Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

07-Phật giáo độ sanh

28/01/201109:41(Xem: 7400)
07-Phật giáo độ sanh

BƯỚCÐẦU HỌC PHẬT
HòathượngThích Thanh Từ
PhậtLịch 2541-1998

Phậtgiáo độ sanh

I.MỞ ÐỀ

Tấtcảviệc làm của Phật giáo đều tập chú vào lợi ích chochúng sanh. Chúng sanh là đối tượng duy nhất của Phật giáo.Thế nên sự truyền bá của Phật giáo vì lợi ích chúng sanh.Nếu không vì lợi ích chúng sanh, sự truyền bá ấy là vônghĩa lý. Chúng sanh ở đây là những người hiện có mặt,nghe hiểu được những lời giáo hoá. Chúng ta đừng hiểuchúng sanh là những âm hồn, những kẻ chết. Nếu Phật giáosống với kẻ chết, thực chất Phật giáo đã chết mấtrồi. Thế mà gần đây có một số Tăng, Ni đưa Phật giáođi vào cõi chết. Tăng, Ni xuất hiện đông đủ chỉ ở nhữngđám ma chay. Phật sự quan trọng của Tăng, Ni là đưa ma cúngđám. Ðó là nét bi thảm đang xuất hiện trên hình ảnh Phậtgiáo Việt Nam. Cần nói một câu chính xác hơn: "Phậtgiáo độ sanh, không phải độ tử." Nếu ai cố tìnhđem Phật giáo vào cõi tử, chính là kẻ làm hoại diệt Phậtgiáo.

II.GIẢNG DẠY

Vìtính cách độ sanh nên những người truyền giáo có bổn phậnhằng giảng dạy cho tín đồ thông hiểu Phật giáo. Mỗi ngôichùa là một nơi giảng dạy kinh điển, mỗi buổi lễ làmỗi lần giảng dạy giáo lý. Có thế, người Phật tử mớibiết rõ đường lối tu hành, mới thâm nhập được giáolý cao siêu. Phật giáo đã tự hào có một kho tàng kinh điểndồi dào, mà người Phật tử kể cả Tăng, Ni, đa số dốtnát về giáo lý. Lỗi ấy tại ai? Bởi sự truyền bá cònsơ sót yếu kém, chính Tăng, Ni phải chịu trách nhiệm. Sởdĩ có sơ sót này, vì Tăng, Ni bận quá nhiều thì giờ lo chongười chết. Một người chết, Tăng, Ni mất mấy ngày đêmcó mặt tại tang gia, sau khi chôn cất xong, phải mất bao nhiêungày trong những lễ trai tuần. Nếu chùa có đôi ba ngàn Phậttử, thử hỏi Tăng, Ni còn thì giờ đâu lo tu học và truyềnbá chánh pháp. Quả là chúng ta làm lệch lạc trọng tráchcủa mình. Việc đáng làm chúng ta lại không làm, việc khôngđáng làm chúng ta lại dồn hết thì giờ vào đó. Ví nhưngười chết đã nằm cứng đờ trong quan tài, mà ba bốn vịTăng, Ni có khi nhiều hơn, thường trực tụng kinh cho họ nghe,thử hỏi đã nghe được những gì? Ðúng theo tinh thần Phậtgiáo, người chết sau khi tắt thở tùy nghiệp thiện ác theođó đi thọ sanh, có ai còn lẩn quẩn bên quan tài để chúngta tụng kinh cho họ nghe. Việc làm này quả thật không đáng,mà chúng ta tốn nhiều thì giờ. Vì thế, việc tối quan trọnglà giảng kinh dạy đạo, chúng ta phải bê tha đi. Nếu thậtngười chân chánh xuất gia, chúng ta phải điều chỉnh lại,đừng để đi mãi trên con đường sai lầm như thế. Chúngta hằng nhớ trọng trách của mình là phổ biến chánh pháplợi ích quần sanh, không phải vì tụng cúng để được lòngPhật tử.

III.-DỊCH KINH VIẾT SÁCH

Kinhđiển Phật giáo hiện giờ chưa được phiên dịch hết rachữ Việt. Thế là trọng trách Tăng, Ni còn nặng nề biếtmấy. Những bản kinh chữ Phạn, sang Trung Quốc người ta đãphiên dịch thành chữ Hán. Tạng kinh chữ Hán có mặt ở ViệtNam khá lâu rồi, Tăng, Ni Việt Nam chưa phiên dịch đượcmột phần mười (1/10). Cho đến những nghi lễ tụng niệmhằng ngày cũng vẫn đọc theo phiên âm chữ Hán, quả là mộtthiếu sót to tát của Phật giáo Việt Nam. Tại sao Tăng, Nikhông dồn hết thì giờ của mình trong việc học tập đểphiên dịch kinh điển? Bởi vì Phật tử đòi hỏi việc đưama cúng đám, Tăng, Ni mới thiếu thì giờ học tập. Tăng,Ni là người hướng dẫn Phật tử, tại sao chúng ta mãi đểnhững đòi hỏi không đáng, làm mất thì giờ vàng ngọc củangười tu? Chính tại Tăng, Ni không gan chẳng dám nói thẳng,sợ mất cảm tình, khiến tệ đoan càng ngày càng thêm. Ðâunhững thế, có một thiểu số Tăng, Ni lại bày biện đủcách rối ren, khiến đã mất thì giờ lại thêm mất thì giờ.Những kẻ này bề ngoài xem dường như thương Phật pháp,kỳ thật họ lợi dụng Phật pháp làm kế sanh nhai. NgườiPhật tử dốt nát không biết, thấy bày biện chừng nào lạicàng thích chừng ấy, quả thật kẻ mù dắt đám mù. Kinhđiển là những phương thuốc độ đời, Tăng, Ni là ngườichịu trách nhiệm truyền bá, mà không dồn hết thì giờ họctập phiên dịch, thật là trái với bổn phận biết bao. Tổtiên chúng ta khi xưa học chữ Hán, nên Tạng kinh chữ Hánvốn không có gì khó khăn. Hiện nay chúng ta học chữ Việt,Tạng kinh chữ Hán là một cổ ngữ không làm sao đọc được.Tăng, Ni hiện nay không cố gắng dịch ra chữ Việt, vô tìnhchúng ta để giáo lý chết khô và chôn sâu trong các tủ kinhnhà chùa.

IV.THỌ CÚNG DƯỜNG

Khixưa Phật còn tại thế, nếu Phật tử muốn thỉnh Phật vàTăng chúng cúng dường, Phật đều thọ nhận. Ðúng giờ thọtrai, Phật và chúng Tăng mới đến, nghỉ ngơi giây lát rồithọ trai. Thọ trai xong, trong gia quyến tụ họp ngồi chungquanh đức Phật, Ngài vì gia quyến thuyết pháp, thuyết phápxong, Phật vì gia quyến chúc lành, đứng dậy ra về. Thếthì người cúng dường vì Phật và Tăng chúng mà cúng, ngườithọ cúng dường cũng vì gia chủ hiện tại mà thọ. Phậtthuyết pháp chúc lành cũng vì người sống hiện có mặt,đúng là ý nghĩa độ sanh. Ngày nay chúng ta lại khác, gặpngày tuần, ngày giỗ của cha mẹ, Phật tử thỉnh Tăng, Nicúng dường. Tăng, Ni thọ trai xong, vì người chết tụng mộtbiến kinh cầu nguyện, cầu nguyện xong ra về. Như vậy, ngườicúng dường vì kẻ chết mà cúng, người thọ cúng dườngcũng vì kẻ chết mà cầu nguyện. Cả hai điều vì ngườichết , quả là Phật giáo độ tử, đâu còn là nghĩa độsanh. Tăng, Ni đến nhà không có lợi ích gì cho người hiệntại hết, chỉ cầu lợi ích cho kẻ quá cố, song người quácố chắc gì có mặt ở đây, nếu người quá cố đã thácsanh nơi nào rồi, việc làm này có phải viển vông không thiếtthực chăng? Tại sao chúng ta không giữ theo nếp xưa, thựchành đúng tinh thần cúng dường Phật và Tăng chúng thuởtrước, để ý nghĩa độ sanh được vẹn toàn, sự lợi íchcụ thể thiết thực tròn đủ trăm phần? Trước đã quáhay, tại sao nay chúng ta lại bỏ? Nay thật dở, tại sao chúngta lại theo? Ở đây, chúng ta cần chỉnh lại, đừng đểđưa Phật giáo vào cõi chết, gây thêm mê tín cho Phật tử,trái với đạo lý giác ngộ chân thật của đức Thích-ca.

Hơnnữa, khi xưa đức Phật thuyết pháp cho dân chúng nghe, nhânnghe pháp dân chúng liền cúng dường cơm, Phật không thọnhận. Phật cho nhận như thế là nhờ giảng dạy nên có cơmăn, không phải do lòng chân thành phát tâm cúng dường củaPhật tử. Ngày nay tại sao chúng ta đi tụng kinh cho Phật tửđể được cúng cơm cúng tiền, hoan hỉ thọ nhận? Làm thếcó phải đi tụng kinh thuê chăng? Có trái với tông chỉ củaPhật ngày xưa không? Ngày xưa, đức Phật cao cả thanh bạchđến thế, ngày nay chúng ta ti tiện thấp hèn lắm vậy. Ðâycũng là một điều chúng ta phải lưu tâm chỉnh đốn lại,đừng để những tệ tục cứ dắt mãi chúng ta trong đườngmê tối. Thậm chí hiện nay có một ít Tăng, Ni đến tậnnhà Phật tử dùng đủ lời lẽ để quyên tởi, thật đaulòng thay! Ðạo lý nào dạy những điều ấy?

V.DĨ HUYỄN ÐỘ CHÂN

Hoặccó người nói những việc cúng đám ma chay cho các Phật tửchẳng qua "dĩ huyễn độ chân", nhân cơ hội tang gia bối rối,chúng ta đến với họ để có cảm tình dẫn dắt họ vàođạo. Nhưng xin đặt câu hỏi, nếu vì cảm tình đến vớiđạo, mai mốt mất cảm tình thì sao? Chủ trương đạo Phậtlà tự giác tự nguyện, nếu không vì lẽ tỉnh giác đếnvới đạo, người ấy vẫn chưa xứng đáng là Phật tử.Huống chi, vì chiều theo cảm tình của họ, Tăng, Ni mất hếtgiá trị cao thượng, thanh nhã của mình, được đôi ba ngườiPhật tử, mà người truyền giáo mất hết giá trị, thửhỏi việc ấy có đáng làm không? Chúng tôi đồng ý, nếucần Tăng, Ni đến đám ma đám tuần tại nhà Phật tử, songvới điều kiện tang gia thân quyến tụ họp lại, để ngheTăng, Ni giảng một thời kinh, xong rồi hồi hướng công đứccho người chết, Tăng, Ni ra về. Như thế, khả dĩ nói "dĩhuyễn độ chân" được. Bởi vì nhân người chết, chúngta giáo hóa kẻ sống cho hiểu đạo lý. Ðám tuần, ngày kỵđều nên tổ chức như thế, việc làm này không trái vớichánh pháp.

Hoặccó người nói Phật giáo từ bi, khi giáo hoá kẻ dương lànghĩ đến người âm, muốn làm sao cho âm dương lưỡng lợi,mới đầy đủ lòng từ. Chúng tôi đồng ý lẽ này, nhưngtrong chùa trước khi thọ trai, Phật dạy Tăng, Ni phải cúngchim đại bàng, quỉ la-sát và các quỉ thần, không phải vìkẻ âm là gì? Mỗi chiều ở chùa hầu hết đều dùng nghiMông Sơn để cúng cô hồn, đâu không phải vì kẻ âm. Hằngđêm ở chùa hai thời công phu, Tịnh độ sau đó đều phụcnguyện "âm siêu dương thới", còn gì không đủ lòng từ bi.Nếu Phật tử có lòng hiếu thảo muốn cầu nguyện cho thânnhân, cứ đến chùa vào những thời công phu, Tịnh độ, Tăng,Ni sẽ vì thân nhân họ cầu nguyện cho. Có thế, không mấtthì giờ tu hành của Tăng, Ni, Phật tử cũng được mãn nguyện.Biết tôn trọng những bậc thầy hướng dẫn mình mới gọingười ấy biết đạo đức, vì việc riêng của mình, đểbậc thầy mình mất hết giá trị cao thượng, là đạo đứcchỗ nào? Sự hướng dẫn không khéo cả thầy lẫn trò làmviệc vô nghĩa, còn chuốc lấy sự đau khổ là khác. Khi Phậtcòn tại thế, chúng ta có nghe Ngài đi đưa đám lần nào đâu.Cho đến chư Tỳ-kheo môn đồ của Phật, cũng không nghe điđưa đám lần nào. Tại sao chúng ta hiện nay, cứ bận rộnđám ma đám tuần mãi. Thế là chúng ta đã đi đúng đườngPhật hay đã sai rồi, cần phải vận dụng công tâm xét lạiđiều này. Bởi Tăng, Ni xuất hiện trong xóm làng đều donhà có ma chay, nên bất thần Tăng, Ni đến nhà người nàohọ liền ghét sợ, coi như một điềm bất tường sắp đếncho gia đình họ. Thật là ngày xưa xem "một vị Tăng đếnlà một ông Phật lại", ngày nay thì ngược lại. Thử hỏicòn gì hổ thẹn cho bằng?

VI.KẾT LUẬN

Chủyếu Phật giáo độ sanh một cách thiết thực, người mônđồ Phật giáo phải thấy rõ điều này. Tất cả hành động,mọi cuộc tổ chức đều nhằm thẳng giáo hoá chúng sanh,bằng con đường từ bi giác ngộ. Ðem hạt giống từ bi giácngộ gieo rắc trong lòng mọi người là truyền bá đạo Phật.Ngược lại, đem tình cảm mê tín gieo rắc trong lòng tín đồ,thử hỏi đây là truyền đạo gì? Vì giải thoát cho mìnhcho chúng sanh, nên chúng ta đi tu, tại sao chúng ta trở thànhkẻ chiều chuộng phục vụ tín đồ để được cơm ăn áomặc? Quả là điều sai đạo lý không hợp với chánh pháp,chúng ta phải gan dạ đập tan những tập tục sai lầm ấy,đem lại con đường tu hành cao thượng thanh bai cho chính mìnhvà huynh đệ mai sau. Trọng trách của chúng ta không phải đóngkhung trong một nhóm bổn đạo, mà phải đem đạo giác ngộgiải thoát lại cho toàn thể chúng sanh. Làm được như vậymới đúng tinh thầnPhật giáo độ sanh.










Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
14/12/2022(Xem: 2161)
Đạo đức và Luân lý chẳng những là nền tảng của mọi tôn giáo, mà còn là nền tảng của mọi xã hội loài người. Một xã hội sẽ không hoạt động hoặc phát triển nếu không có Đạo đức và Luân lý; nó sẽ không chịu nổi sự hỗn loạn và bạo lực. Đạo đức và Luân lý cũng đóng vai trò là hệ thống giá trị mà từ đó luật pháp và công lý được hình thành, cùng với các định nghĩa của chúng ta về đúng và sai. Một hệ thống Đạo đức và Luân lý không chỉ tạo ra hòa bình và trật tự trên thế giới này, nó còn cung cấp một mục đích trong cuộc sống. Sống có Đạo đức và Luân lý cho chúng ta cảm giác thành một ơn gọi cao hơn có thể mang bản chất tâm linh, cho phép chúng ta trải nghiệm sự siêu việt vượt qua những cám dỗ vật chất trần tục.
02/11/2022(Xem: 18655)
Đức Phật thuyết giảng giáo nghĩa Đại thừa vì tám lý do, được nêu lên ở trong bài kệ của Đại thừa trang nghiêm kinh luận: "Bất ký diệc đồng hành Bất hành diệc thành tựu Thể, phi thể, năng trị Văn dị bát nhân thành". Bài kệ này nêu lên tám lý do, tám bằng chứng kinh điển Đại thừa là do đức Phật nói chứ không phải là ai khác. Hàng Thanh văn không đủ khả năng để nói đến kinh điển Đại thừa. Hàng Duyên giác không có khả năng để nói đến kinh điển Đại thừa. Bồ tát cũng chưa đủ sự toàn giác để nói kinh điển Đại thừa. Còn đối với ngoại đạo thì đương nhiên không thể nói được một từ nào ở trong kinh điển Đại thừa. Có nhiều vị cố chấp, thiên kiến nói rằng kinh điển Đại thừa do ngoại đạo tuyên thuyết; nói như vậy là hồ đồ, không có luận cứ. Tu tập đến cỡ như hàng Thanh văn, hàng Duyên giác mà còn không nói được kinh điển Đại thừa thì làm gì cái đám ngoại đạo chấp ngã, chấp trước, chấp danh, chấp lợi mà nói được kinh điển Đại thừa. Cho nên nói kinh điển Đại thừa do ngoại đạo nói, đó
02/11/2022(Xem: 14275)
Bấy giờ, tôi khoảng chín tuổi, một hôm đi xem đưa đám tang ông Võ Hờ trong xóm, thấy mọi người đi sau đám tang đều khóc nức nở và tức tối. Thấy họ khóc, tôi cũng khóc, nhưng bấy giờ tôi không biết tại sao tôi lại khóc như vậy.
31/10/2022(Xem: 12547)
SOTAPATTI, quả vị Dự lưu, là cấp bậc đầu tiên trong bốn cấp bậc giác ngộ được đề cập trong Phật giáo Sơ kỳ. Tên gọi của quả vị nầy là từ ý nghĩa của một hành giả nhập vào dòng chảy không thối chuyển (sotāpanna, thánh Dự lưu) đưa đến giải thoát hoàn toàn. Dòng chảy nầy chính là đường thánh tám chi (Bát chi Thánh đạo, SN 55:5, kinh Sāriputta), là dòng sông hướng đến Niết-bàn cũng giống như sông Hằng chảy ra biển cả (SN 45:91, kinh Phương đông). Thời gian cần thiết để dòng sông nầy tiến đến mục tiêu tối hậu là tối đa bảy kiếp sống, không kiếp nào tái sinh trong cõi giới thấp hơn cõi người (SN 55:8, kinh Giảng đường bằng gạch).
29/10/2022(Xem: 6720)
Nhận tin nhắn trễ trên Viber sau khi đã ra khỏi nhà, và mãi đến trưa con mới trở về nên con chỉ nghe lại bài phỏng vấn này do TT Thích Nguyên Tạng có nhã ý cho chúng đệ tử học hỏi thêm giáo lý Phật Pháp trước khi Ngài trở về trú xứ Hoa Kỳ sau 3 tuần tham dự Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư và Lễ Mừng 32 năm Khai Sơn Tu Viện Quảng Đức, vào trước giờ có pháp thoại của Tổng Vụ Hoằng Pháp và Giáo Dục của Giáo Hội Úc Châu cùng ngày. Tuy nhiên với sự ngưỡng mộ của con đối với bậc cao tăng trí tuệ viên minh, diệu huyền thông đạt như Ngài, mà những lời Ngài trình bày qua những kinh nghiệm tu chứng hành trì, hạnh giải tương ưng thu thập được trong suốt hơn 46 năm qua đã khiến con phấn chấn tu tập hơn, hầu đạt được mục đích tối cao mà Đức Phật đã truyền trao nên con đã nghe lại đôi lần vào hôm nay để có thể uống được cam lồ qua những lời đáp trao đổi Phật Pháp. Thành kính tri ân TT Thích Nguyên Tạng và HT Thích Đồng Trí và kính xin phép cho con chia sẻ lại những gì con đã học được.
13/07/2022(Xem: 8832)
Phải nói là khi nhận được tin TT Giảng Sư Thích Nguyên Tạng sẽ có bài pháp thoại giảng tại Thiền Lâm Pháp Bảo hôm nay (12/7/2022) lại vừa nghe tin tức mưa lớn và lụt tràn về Sydney mấy ngày qua, thế mà khi nhìn vào màn ảnh livestream lại thấy khuôn viên thiền môn trang nghiêm thanh tịnh quá, dường như thời tiết khí hậu chẳng hề lay động đến nơi chốn này, nơi đang tập trung những người con cầu tiến muốn hướng về một mục đích mà Đức Phật hằng mong chúng ta đạt đến : Vô Sanh để thoát khỏi vòng sinh tử .
15/06/2022(Xem: 7846)
Tôi thật chưa tìm ra cuốn nào như cuốn này, tác giả viết từ những năm 50s, hữu duyên được dịch ra tiếng Việt vào những năm 80s… Tìm lại được bản thảo sau khoảng 33 năm (2021). Tốn thêm một năm hiệu đính trên đường ta bà, gọt dũa lại.
17/11/2021(Xem: 20353)
Nghiệp, phổ thông được hiểu là quy luật nhân quả. Nhân quả cũng chỉ là mối quan hệ về tồn tại và tác dụng của các hiện tượng tâm và vật trong phạm vi thường nghiệm. Lý tính của tất cả mọi tồn tại được Phật chỉ điểm là lý tính duyên khởi.266F[1] Lý tính duyên khởi được nhận thức trên hai trình độ khác nhau. Trong trình độ thông tục của nhận thức thường nghiệm, quan hệ duyên khởi là quan hệ nhân quả. Chân lý của thực tại trong trình độ này được gọi là tục đế, nó có tính quy ước, lệ thuộc mô hình cấu trúc của các căn hay quan năng nhận thức. Nhận thức về sự vật và môi trường chung quanh chắc chắn loài người không giống loài vật. Trong loài người, bối cảnh thiên nhiên và xã hội tạo thành những truyền thống tư duy khác nhau, rồi những dị biệt này dẫn đến chiến tranh tôn giáo.
14/11/2021(Xem: 16755)
Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại xứ Sāvatthi, gần đến ngày an cư nhập hạ suốt ba tháng trong mùa mưa, chư Tỳ khưu từ mọi nơi đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, xin Ngài truyền dạy đề mục thiền định, đối tượng thiền tuệ thích hợp với bản tánh của mỗi Tỳ khưu. Khi ấy, có nhóm năm trăm (500) Tỳ khưu, sau khi thọ giáo đề mục thiền định xong, dẫn nhau đến khu rừng núi thuộc dãy núi Himavantu, nơi ấy có cây cối xanh tươi, có nguồn nước trong lành, không gần cũng không xa xóm làng, chư Tỳ khưu ấy nghỉ đêm tại đó. Sáng hôm sau, chư Tỳ khưu ấy dẫn nhau vào xóm làng để khất thực, dân chúng vùng này khoảng một ngàn (1.000) gia đình, khi nhìn thấy đông đảo chư Tỳ khưu, họ vô cùng hoan hỉ, bởi vì những gia đình sống nơi vùng hẻo lánh này khó thấy, khó gặp được chư Tỳ khưu. Họ hoan hỉ làm phước, dâng cúng vật thực đến chư Tỳ khưu xong, bèn bạch rằng: – Kính bạch chư Đại Đức Tăng, tất cả chúng con kính thỉnh quý Ngài an cư nhập hạ suốt ba tháng mùa mưa tại nơi vùng này, để cho tất cả chúng con có
08/11/2021(Xem: 11800)
Đây chỉ là chiếc thuyền nan, chưa tới bờ bên kia, vẫn còn đầy ảo tưởng chèo ra biển cả. Thân con kiến, chưa gột sạch đất cát, bò dưới chân Hy Mã Lạp Sơn, nghe tiếng vỗ của một bàn tay trên đỉnh cao. Chúng sinh mù, nếm nước biển, ngỡ bát canh riêu cá, Thế gian cháy, mải vui chơi, quên cảnh trí đại viên. Nắm vạt áo vàng tưởng như nắm lấy diệu quang, bay lên muôn cõi, theo tiếng nhạc Càn Thát Bà réo gọi về Tịnh Độ, ngửi mùi trầm Hương Tích, an thần phóng thoát. Con bướm mơ trăng Cực Lạc, con cá ngụp lặn dưới nước đuôi vàng như áo cà sa quẫy trong bể khổ, chờ thiên thủ thiên nhãn nghe tiếng sóng trầm luân vớt lên cõi Thanh văn Duyên giác. Những trang sách còn sở tri chướng của kẻ sĩ loanh quanh thềm chùa Tiêu Sơn tìm bóng Vạn Hạnh, mơ tiên Long Giáng lào xào bàn tay chú tiểu Lan trên đồi sắn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567