìthế, nói nghiệp là sửa đổi, cố gắng tích cực chớ không có nghĩa cam chịu đầuhàng. Tuy nhiên, có thiểu số người học Phật mà thiếu nghị lực, không có ý chí,họ không vượt qua được những trở ngại của nghiệp cũ, đành cam bó tay đầu hàngrồi đổ thừa tại nghiệp của tôi. Như đồng thời ghiền rượu, đồng biết rõ tai hạicủa rượu, cùng hứa bỏ rượu, song anh A thì bỏ rượu được, anh B lại bỏ khôngđược. Vì anh A đủ nghị lực giàu ý chí, khi quyết định bỏ là can đảm bỏ, nênthắng trận. Anh B thì không có ý chí, thiếu nghị lực, tuy cũng muốn bỏ rượu màkhi bị cơn ghiền hành hạ không kham chịu, đành thua trận.

Nghiệp chuyển được, songđòi hỏi giàu ý chí, đủ nghị lực.

5. Ðịnh chế

Nói số mạng là do mộtđấng quyền lực tối cao, qui định hết mọi sanh hoạt của chúng sanh trên thế giannày. Chấp nhận số mạng là con người thừa nhận và cam đặt mình lệ thuộc vàoquyền lực đấng thiêng liêng ấy. Vì thế, số mạng phù hợp với thể chế quân chủphong kiến, con người bị một đấng quân vương chi phối toàn bộ cuộc đời.

Nói nghiệp là quyền năngtrong tay mình định đoạt. Cuộc sống đời này và đời sau do mình an bài lấy. Muốnan vui do mình, muốn đau khổ cũng do mình. Ta là chủ của mọi cuộc sống, nếu tacòn muốn tiếp tục. Không ai thay ta sắp đặt cuộc khổ vui, chỉ có ta mới là ngườiban vui cứu khổ cho ta. Ta phải sáng suốt gan dạ chọn lựa một cuộc sống đẹp đẽvui tươi trong hiện tại và mai sau. Tự ta vạch sẵn một lối sống cho ta, tự tatô điểm đời ta cho tươi sáng. Nếu có khổ đau đến với ta, ta hãy cười, vì đây làhành vi vụng dại ngày trước của mình. Chúng ta trả và chuyển những cái gì khônghay của quá khứ, đồng thời xây dựng những điều an vui hạnh phúc cho vị lai. Mọiquyền lực trong tay chúng ta, thật thỏa thích thay! Cuộc sống của chúng ta làcuộc sống tự do tự chủ. Cho nên, lý nghiệp báo thích ứng thể chế dân chủ tự docủa nhân loại hiện nay. Ta là chủ ta có quyền chọn lựa người thay ta lo việcnước việc dân.

PHÊ BÌNH

Nói số mạng là mơ hồkhông xác thực. Nghiệp báo là thực tế rõ ràng. Thuyết số mạng đưa con người đếnchỗ vô trách nhiệm về hành động của mình. Nghiệp báo dạy người nhận lấy tráchnhiệm do mọi hậu quả tốt xấu đến với mình. Số mạng khiến con người thụ động,tiêu cực, phó thác, liều lĩnh. Nghiệp báo xây dựng con người chủ động, tíchcực, nỗ lực và sáng tạo. Số mạng tập con người yếu đuối, an phận, đầu hàng.Nghiệp báo chỉ cho ta phải cố gắng, can đảm và thăng tiến. Số mạng thích hợpvới thời quân chủ phong kiến. Nghiệp báo thích hợp với thời dân chủ tự do. Ứngdụng thuyết nghiệp báo trong cuộc sống, chúng ta thấy mình đồ sộ hiên ngang,đầy đủ quyền năng trong công cuộc kiến tạo con người và vũ trụ.

NGHIỆP BÁO KHÔNG THẬT

Tuy thuyết nghiệp báothực tế, chủ động, tích cực...Song cuối cùng nhà Phật nói nó không thật. Bởi vìnghiệp do hành động tạo tác của con người. Hành động là tướng sanh diệt, cái gìsanh diệt nhà Phật đều cho là hư dối. Trong bài Chứng Ðạo Ca của Thiền sư HuyềnGiác có hai câu "liễu tức nghiệp chướng bản lai không, vị liễu ưng tu hoàntúc trái" (liễu ngộ tức nghiệp chướng xưa nay không, chưa liễu ngộ cầnphải đền nợ trước). Có thiền khách hỏi Thiền sư Cảnh Sầm ở Trường Sa: Tổ Sư Tửliễu chưa mà bị vua nước Kế-tân chặt đầu? Tổ Huệ Khả liễu chưa mà bị chết trongkhám? Thiền sư Cảnh Sầm đáp: Ðại đức chưa hiểu nghĩa nghiệp chướng. Thiền kháchhỏi: Thế nào là nghiệp chướng? Thiền sư Cảnh Sầm đáp: Bản lai không. Qua câuchuyện này, đa số người không hiểu gì cả. Sự thật là vầy, sau khi liễu ngộ PhậtTổ thấy các pháp duyên hợp hư dối. Thân này là pháp duyên hợp nên hư dối. Hànhđộng tạo tác từ thân phát xuất lại càng hư dối hơn. Hành động đã hư dối thìnghiệp do hành động tạo thành làm sao thật được. Bởi thấy nghiệp hư dối nên xemthường không quan trọng, có đến cũng như trò chơi, có gì phải kinh hoảng sợhãi. Cho nên khi vua nước Kế-tân muốn hại Tổ Sư Tử, cầm dao đến trước Tổ hỏi:Ngài thấy thân năm uẩn đều không, phải chăng? Tổ đáp: Phải. Vua nói: Ngài chotôi cái đầu được không? Tổ đáp: Năm uẩn đã không, sá gì cái đầu. Vua chặt đầuNgài.

Qua mắt chúng ta, thấyđó là trả nghiệp, đáng sợ, song với Tổ đã không thấy thật, nói gì là trả. Cũngnhư ông A khi chưa hiểu đạo, bị ông B làm vài hành động không vừa lòng, ôngliền mắng chửi ông B. Thời gian sau, ông A hiểu đạo, đúng lúc ông B trả thùmắng chửi thậm tệ hơn trước. Song ông A thấy lời nói không thật, không có gìquan trọng, nên vẫn tươi cười không buồn, không đổi nét mặt. Như thế ông A cótrả nợ trước hay không trả nợ trước? Thật sự, nợ đã vay thì phải trả, chỉ khácở chỗ mê thì thấy thật, ngộ thì thấy không thật. Ðã không thật thì trả cũng nhưkhông trả. Vì thế, nói "liễu tức nghiệp chướng bản lai không". Cứukính thấy nghiệp báo không thật, quả là thấu tột bản chất của nghiệp báo. Tuykhông thật mà chẳng mất, đây là bí yếu của đạo Phật.











Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
30/04/2024(Xem: 642)
Những lời trích dẫn trên đây thật đanh thép và minh bạch, chữ vu khống trong câu trích dẫn trên đây trong bản gốc bằng tiếng Pali là chữ abbhācikkhanti (abhi + ā + cikkh + a), các tự điển tiếng Anh dịch chữ này là accusation, calumny, slander…, có nghĩa là kết án, phỉ báng, vu khống…. Thế nhưng trong khi viết lách hay thuyết giảng đôi khi chúng ta không nghĩ đến những lời cảnh giác trên đây của Đức Phật. Sau hơn hai mươi lăm thế kỷ quảng bá, xuyên qua nhiều vùng địa lý, hòa mình với nhiều nền văn minh và văn hóa khác nhau, nền Tư tưởng và Giáo huấn của Đức Phật đã phải trải qua nhiều thử thách, thích ứng với nhiều dân tộc, do đó thật khó tránh khỏi ít nhiều biến dạng và thêm thắt. Thế nhưng thực tế cho thấy trong suốt cuộc hành trình kỳ thú và vĩ đại đó – nếu có thể nói như vậy – nền Tư tưởng và Giáo huấn đó của Đức Phật vẫn đứng vững và đã góp phần không nhỏ trong công trình cải thiện xã hội, nâng cao trình độ văn hóa, tư tưởng và mang lại ít nhất là một chút gì đó lý tưởng hơn, cao đ
30/04/2024(Xem: 421)
Con người thường hay thắc mắc tại sao mình có mặt ở cõi giới Ta Bà này để chịu khổ triền miên. Câu trả lời thường được nghe là: Để trả nghiệp. Nhưng nghiệp là gì? Và làm sao để thoát khỏi? Then chốt cho câu trả lời được gói ghém trong 2 câu: “Ái bất trọng, bất sanh Ta Bà Niệm bất nhất, bất sanh Tịnh Độ” Có nghĩa là: “Nghiệp ái luyến không nặng, sẽ không tái sanh ở cõi Ta Bà Niệm Phật không nhất tâm, sẽ không vãng sanh về Tịnh Độ”
18/02/2024(Xem: 1466)
Bát Chánh Đạo là con đường thánh có tám chi nhánh: Chánh Tri Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm và Chánh Định. Đây là con đường trung đạo, là lộ trình kỳ diệu giúp cho bất kể ai hân hoan, tín thọ, pháp thọ trong việc ứng dụng, thời có thể chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an lạc, giải thoát, niết bàn. Bát Chánh Đạo là Chơn Pháp vi diệu, là con đường đưa đến khổ diệt, vượt thời gian, thiết thực trong hiện tại, được chư Phật quá khứ, Đức Phật hiện tại và chư Phật tương lai chứng ngộ, cung kính, tán thán và thuyết giảng cho bốn chúng đệ tử, cho loài người, loài trời để họ khai ngộ, đến để mà thấy, và tự mình giác hiểu.
07/02/2024(Xem: 2698)
Từ 1983 đến 1985 khi đang ở Singapore, bận bịu với chương trình nghiên cứu Phật giáo tại Viện Phát triển Giáo Trình, tôi được Tu viện Phật giáo Srilankaramaya và một số đạo hữu mời giảng bốn loạt bài pháp nói về một vài tông phái chính của Phật giáo. Các bài giảng được ưa thích, và nhờ các cố gắng của Ô. Yeo Eng Chen và một số bạn khác, chúng đã được ghi âm, chép tay và in ấn để phát miễn phí cho các học viên. Kể từ đó, các bài pháp khởi đi từ hình thức của các tập rời được ngưỡng mộ và cũng được tái bản. Sau đó, tôi nhận thấy có vẻ hay hơn nếu in ấn bốn phần ấy thành một quyển hợp nhất, và với vài lần nhuận sắc, xuất bản chúng để cho công chúng dùng chung.
20/01/2024(Xem: 1207)
Thông thường người ta vào học Phật ít nhiều cũng do có động lực gì thúc đẩy hoặc bởi thân quyến qua đời, hoặc làm ăn thất bại, hoặc hôn nhân dở dang v.v... nhưng cũng không ít người nhân nghe giảng pháp hay gặp một quyển sách khế hợp căn cơ liền phát tâm tu hành hay tìm hiểu học Phật pháp. Phần lớn đệ tử xuất gia hoặc tại gia của Hòa Thượng cũng vì cảm mộ pháp giải của Ngài mà quy y Phật. Quyển vấn đáp này góp nhặt từ những buổi giảng thuyết trong các chuyến hoằng pháp của Hòa Thượng, hy vọng cũng không ngoài mục đích trên, là dẫn dắt người có duyên vào đạo hầu tự sửa đổi lỗi lầm mà giảm trừ tội nghiệp.
20/01/2024(Xem: 1279)
Năm xưa khi Phật thuyết kinh, hoàn toàn dùng khẩu ngữ vì bấy giờ nhân loại chưa có chữ viết (xứ Ấn). Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử Phật mới kết tập laị những gì Phật dạy để lưu truyền cho đời sau. Đạo Phật dần dần truyền sang các xứ khác, truyền đến đâu thì kinh điển cũng được phiên dịch sang ngôn ngữ của xứ ấy. Lúc ban đầu kinh Phật được ghi chép bằng tiếng Phạn ( Sancrit, Pali ) sau đó thì dịch sang tiếng: Sinhale, Pakistan, Afghanistan, tiếng Tàu, Thái, Nhật, Hàn, Việt… và sau nữa là tiếng Pháp, Anh, Tây Ban Nha…
20/12/2023(Xem: 1816)
Tiến sĩ Bạch Xuân Phẻ (Bạch X. Khỏe) định cư ở Hoa Kỳ từ năm 1991, hiện đang giảng dạy Hóa học và Hóa học danh dự cho Trường trung học Mira Loma tại thủ phủ Sacramento, CA. Ông quy y với Thiền sư Trừng Quang Thích Nhất Hạnh, có Pháp danh là Tâm Thường Định. Ông đã và đang giảng dạy về Lãnh đạo chánh niệm và phương thức mang chánh niệm vào học đường ở bang California từ năm 2014. Tiến sỹ Bạch cũng giảng dạy cho chương trình huấn luyện giáo viên. Ngoài ra, ông còn tham gia nhiều công việc xã hội trong cộng đồng. Tháng Ba 2023, TS Bạch Xuân Phẻ được Hiệp hội Giáo viên California (California Teachers Association) vinh danh vì những đóng góp giáo dục thực hành chánh niệm của ông. TS Bạch Xuân Phẻ cũng được trao Giải thưởng Nhân quyền người Mỹ gốc Á Thái Bình Dương năm 2023 của bang California (Human Right Awards).
19/12/2023(Xem: 5110)
Cách đây chừng 30 năm, Tổ Đình Viên Giác tại Hannover Đức Quốc chúng tôi có nhận được bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daizokyou) bằng Hán Văn gồm 100 tập do cố Hòa Thượng Thích Tịnh Hạnh từ Đài Loan giới thiệu để được tặng. Bộ Đại Tạng Kinh giá trị này do Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội xuất bản và gửi tặng đến các nơi có duyên. Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội dưới sự chứng minh và lãnh đạo tinh thần của cố Hòa Thượng Thích Tịnh Không đã làm được không biết bao nhiêu công đức truyền tải giáo lý Phật Đà qua việc xuất bản kinh điển và sách vở về Phật Giáo, với hình thức ấn tống bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau như: Hoa Ngữ, Anh Ngữ, Pháp Ngữ, Đức Ngữ, Việt Ngữ. Nhờ đó tôi có cơ hội để tham cứu Kinh điển rất thuận tiện.
13/12/2023(Xem: 11242)
Hành Thiền, một nếp sống lành mạnh trong sáng, một phương pháp giáo dục hướng thượng (Sách pdf của HT Thích Minh Châu)
12/12/2023(Xem: 5613)
Chánh Pháp và Hạnh Phúc (Sách pdf của HT Thích Minh Châu)
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567