Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

13-Nghiệp báo

28/01/201109:41(Xem: 7451)
13-Nghiệp báo

BƯỚCÐẦU HỌC PHẬT
HòathượngThích Thanh Từ
PhậtLịch 2541-1998

Nghiệpbáo

I.-MỞÐỀ

Mọiviệckhổ vui trong kiếp hiện tại của chúng ta đều do nghiệpquá khứ và hiện tại chi phối. Nghiệp lành thì được vui,nghiệp ác thì chịu khổ, chúng ta chỉ biết sợ khổ, cầuvui mà không biết tránh nghiệp ác, tạo nghiệp lành. Thếchẳng khác nào kẻ sợ bóng mà cứ đứng ngoài trời nắng,muốn nghe nhạc mà bịt lỗ tai. Một khi nghiệp quả đến,chúng ta dù muốn dù không, tất nhiên cũng phải chịu. Bởinó là kết quả do hành động của chính mình đã tạo. Mìnhlàm, rồi mình chịu, đó là lẽ công bằng hợp lý của kiếpngười.

II.-ÐỊNH NGHĨA

Nghiệpbáo nói đủ là nghiệp quả báo ứng. Bởi vì nghiệp nhânchúng ta đã gây thì nghiệp quả phải đến. Sự báo đápthù ứng cân xứng nhau giữa nghiệp nhân và nghiệp quả. Trướctiên chúng ta cần biết chữ nghiệp.

a)Nghiệp: là dịch nghĩa chữ Karma tiếng Phạn, chỉ hành độngtạo tác theo thói quen của mỗi người. Nghiệp có nghiệpthiện, nghiệp ác, định nghiệp, bất định nghiệp... Nghiệpthiện là hành động lành đem lại sự an lạc cho chúng sanh.Nghiệp ác là hành động dữ làm đau khổ chúng sanh. Ðịnhnghiệp là hành động hoặc lành hoặc dữ có cộng tác vớiý thức tạo thành nghiệp quyết định. Bất định nghiệplà hành động hoặc lành hoặc dữ không cộng tác với ýthức nên thành nghiệp không quyết định.

b)Báo: là đền trả một cách công bằng, không sai chạy, khôngtiêu mất. Chúng ta có hành động lành hay dữ, kết quả củahành động ấy sẽ đến, hoặc sớm hay muộn thôi. Thí dụchúng ta mắng chửi người là hành động dữ, người ấysẽ mắng chửi lại ngay khi đó, hoặc thời gian khác, khótránh khỏi. Sự thù đáp cân xứng gọi là báo. Báo có chiaba thứ: hiện báo, sanh báo và hậu báo. Hiện báo là quảbáo hiện tại, những hành động lành hay dữ ngay trong đờinày chịu quả báo. Sanh báo là quả báo đời sau, hành độngtốt xấu của ba nghiệp, đến đời sau mới chịu quả báo.Hậu báo là về sau lâu xa mới chịu quả báo. Ví như vàođầu mùa mưa, chúng ta đồng thời gieo trồng hạt đậu phộng,trồng cây chuối, trồng cây mít. Ðến ba tháng sau, chúng tađược kết quả có đậu phộng. Sang năm, chúng ta mới kếtquả có chuối. Song ba bốn năm sau, chúng ta mới được kếtquả có mít. Như thế, hành động đồng thời mà kết quảsai biệt, tùy loại khác nhau. Nếu chúng ta đòi hỏi ba thứphải kết quả đồng thời là ngu xuẩn.

III.-TỪ ÐÂU TẠO THÀNH NGHIỆP?

Nghiệptừ thân, miệng, ý chúng ta tạo nên. Bởi thân miệng ý chúngta làm lành, nói lành, nghĩ lành nên tạo thành nghiệp lành.Thân miệng ý chúng ta làm dữ, nói dữ, nghĩ dữ tạo thànhnghiệp dữ. Thế nên, chúng ta chủ nhân tạo nghiệp cũng chínhchúng ta là chủ nhân thọ báo. Ngang đây chúng ta hãnh diệnđã thoát khỏi mọi quyền lực thiêng liêng ban họa xuốngphước. Chúng ta cũng hiên ngang thọ nhận tất cả quả khổvui, mà không có một lời oán hờn than trách. Chúng ta khônngoan biết chọn lựa nghiệp nhân nào mình thích mà làm, khôngcòn mù quáng làm càn bướng. Ðây là sự trưởng thành, khirõ nghiệp từ đâu có.

IV.-TỪ ÐÂU CÓ BÁO ỨNG?

Sựbáo ứng cũng chính nơi mình hiện ra. Mỗi khi chúng ta tạonghiệp lành hay dữ, mắt chúng ta thấy cảnh ấy, tai chúngta nghe tiếng ấy, hạt giống lành dữ ấy đã rơi vào tàngthức chúng ta. Kẻ đối tượng bị chúng ta làm khổ vui cũngthế, do mắt thấy, tai nghe nên hạt giống biết ơn hay thùhằn đã rơi vào tàng thức của họ. Khi nào đó, cả hai gặplại nhau thì hạt giống ân oán ấy trỗi dậy, khiến hai bêntạo thêm một lần nghiệp lành dữ nữa. Cứ thế tạo mãikhiến nghiệp càng ngày càng dầy, ân oán càng ngày càng lớn.Như khi chúng ta gặp một người đang mắc phải cảnh khốnđốn cơ hàn, hình ảnh buồn thảm khổ đau của họ hiệnbày đầy đủ. Chúng ta trong tay có đủ phương tiện, liềngiúp họ qua cơn khốn đốn, lúc đó trên gương mặt khổđau đã ngả sang gương mặt vui tươi, sáng sủa. Chứùng kiếnhiện tượng ấy, hạt giống vui tươi đã rơi vào tàng thứcchúng ta. Nếu mỗi ngày chúng ta đều gieo vào tàng thức nhữnghạt giống vui tươi, đến khi thân này sắp hoại, chúng takhông còn đủ nghị lực làm chủ, những hình ảnh vui tươiấy sẽ hiện đến với chúng ta, mời chúng ta đến cảnhvui tươi. Ngược lại, mỗi ngày chúng ta cứ gieo rắc khổđau cho người, những hạt giống khổ đau chứa đầy trongtàng thức chúng ta, đến khi hơi tàn, lực tận những hìnhảnh đó sống dậy, đuổi bắt đánh đập chúng ta, khiếnchúng ta phải chạy chui vào cảnh khổ. Ðó là nghiệp báokhổ vui của mai kia. Nghiệp báo không phải từ đâu đến,mà chính từ tàng thức chúng ta hiện ra. Người xưa thầnthánh hoá khả năng chứa đựng của tàng thức bằng ông thầnđộ mạng. Bảo rằng ông thường theo dõi chúng ta, và ghichép hết mọi hành động thiện ác của chúng ta, để báocáo với Thiên đình hay Diêm chúa. Hoặc cụ thể hóa tàngthức chứa đựng bằng Ðài gương nghiệp cảnh. Bảo rằngchúng ta làm lành hay dữ, sau khi chết đến chỗ Diêm vương,ở trước sân triều có cái gương lớn, người làm lành làmdữ dẫn đến trước gương đều hiện rõ ràng đầy đủ,không thể chối cãi được.

V.-NGHIỆPBÁO KHÔNG THỂ NGHĨ BÀN

Sựgóp nhặt gieo vào tàng thức là một lẽ thật, không phảiviệc huyễn hoặc, do không tưởng bịa ra. Ðây thử cử mộtthí dụ, khi chúng ta muốn học thuộc lòng một bài thơ. Chúngta đọc một lần, hai lần, cho đến nhiều lần tự thấynó thuộc. Cái thuộc ấy là do đâu, chẳng qua mỗi lần chúngta đọc, hạt giống ấy rơi vào tàng thức, đọc nhiều lần,hạt giống ấy càng trưởng thành mạnh mẽ, đây gọi làthuộc. Thuộc xong chúng ta không đọc nữa, thỉnh thoảng trongtàng thức nó trỗi dậy, mỗi lần trỗi dậy, chúng ta ônlại đôi ba phen, thế là thuộc lại càng thuộc. Từ miệngchúng ta đọc, hạt giống thơ rơi vào tàng thức gọi hiệnhạnh huân chủng tử. Từ tàng thức thơ trỗi dậy, gọi làchủng tử khởi hiện hạnh. Chúng ta ôn lại đôi ba lần,gọi là hiện hạnh huân chủng tử. Thế là sự huân khởikhông thể nghĩ bàn. Nếu cả đời chúng ta huân chủng tửnào nhiều nhất, đời sau sanh ra hạt giống ấy sống dậysớm nhất. Bởi thế mới có các vị thần đồng, xuất hiện,như Mạc Ðĩnh Chi ở Việt Nam mười hai tuổi đã thông suốtthi pháp, Bạch Cư Dị ở Trung Hoa chín tuổi đã làm thơ, Pascalở Pháp mười hai tuổi đã thông Kỷ hà học..., cho đếncùng học một lớp mà mỗi đứa bé đều có khả năng riêng.

Khitrong kho tàng thức còn chứa chủng tử thì sự huân khởikhông thể nghĩ bàn. Vì thế nó có sức mạnh lôi kéo chúngta đi thọ sanh trong lục đạo không có ngày dừng. Thế nên,nói đến nghiệp báo là nói đến sự luân hồi sanh tử.

VI.-LÀM SAO HẾT NGHIỆP?

Nghiệpđã do chúng ta gây tạo biến chủng tử huân vào tàng thức.Muốn hết nghiệp cũng do chúng ta khéo loại hết những chủngtử nghiệp ở trong tàng thức ra. Khi kho tàng thức sạch chủngtử thì sức mạnh lôi vào sanh tử không còn. Khi chủng tửcòn trong kho ấy, gọi là tàng thức, là nhân sanh tử. Khi chủngtử trong kho ấy sạch hết, gọi là không Như Lai tàng, làkho Như Lai trống, tức là dứt mầm sanh tử. Vì thế muốnhết nghiệp sanh tử, chúng ta phải ứng dụng những phươngpháp tu để tiêu diệt các hiện hạnh từ chủng tử dấykhởi. Ví như khi chúng ta học thuộc lòng một bài thơ, songmỗi lần nhớ lại, chúng ta đều bỏ qua, thời gian lâu bàithơ ấy sẽ quên bẵng. Những chủng tử khác cũng thế, mỗikhi khởi hiện hạnh, chúng ta đều thông qua chẳng cho hìnhảnh sống lại, lâu ngày tự nhiên nó mất. Phương pháp niệmPhật, Trì chú, Tọa thiền đều nhắm vào mục đích này.

VII.-KẾT LUẬN

Thấurõ lý nghiệp báo, chúng ta cố gắng tạo điều kiện thuầnthiện để được quả báo toàn vui, nếu còn chấp nhận ởtrong sanh tử. Sự chọn lựa khổ vui là quyền sở hữu củachúng ta, không phải Thần thánh, cũng không phải ai khác, cóquyền ban khổ vui cho chúng ta. Quyền năng sắp đặt một cuộcsống mai kia, đều do bàn tay chúng ta gây dựng. Nếu một khinào đó, chúng ta không chấp nhận cuộc sống luân hồi nữa,cũng chính chúng ta loại bỏ những mầm sanh tử đang chứachấp trong tàng thức của chúng ta. Thế là, chúng ta đã giànhquyền với tạo hóa, đã tước bỏ quyền lực của thầnlinh và độc tôn trong việc thoát ly sanh tử.


















Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
30/04/2024(Xem: 618)
Những lời trích dẫn trên đây thật đanh thép và minh bạch, chữ vu khống trong câu trích dẫn trên đây trong bản gốc bằng tiếng Pali là chữ abbhācikkhanti (abhi + ā + cikkh + a), các tự điển tiếng Anh dịch chữ này là accusation, calumny, slander…, có nghĩa là kết án, phỉ báng, vu khống…. Thế nhưng trong khi viết lách hay thuyết giảng đôi khi chúng ta không nghĩ đến những lời cảnh giác trên đây của Đức Phật. Sau hơn hai mươi lăm thế kỷ quảng bá, xuyên qua nhiều vùng địa lý, hòa mình với nhiều nền văn minh và văn hóa khác nhau, nền Tư tưởng và Giáo huấn của Đức Phật đã phải trải qua nhiều thử thách, thích ứng với nhiều dân tộc, do đó thật khó tránh khỏi ít nhiều biến dạng và thêm thắt. Thế nhưng thực tế cho thấy trong suốt cuộc hành trình kỳ thú và vĩ đại đó – nếu có thể nói như vậy – nền Tư tưởng và Giáo huấn đó của Đức Phật vẫn đứng vững và đã góp phần không nhỏ trong công trình cải thiện xã hội, nâng cao trình độ văn hóa, tư tưởng và mang lại ít nhất là một chút gì đó lý tưởng hơn, cao đ
30/04/2024(Xem: 417)
Con người thường hay thắc mắc tại sao mình có mặt ở cõi giới Ta Bà này để chịu khổ triền miên. Câu trả lời thường được nghe là: Để trả nghiệp. Nhưng nghiệp là gì? Và làm sao để thoát khỏi? Then chốt cho câu trả lời được gói ghém trong 2 câu: “Ái bất trọng, bất sanh Ta Bà Niệm bất nhất, bất sanh Tịnh Độ” Có nghĩa là: “Nghiệp ái luyến không nặng, sẽ không tái sanh ở cõi Ta Bà Niệm Phật không nhất tâm, sẽ không vãng sanh về Tịnh Độ”
18/02/2024(Xem: 1462)
Bát Chánh Đạo là con đường thánh có tám chi nhánh: Chánh Tri Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm và Chánh Định. Đây là con đường trung đạo, là lộ trình kỳ diệu giúp cho bất kể ai hân hoan, tín thọ, pháp thọ trong việc ứng dụng, thời có thể chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an lạc, giải thoát, niết bàn. Bát Chánh Đạo là Chơn Pháp vi diệu, là con đường đưa đến khổ diệt, vượt thời gian, thiết thực trong hiện tại, được chư Phật quá khứ, Đức Phật hiện tại và chư Phật tương lai chứng ngộ, cung kính, tán thán và thuyết giảng cho bốn chúng đệ tử, cho loài người, loài trời để họ khai ngộ, đến để mà thấy, và tự mình giác hiểu.
07/02/2024(Xem: 2694)
Từ 1983 đến 1985 khi đang ở Singapore, bận bịu với chương trình nghiên cứu Phật giáo tại Viện Phát triển Giáo Trình, tôi được Tu viện Phật giáo Srilankaramaya và một số đạo hữu mời giảng bốn loạt bài pháp nói về một vài tông phái chính của Phật giáo. Các bài giảng được ưa thích, và nhờ các cố gắng của Ô. Yeo Eng Chen và một số bạn khác, chúng đã được ghi âm, chép tay và in ấn để phát miễn phí cho các học viên. Kể từ đó, các bài pháp khởi đi từ hình thức của các tập rời được ngưỡng mộ và cũng được tái bản. Sau đó, tôi nhận thấy có vẻ hay hơn nếu in ấn bốn phần ấy thành một quyển hợp nhất, và với vài lần nhuận sắc, xuất bản chúng để cho công chúng dùng chung.
20/01/2024(Xem: 1204)
Thông thường người ta vào học Phật ít nhiều cũng do có động lực gì thúc đẩy hoặc bởi thân quyến qua đời, hoặc làm ăn thất bại, hoặc hôn nhân dở dang v.v... nhưng cũng không ít người nhân nghe giảng pháp hay gặp một quyển sách khế hợp căn cơ liền phát tâm tu hành hay tìm hiểu học Phật pháp. Phần lớn đệ tử xuất gia hoặc tại gia của Hòa Thượng cũng vì cảm mộ pháp giải của Ngài mà quy y Phật. Quyển vấn đáp này góp nhặt từ những buổi giảng thuyết trong các chuyến hoằng pháp của Hòa Thượng, hy vọng cũng không ngoài mục đích trên, là dẫn dắt người có duyên vào đạo hầu tự sửa đổi lỗi lầm mà giảm trừ tội nghiệp.
20/01/2024(Xem: 1276)
Năm xưa khi Phật thuyết kinh, hoàn toàn dùng khẩu ngữ vì bấy giờ nhân loại chưa có chữ viết (xứ Ấn). Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử Phật mới kết tập laị những gì Phật dạy để lưu truyền cho đời sau. Đạo Phật dần dần truyền sang các xứ khác, truyền đến đâu thì kinh điển cũng được phiên dịch sang ngôn ngữ của xứ ấy. Lúc ban đầu kinh Phật được ghi chép bằng tiếng Phạn ( Sancrit, Pali ) sau đó thì dịch sang tiếng: Sinhale, Pakistan, Afghanistan, tiếng Tàu, Thái, Nhật, Hàn, Việt… và sau nữa là tiếng Pháp, Anh, Tây Ban Nha…
20/12/2023(Xem: 1813)
Tiến sĩ Bạch Xuân Phẻ (Bạch X. Khỏe) định cư ở Hoa Kỳ từ năm 1991, hiện đang giảng dạy Hóa học và Hóa học danh dự cho Trường trung học Mira Loma tại thủ phủ Sacramento, CA. Ông quy y với Thiền sư Trừng Quang Thích Nhất Hạnh, có Pháp danh là Tâm Thường Định. Ông đã và đang giảng dạy về Lãnh đạo chánh niệm và phương thức mang chánh niệm vào học đường ở bang California từ năm 2014. Tiến sỹ Bạch cũng giảng dạy cho chương trình huấn luyện giáo viên. Ngoài ra, ông còn tham gia nhiều công việc xã hội trong cộng đồng. Tháng Ba 2023, TS Bạch Xuân Phẻ được Hiệp hội Giáo viên California (California Teachers Association) vinh danh vì những đóng góp giáo dục thực hành chánh niệm của ông. TS Bạch Xuân Phẻ cũng được trao Giải thưởng Nhân quyền người Mỹ gốc Á Thái Bình Dương năm 2023 của bang California (Human Right Awards).
19/12/2023(Xem: 5107)
Cách đây chừng 30 năm, Tổ Đình Viên Giác tại Hannover Đức Quốc chúng tôi có nhận được bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daizokyou) bằng Hán Văn gồm 100 tập do cố Hòa Thượng Thích Tịnh Hạnh từ Đài Loan giới thiệu để được tặng. Bộ Đại Tạng Kinh giá trị này do Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội xuất bản và gửi tặng đến các nơi có duyên. Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội dưới sự chứng minh và lãnh đạo tinh thần của cố Hòa Thượng Thích Tịnh Không đã làm được không biết bao nhiêu công đức truyền tải giáo lý Phật Đà qua việc xuất bản kinh điển và sách vở về Phật Giáo, với hình thức ấn tống bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau như: Hoa Ngữ, Anh Ngữ, Pháp Ngữ, Đức Ngữ, Việt Ngữ. Nhờ đó tôi có cơ hội để tham cứu Kinh điển rất thuận tiện.
13/12/2023(Xem: 11228)
Hành Thiền, một nếp sống lành mạnh trong sáng, một phương pháp giáo dục hướng thượng (Sách pdf của HT Thích Minh Châu)
12/12/2023(Xem: 5607)
Chánh Pháp và Hạnh Phúc (Sách pdf của HT Thích Minh Châu)
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567