Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

27-Học Phật bằng cách nào?

28/01/201109:41(Xem: 7909)
27-Học Phật bằng cách nào?

BƯỚCÐẦU HỌC PHẬT

HòathượngThích Thanh Từ
PhậtLịch 2541-1998

HọcPhật bằng cách nào?

Hỏi học Phật bằng cách nào, tức là hỏi đến phương pháp họcPhật. Ở thế gian môn học nào cũng có phương pháp riêngcủa nó. Ví như môn toán học, người học trò trước phảibiết số, kế học thuộc cửu chương, học cách cộng trừnhân chia, lên nữa phải học công thức, phương trình v.v...Môn văn chương, trước phải biết chữ cái, học ráp vần,viết chánh tả, học văn phạm, tập cách làm văn v.v... Phươngchi Phật pháp là môn học giác ngộ, mà không có phương phápriêng của nó hay sao?

Phươngpháphọc Phật tức là ba môn tuệ học: Văn tuệ, Tưtuệ, và Tu tuệ. Bởi vì muốn vào cửa giác ngộ khôngphải anh tướng trí tuệ thì không sao vào được. Phật pháplà chân lý là những sự thật, nếu không có ngọn đuốctrí tuệ soi sáng, làm sao chúng ta thấy mọi sự thật ở chungquanh, không cần trí tuệ, chỉ dùng lòng tin đến với đạoPhật, để học Phật pháp, thật là sai lầm lớn lao. Ðâylà chứng bệnh trầm trọng của Phật tử hiện thời. Cầnchữa lành bệnh này, chúng ta phải ứng dụng triệt để bamôn tuệ học vào công trình tu học Phật pháp.

Thếnào là Văn tuệ?

Vănlà nghe, do nghe giáo lý Phật pháp trí tuệ mở sáng, gọi làVăn tuệ. Chúng ta nghe Phật pháp qua lời giảng dạy của chưtăng, của thiện hữu tri thức đã tu học trước ta. Nhữnglời giảng dạy ấy xuất phát từ kinh điển của Phật, trongđó chứa toàn lời lẽ chân chánh, chỉ bày mọi sự thậtcho chúng sanh. Càng nghe trí tuệ chúng ta càng sáng. Hoặc chúngta trực tiếp đọc kinh sách Phật, khiến mở mang trí tuệcũng thuộc Văn tuệ. Chịu khó nghe giảng dạy, ch?u khó nghiêncứu kinh sách Phật, đó là người biết từ cửa Văn tuệtiến thẳng vào ngôi nhà Phật pháp.

Thếnào là Tư tuệ?

Tưlà suy xét phán đoán, do suy xét phán đoán những lời dạytrong Phật pháp, trí tuệ càng tăng trưởng. Chúng ta đượcnghe lời chỉ dạy của thầy bạn, dẫn từ trong kinh Phậtra, song nghe rồi tin liền là chưa đủ tư cách học Phật.Buộc chúng ta phải dùng trí phán đoán xem đúng hay sai, nếuquả thật đúng, từ đó chúng ta mới tin. có thế mới thựchành đúng câu "các người phải tự thắp đuốc lên mà đi,thắp đuốc lên với chánh pháp", trong kinh Pháp Cú. Chúng tamuốn mở mang trí tuệ, song tự mình làm sao mở được, phảimồi ngọn đuốc trí tuệ của mình với ngọn đuốc chánhpháp của Phật, trí tuệ mới phát sáng.

Mồibằng cách nào?

Vínhư chúng ta nghe vị Sư giảng rằng: "Tất cả thế gian đềulà vô thường." Sau đó phải dùng trí tuệ của mình phánđoán xem đúng hay không. Chúng ta tự đặt câu hỏi: tất cảthế gian đều là vô thường, có sự vật nào thoát ngoàiluật lệ ấy chăng? Nếu có, câu nói này chưa phải chân lý.Bằng không, mới thật đúng chân lý, chúng ta sẽ hoàn toàntin. Thế rồi, ta tự khảo sát :

Conngười có phải vô thường không? Từ ông bà đến cha mẹchúng ta đều có sanh ra, lớn lên, bệnh hoạn, già yếu rồichết. Kể luôn cả ta, khi nào còn nhỏ bé, lớn lên, bệnhhoạn, già yếu, rồi cũng sẽ chết. Trong gia đình thân tộcchúng ta đã thế, ngoài xã hội cũng thế, cả nhân loại trênthế giới cũng thế; ngàn xưa là thế, mãi sau này cũng thế.Quả là con người vô thường.

Ðếnnhững sự vật, nào nhà cửa, bàn ghế, xe cộ... có bị vôthường không? Chính cái nhà của mình, khi mới cất thì tốtđẹp lành lặn, qua vài ba năm thấy cũ dần, đến năm mườinăm thì hư sập. Cái bàn viết cũng thế, khi mới đóng xembóng loáng tốt đẹp, dùng mấy năm thấy đã cũ, tróc sơnkhờn mặt, rồi đây sẽ mục nát hư hoại. Chiếc xe đạpkhi mới mua đem về mới toanh, chạy được một năm vỏ đãrách, cổ lỏng, các con ốc lờn... vài năm nữa sẽ hư. Thếlà, nhà cửa, bàn ghế, xe cộ... những vật cần dùng bêncạnh chúng ta thảy bị vô thường chi phối. Cho đến trămngàn vật khác, nếu khảo sát đều thấy đồng một số phậnnhư nhau.

Chúngta có thể kết luận rằng: "tất cả thế gian là vô thường",quả thật là chân lý. Ta tin chắc lẽ này, dù có ai nói khácđi, cũng không làm lay động được lòng tin của ta. Bởi lòngtin này đã được gạn lọc qua sàng lý trí, nên nó vữngchắc không dễ gì làm lung lay.

Lạimột thí dụ, chúng ta nghe vị Sư giảng lý luân hồi, bảorằng: "Muôn vật ở thế gian đều xoay quanh vòng luân hồi."Ta tự đặt câu hỏi: Tại sao muôn vật đều luân hồi? Cóvật nào không luân hồi chăng? Chúng ta bắt đầu xét từthực vật:

Câycối thành hình bắt nguồn từ hạt, hạt nẩy mầm tăng trưởngthành cây, nở hoa, kết trái; trái sanh hạt, hạt lại nẩymầm... lộn đi đảo lại không cùng. Song đó là sự lộnđi đảo lại từ cây này sang cây khác, ngay bản thân câyấy có đảo lộn vậy không? Cũng lộn đi đảo lại như thế.Thân cây hiện sống đây, do châm rễ hút đất nước... nuôidưỡng mới được sanh trưởng, dần dần thành đại thọ.Rễ hút đất nước nuôi dưỡng thân cành lá, lá rụng biếnthành phân đất, cành gãy mục cũng thành phân đất, thâncây ngã mục cũng trở về đất nước. Thân cây nhờ đấtnước sanh trưởng, khi ngã mục lại trở về đất nước.

Nướcdo ánh nắng bốc thành hơi, hơi lên cao gặp khí lạnh đọnglại, rơi xuống thành nước; nước lại bốc hơi... mãi mãikhông cùng.

Tonhư quả địa cầu vẫn quay tròn quanh cái trục, sáng rồitối, tối lại sáng. Căn cứ vào sự quay tròn của nó, ngườita chia ra ngày giờ tháng năm, thời tiết xuân hạ thu đông,xoay vần thế mãi không cùng.

Dosự khảo sát trên, chúng ta khẳng định rằng "muôn vật ởthế gian đều xoay quanh vòng luân hồi", là sự thật khôngcòn gì phải nghi ngờ.

Trênđây tạm cử vài thí dụ làm căn bản cho công cuộc suy xétphán đoán Phật pháp. Căn cứ vào đây, chúng ta phán xét nhữnglời Phật dạy, hoặc chư tăng dạy trong những trường hợpkhác. Có thế, mới phân biệt được chánh tà và mới đúngtinh thần người học Phật.

Thếnào là Tu Tuệ?

Saukhi phán xét lời Phật dạy là đúng, chúng ta đem áp dụngtrong cuộc sống hằng ngày của mình, khiến chánh lý càngbày hiện sáng tỏ, là tu tuệ. Ví như, đã biết rõ "tấtcả thế gian là vô thường", chúng ta ứng dụng sự vô thườngvào đời sống của mình, trong những trường hợp như sau:

Ðãbiết rõ thế gian là vô thường, khi gặp vô thường đếnvới bản thân, với gia đình ta, ta vẫn giữ bình tĩnh khônghốt hoảng hãi sợ. Vì biết chắc điều đó ở thế giankhông ai tránh khỏi, sợ hãi kinh hoàng chỉ làm rối thêm vôích. Bởi không sợ nên tâm ta bình tĩnh sáng suốt, giải quyếtmọi việc một cách tốt đẹp. Chúng ta vẫn đủ sáng suốtđể khuyên giải cho những người đồng cảnh ngộ bớt đaukh?.

Biếtrõ thế gian là vô thường, mọi sự tranh giành danh lợi, tàisắc... lòng ta nguội lạnh. Tranh giành những thứ tạm bợấy làm gì, để rồi chuốc khổ về mình, gây đau khổ chongười, rốt cuộc chỉ thành việc mò trăng bắt bóng. Lòngtham lam giành giật dục lạc thế gian, do đây dứt sạch.

Dothấy rõ lẽ vô thường, chúng ta không thể ngồi yên chờchết. Phải cố gắng làm mọi việc lành, nếu cơn vô thườngđến, chúng ta có muốn làm cũng không sao làm được. Lạibiết quí tiếc thời giờ, một ngày qua rồi không tìm lạiđược, phải cấp bách nỗ lực làm lợi mình lợi người,không thể chần chờ.

Ðólà ba trường hợp do biết "thế gian vô thường", chúng takhéo ứng dụng tu hành trong cuộc sống hiện tại của mình.Bao nhiêu sự lợi ích tốt đẹp sẽ theo đó mà tăng trưởng.Sự tu hành ấy, đi đôi với tâm trí tỉnh táo sáng suốt,nên gọi là "Tu tuệ".

Vídụ khác, chúng ta nhận rõ "muôn vật luân hồi", liền ứngdụng lý luân hồi vào cuộc sống của mình. Nếu phải luânhồi, chúng ta chọn cái luân hồi nào tốt đẹp an ổn hơn.Ví như, biết các loài thảo mộc từ hạt nẩy mầm, sanh trưởngthành cây, đơm hoa, kết quả; hạt lại nẩy mầm... Chúngta nên chọn lựa hạt tốt giống ngon đem ương, để sau nàykết quả ngon, cho ta và mọi người được thưởng thức vịngon. Cũng thế, trong vòng luân hồi bản thân ta cũng khôngthoát khỏi, ta cần tạo những nhân tốt, nhân an vui, đểmai kia có lăn lộn cũng lăn lộn trong chỗ tốt, chỗ an vui.

Ðãbiết muôn vật luân hồi, chúng ta phải tìm xem nguyên nhânnào lôi cuốn vào trong ấy. Biết rõ nguyên nhân rồi, phảitìm cách thoát ra ngoài vòng luân hồi. Không đầu hàng khuấtphục, để chịu lăn mãi trong luân hồi. Như các nhà khoa họcnghiên cứu biết sức hút của quả đất, sau đó tìm cáchchế phi thuyền đủ sức mạnh vượt ra ngoài vòng hút củaquả đất, đi thẳng vào quĩ đạo v.v... Biết luân hồi đểtìm cách thoát ra, chính là tinh thần "Tu tuệ".

Văntuệ, Tư tuệ rất cần thiết, song Tu tuệ lại càng quan trọnghơn. Nếu có văn tuệ, tư tuệ mà thiếu tu tuệ thì chỉ làtuệ rỗng, không lợi ích thiết thực cho đời sống con người.Nhờ tu tuệ mới thẩm định được giá trị văn, tư ở trênvà giúp cho văn, tư được kết quả viên mãn.

Vìthế, đức Phật dạy hàng Phật tử đi chùa là cốt gặpSư tăng, Sư ni, gặp Tăng ni rồi cần phải thưa hỏi Phậtpháp, thưa hỏi xong phải ghi nhớ, ghi nhớ rồi cần phán xét,phán xét rồi phải tiến tu. Ðược vậy mới đúng tinh thầnPhật tử (Phỏng theo bài kinh Ma-ha-nam trong Tạp A-hàm). Bồ-tátQuán Thế Âm cũng trình với Phật, thuở quá khứ lâu xa Ngàigặp Phật dạy tu phương pháp văn, tư, tu được vào chánhđịnh và cho hiệu là Quán Thế Âm (Kinh Lăng Nghiêm). Chínhtrong giới Bồ-tát, Phật cũng dạy "dù ở xa trăm ngàn dặm,nghe có người nói kinh luật, người mới thọ giới Bồ-tátcũng phải mang kinh luật đến đó học (Kinh Phạm Võng). Quảnhiên đức Phật không chấp nhận đệ tử tu hành tối dốt,phải đầy đủ ba môn Tuệ học, mới xứng là đệ tử củaNgài.

Bamôn Tuệ học này hoàn toàn thích hợp với tinh thần khoa họchiện nay. Bất luận môn học nào, trước tiên học lý thuyết,kế phê bình lý thuyết, sau thí nghiệm hay thực hành lý thuyết.Lý thuyết tức là văn tuệ, phê bình tức là tư tuệ, thínghiệm tức là tu tuệ. Có như vậy môn học mới tiến bộvà phát minh những điều mới lạ.

Tuynhiên, về mục tiêu chánh yếu Phật học vẫn khác khoa học.Khoa học cốt phát minh mọi sự thật của ngoại giới, chinhphục giành quyền làm chủ thiên nhiên, bắt thiên nhiên làmtheo ý muốn con người, để tạo vật chất dồi dào sung túccho nhân loại. Phật học xoay lại ngự trị bản thân mình,gạn lọc đào thải những tâm thức nhơ xấu, kiến tạo mộttâm hồn trong sáng an vui tự tại. Bởi khoa học gây tạo điềukiện vật chất dồi dào, nên con người dễ tranh đua giànhgiật kình chống lẫn nhau, Phật học cốt xây dựng tâm hồntrong sáng, nên người biết tu theo, lòng sẽ mở rộng thươngyêu bảo bọc lẫn nhau.Vì thế, ba môn tuệ học đều đặtcăn cứ trên nguyên tắc "xem lại chính mình". Nắmvững nguyên tắc này, đọc kinh sách Phật, chúng ta nhận địnhphán xét không bị sai lẫn.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
14/12/2022(Xem: 2161)
Đạo đức và Luân lý chẳng những là nền tảng của mọi tôn giáo, mà còn là nền tảng của mọi xã hội loài người. Một xã hội sẽ không hoạt động hoặc phát triển nếu không có Đạo đức và Luân lý; nó sẽ không chịu nổi sự hỗn loạn và bạo lực. Đạo đức và Luân lý cũng đóng vai trò là hệ thống giá trị mà từ đó luật pháp và công lý được hình thành, cùng với các định nghĩa của chúng ta về đúng và sai. Một hệ thống Đạo đức và Luân lý không chỉ tạo ra hòa bình và trật tự trên thế giới này, nó còn cung cấp một mục đích trong cuộc sống. Sống có Đạo đức và Luân lý cho chúng ta cảm giác thành một ơn gọi cao hơn có thể mang bản chất tâm linh, cho phép chúng ta trải nghiệm sự siêu việt vượt qua những cám dỗ vật chất trần tục.
02/11/2022(Xem: 18651)
Đức Phật thuyết giảng giáo nghĩa Đại thừa vì tám lý do, được nêu lên ở trong bài kệ của Đại thừa trang nghiêm kinh luận: "Bất ký diệc đồng hành Bất hành diệc thành tựu Thể, phi thể, năng trị Văn dị bát nhân thành". Bài kệ này nêu lên tám lý do, tám bằng chứng kinh điển Đại thừa là do đức Phật nói chứ không phải là ai khác. Hàng Thanh văn không đủ khả năng để nói đến kinh điển Đại thừa. Hàng Duyên giác không có khả năng để nói đến kinh điển Đại thừa. Bồ tát cũng chưa đủ sự toàn giác để nói kinh điển Đại thừa. Còn đối với ngoại đạo thì đương nhiên không thể nói được một từ nào ở trong kinh điển Đại thừa. Có nhiều vị cố chấp, thiên kiến nói rằng kinh điển Đại thừa do ngoại đạo tuyên thuyết; nói như vậy là hồ đồ, không có luận cứ. Tu tập đến cỡ như hàng Thanh văn, hàng Duyên giác mà còn không nói được kinh điển Đại thừa thì làm gì cái đám ngoại đạo chấp ngã, chấp trước, chấp danh, chấp lợi mà nói được kinh điển Đại thừa. Cho nên nói kinh điển Đại thừa do ngoại đạo nói, đó
02/11/2022(Xem: 14269)
Bấy giờ, tôi khoảng chín tuổi, một hôm đi xem đưa đám tang ông Võ Hờ trong xóm, thấy mọi người đi sau đám tang đều khóc nức nở và tức tối. Thấy họ khóc, tôi cũng khóc, nhưng bấy giờ tôi không biết tại sao tôi lại khóc như vậy.
31/10/2022(Xem: 12543)
SOTAPATTI, quả vị Dự lưu, là cấp bậc đầu tiên trong bốn cấp bậc giác ngộ được đề cập trong Phật giáo Sơ kỳ. Tên gọi của quả vị nầy là từ ý nghĩa của một hành giả nhập vào dòng chảy không thối chuyển (sotāpanna, thánh Dự lưu) đưa đến giải thoát hoàn toàn. Dòng chảy nầy chính là đường thánh tám chi (Bát chi Thánh đạo, SN 55:5, kinh Sāriputta), là dòng sông hướng đến Niết-bàn cũng giống như sông Hằng chảy ra biển cả (SN 45:91, kinh Phương đông). Thời gian cần thiết để dòng sông nầy tiến đến mục tiêu tối hậu là tối đa bảy kiếp sống, không kiếp nào tái sinh trong cõi giới thấp hơn cõi người (SN 55:8, kinh Giảng đường bằng gạch).
29/10/2022(Xem: 6715)
Nhận tin nhắn trễ trên Viber sau khi đã ra khỏi nhà, và mãi đến trưa con mới trở về nên con chỉ nghe lại bài phỏng vấn này do TT Thích Nguyên Tạng có nhã ý cho chúng đệ tử học hỏi thêm giáo lý Phật Pháp trước khi Ngài trở về trú xứ Hoa Kỳ sau 3 tuần tham dự Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư và Lễ Mừng 32 năm Khai Sơn Tu Viện Quảng Đức, vào trước giờ có pháp thoại của Tổng Vụ Hoằng Pháp và Giáo Dục của Giáo Hội Úc Châu cùng ngày. Tuy nhiên với sự ngưỡng mộ của con đối với bậc cao tăng trí tuệ viên minh, diệu huyền thông đạt như Ngài, mà những lời Ngài trình bày qua những kinh nghiệm tu chứng hành trì, hạnh giải tương ưng thu thập được trong suốt hơn 46 năm qua đã khiến con phấn chấn tu tập hơn, hầu đạt được mục đích tối cao mà Đức Phật đã truyền trao nên con đã nghe lại đôi lần vào hôm nay để có thể uống được cam lồ qua những lời đáp trao đổi Phật Pháp. Thành kính tri ân TT Thích Nguyên Tạng và HT Thích Đồng Trí và kính xin phép cho con chia sẻ lại những gì con đã học được.
13/07/2022(Xem: 8831)
Phải nói là khi nhận được tin TT Giảng Sư Thích Nguyên Tạng sẽ có bài pháp thoại giảng tại Thiền Lâm Pháp Bảo hôm nay (12/7/2022) lại vừa nghe tin tức mưa lớn và lụt tràn về Sydney mấy ngày qua, thế mà khi nhìn vào màn ảnh livestream lại thấy khuôn viên thiền môn trang nghiêm thanh tịnh quá, dường như thời tiết khí hậu chẳng hề lay động đến nơi chốn này, nơi đang tập trung những người con cầu tiến muốn hướng về một mục đích mà Đức Phật hằng mong chúng ta đạt đến : Vô Sanh để thoát khỏi vòng sinh tử .
15/06/2022(Xem: 7839)
Tôi thật chưa tìm ra cuốn nào như cuốn này, tác giả viết từ những năm 50s, hữu duyên được dịch ra tiếng Việt vào những năm 80s… Tìm lại được bản thảo sau khoảng 33 năm (2021). Tốn thêm một năm hiệu đính trên đường ta bà, gọt dũa lại.
17/11/2021(Xem: 20349)
Nghiệp, phổ thông được hiểu là quy luật nhân quả. Nhân quả cũng chỉ là mối quan hệ về tồn tại và tác dụng của các hiện tượng tâm và vật trong phạm vi thường nghiệm. Lý tính của tất cả mọi tồn tại được Phật chỉ điểm là lý tính duyên khởi.266F[1] Lý tính duyên khởi được nhận thức trên hai trình độ khác nhau. Trong trình độ thông tục của nhận thức thường nghiệm, quan hệ duyên khởi là quan hệ nhân quả. Chân lý của thực tại trong trình độ này được gọi là tục đế, nó có tính quy ước, lệ thuộc mô hình cấu trúc của các căn hay quan năng nhận thức. Nhận thức về sự vật và môi trường chung quanh chắc chắn loài người không giống loài vật. Trong loài người, bối cảnh thiên nhiên và xã hội tạo thành những truyền thống tư duy khác nhau, rồi những dị biệt này dẫn đến chiến tranh tôn giáo.
14/11/2021(Xem: 16749)
Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại xứ Sāvatthi, gần đến ngày an cư nhập hạ suốt ba tháng trong mùa mưa, chư Tỳ khưu từ mọi nơi đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, xin Ngài truyền dạy đề mục thiền định, đối tượng thiền tuệ thích hợp với bản tánh của mỗi Tỳ khưu. Khi ấy, có nhóm năm trăm (500) Tỳ khưu, sau khi thọ giáo đề mục thiền định xong, dẫn nhau đến khu rừng núi thuộc dãy núi Himavantu, nơi ấy có cây cối xanh tươi, có nguồn nước trong lành, không gần cũng không xa xóm làng, chư Tỳ khưu ấy nghỉ đêm tại đó. Sáng hôm sau, chư Tỳ khưu ấy dẫn nhau vào xóm làng để khất thực, dân chúng vùng này khoảng một ngàn (1.000) gia đình, khi nhìn thấy đông đảo chư Tỳ khưu, họ vô cùng hoan hỉ, bởi vì những gia đình sống nơi vùng hẻo lánh này khó thấy, khó gặp được chư Tỳ khưu. Họ hoan hỉ làm phước, dâng cúng vật thực đến chư Tỳ khưu xong, bèn bạch rằng: – Kính bạch chư Đại Đức Tăng, tất cả chúng con kính thỉnh quý Ngài an cư nhập hạ suốt ba tháng mùa mưa tại nơi vùng này, để cho tất cả chúng con có
08/11/2021(Xem: 11800)
Đây chỉ là chiếc thuyền nan, chưa tới bờ bên kia, vẫn còn đầy ảo tưởng chèo ra biển cả. Thân con kiến, chưa gột sạch đất cát, bò dưới chân Hy Mã Lạp Sơn, nghe tiếng vỗ của một bàn tay trên đỉnh cao. Chúng sinh mù, nếm nước biển, ngỡ bát canh riêu cá, Thế gian cháy, mải vui chơi, quên cảnh trí đại viên. Nắm vạt áo vàng tưởng như nắm lấy diệu quang, bay lên muôn cõi, theo tiếng nhạc Càn Thát Bà réo gọi về Tịnh Độ, ngửi mùi trầm Hương Tích, an thần phóng thoát. Con bướm mơ trăng Cực Lạc, con cá ngụp lặn dưới nước đuôi vàng như áo cà sa quẫy trong bể khổ, chờ thiên thủ thiên nhãn nghe tiếng sóng trầm luân vớt lên cõi Thanh văn Duyên giác. Những trang sách còn sở tri chướng của kẻ sĩ loanh quanh thềm chùa Tiêu Sơn tìm bóng Vạn Hạnh, mơ tiên Long Giáng lào xào bàn tay chú tiểu Lan trên đồi sắn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567