Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

22-Chữ TỨC trong đạo Phật

28/01/201109:41(Xem: 8754)
22-Chữ TỨC trong đạo Phật

BƯỚCÐẦU HỌC PHẬT

HòathượngThích Thanh Từ
PhậtLịch 2541-1998

ChữTỨC trong đạo Phật

Ngườiđời và những người mới học đạo đều nhìn sự vậtvới tính cách cố định. Nói ác hẳn là ác, nói thiện hẳnlà thiện, phải hẳn là phải, quấy hẳn là quấy, có hẳnlà có, không hẳn là không... họ không hiểu nổi lối nói"cái này tức là cái kia", trong kinh điển Ðạithừa. Họ cho lối nói này ỡm ờ mờ ám không chấp nhậnđược. Song với tinh thần Ðại thừa Phật giáo, nhìn sựvật thấy rõ không có bản chất cố định, không ngoài nhau.Vì thế, trong kinh nói "Sắc tức là Không, Không tức là Sắc",hay "Phiền não tức Bồ-đề", hoặc "Sanh tử tức Niết-bàn".Chỉ một chữ "Tức" làm sáng tỏ nghĩa không cố định, khôngngoài nhau của các Pháp.

SẮCTỨCLÀ KHÔNG, KHÔNG TỨC LÀ SẮC

Câunày xuất phát từ kinh Bát-nhã. Chữ Sắc ở đây là chỉcho Sắc uẩn. Dưới con mắt đức Phật, thân này do năm uẩnkết hợp thành. Sắc uẩn là phần vật chất; thọ uẩn, tưởnguẩn, hành uẩn, thức uẩn là phần tinh thần. Chẳng riênggì sắc uẩn tức là không, mà thọ, tưởng, hành, thức cũngnhư thế. Bởi vì bản chất mọi uẩn không tự có, do duyênhòa hợp thành. Ðã do nhân duyên hòa hợp thì làm sao cố địnhđược. Trước khi nhân duyên hòa hợp nó không có, sau khinhân duyên ly tán, nó cũng không, chính khi duyên đang hợp phântích ra cũng không có thực thể của nó. Ví như nắm tay, trướckhi co năm ngón lại, không có nắm tay, sau khi buông năm ngónra không có nắm tay, đang khi co năm ngón lại nếu phân tíchtừng ngón cũng không có nắm tay. Thế thì, nắm tay chỉ làcái tên tạm gọi khi co năm ngón lại, chớ không có thựcthể cố định của nắm tay. Sắc uẩn không cố định nênnói "sắc tức là không"; không, khi đủ duyên hợp thành sắcnên nói "không tức là sắc", sắc chẳng ngoài tính chất khôngcố định, không cố định chẳng ngoài sắc, nên nói "sắctức là không, không tức là sắc"! Thấu triệt lý các pháptùy duyên biến chuyển, không đứng yên, không tự thành, làthông suốt câu "sắc tức là không, không tức là sắc".

PHIỀNNÃO TỨC BỒ-ÐỀ

Câunày bàng bạc trong các kinh Ðại thừa. Phiền não là si mêbực bội đau khổ. Bồ-đề là giác ngộ yên tĩnh an vui. Haithứ bản chất trái ngược nhau, tại sao lại nói cái nàytức cái kia? Bởi phiền não bản chất không cố định, khibiết chuyển hoặc biết xả liền thành Bồ-đề. Cái độngkhông ngoài cái tịnh, dừng động tức là tịnh. Cái sángkhông ngoài cái tối, hết tối tức là sáng. Chúng ta cứ quenchạy tìm cái giác ở ngoài cái mê, tìm an vui ngoài đau khổ.Sự thật không phải thế, hết mê tức là giác, dứt khổtức là vui. Thiền sư Tư Nghiệp người Trung Hoa, khi chưa xuấtgia làm nghề hàng thịt. Một hôm mổ heo, bỗng dưng ông thứctỉnh, bỏ nghề đi xuất gia. Khi xuất gia, ông làm bài kệ:

Tạcnhật dạ-xoa tâm
KimtriêuBồ-tát diện
Bồ-tátdữDạ-xoa
Bấtcáchnhất điều tuyến.
Dịch:
Hômqua tâm dạ-xoa,
Ngàynaymặt Bồ-tát
Bồ-tátcùngDạ-xoa
Khôngcáchmột sợi chỉ.
Biếtdừng phiền não tức Bồ-đề, không phải nhọc nhằn tìmkiếm đâu xa. Bồ-đề đã sẵn có nơi mình, do phiền nãodấy khởi phủ che nên Bồ-đề bị ẩn khuất. Một khi phiềnnão lắng xuống thì Bồ-đề hiện tiền. Chúng ta ôm đầymột bụng phiền não chạy tìm Bồ-đề, dù chạy cùng ngànsông muôn núi tìm vẫn không thấy Bồ-đề. Chỉ khéo ngồiyên lại cho phiền não lắng xuống thì Bồ-đề hiện tiền.

Nhưkhitrời đổ mưa to, nước mưa từ hư không mưa xuống làtrong sạch, song rơi đến mặt đất lôi cuốn bụi bặm bùnđất chảy xuống ao hồ, thấy toàn nước đục. Có ngườic?n nước trong xài, ra ao hồ nhìn thấy toàn nước đục khôngbiết làm sao. Gặp người thông minh bảo: nước đục tứclà nước trong, anh ta ngẩn ngơ không hiểu, ông này bảo: Anhcứ gánh về đổ vào lu, lấy ít phèn quậy nhiều vòng chonước cuồn lộn lên, rồi để yên vài tiếng đồng hồ,cặn bụi lắng xuống nước sẽ trong. Anh chàng kia làm đúngnhư người thông minh dạy, kết quả anh được nước trong.

Bởivì nước mưa nguyên là trong, do bụi đất cuốn theo và hòatan trong nước nên trở thành đục. Kẻ khờ thấy nước đụckhác với nước trong, tưởng chừng như nước trong ngoài nướcđục mà có, nên khi cần nước trong thấy nước đục làthất vọng, không biết phải tìm nước trong ở đâu. Ngườitrí biết nước mưa vẫn trong, do bụi đất hòa lẫn nên đục,chỉ cần lóng bụi đất trở thành nước trong. Vì thế, khithấy nước đục, họ vẫn quả quyết nói "nước đục tứclà nước trong". Chữ tức ở đây để chỉ nước trong khôngcố định trong, do duyên hợp thành đục; nước đục khôngcố định đục, do duyên lóng thành trong. Nước đục khôngngoài nước trong mà có; nước trong không thể bỏ nước đụcmà tìm. Bồ-đề và phiền não cũng thế, phiền não khôngcố định phiền não, do duyên hợp thành phiền não, Bồ-đềkhông cố định Bồ-đề, do duyên lóng sạch thành Bồ-đề.Bồ-đề không ngoài phiền não mà có, phiền não không ngoàiBồ-đề mà sanh. Bỏ phiền não chạy tìm Bồ-đề như ngườilưới cá trên không, bẫy chim đáy biển, rốt cuộc chỉ phícông vô ích.

Nướcđục lóng thành nước trong, trẻ con thấy mới được nướctrong, người lớn biết nước trước nguyên trong, nay lóngtrở lại trạng thái cũ, có gì là "được". Nếu trước nướcvốn đục, nay lóng mấy cũng không trở thành trong. Cũng vậy,nếu tất cả chúng sanh không có sẵn tánh giác, dù có tu hànhđến đâu cũng không thể giác được. Chư Phật, Bồ-táttrước cũng là chúng sanh, các Ngài tu hành đã giác ngộ được,tất cả chúng ta nếu biết tu hành chắc chắn sẽ giác ngộnhư các Ngài. Vì thế, chư Phật thấy rõ tất cả chúng sanhđều có tánh giác, vì vô minh phiền não che đậy trở thànhmê, một khi khéo tu lóng sạch vô minh phiền não liền trởlại giác. Từ mê sang giác, chúng sanh tưởng là mới được,nên thấy có chứng có đắc. Chư Phật biết rõ chỉ trởlại tánh giác sẵn có, nên nói vô chứng vô đắc. Vô chứngvô đắc không có nghĩa là không ngơ, mà không còn mê, hằngsống lại tánh giác của mình. Cái đã sẵn có, trở lạivới nó có gì thêm bớt mà nói chứng đắc. Tuy không chứngđắc mà hằng giác chẳng mê, làm sao nói không ngơ được?

Biếttrong nước đục vốn là nước trong, nước đục khéo lóngsẽ thành nước trong, đó là cái thấy của người thông minh.Ðức Phật cũng thế, Ngài thấy tất cả chúng sanh đều sẵncó tánh giác, dù đang mê tánh giác cũng không mất, nên nói"ta thấy tất cả chúng sanh đã thành Phật". Lại có khi Ngàinói "Ta là Phật đã thành, các ông là Phật sẽ thành". Bởichúng ta đã sẵn tánh giác, một khi thức tỉnh huân tu tánhgiác sẽ hiển hiện, việc này không có gì là lạ. Câu Phậtnói trước có vẻ khó hiểu, đã thành Phật tại sao chúngsanh vẫn mê muội loạn cuồng. Bởi vì Phật cũng là mộtchúng sanh như chúng ta, Ngài khéo lóng vô minh phiền não chìmlặng trở thành giác ngộ. Nếu không có tánh giác sẵn, dùNgài tu đến muôn a-tăng-kỳ cũng không ngộ, nói gì ba a-tăng-kỳ.Thấy chúng sanh sẵn có tánh giác, nói "đã thành Phật" thìcó lỗi gì? Có sẵn tánh giác mà cứ quên, mải tạo nghiệpđi trong sanh tử luân hồi, càng luân hồi càng tạo nghiệp,nghiệp mê chồng chất nên thành mê muội loạn cuồng. Mộtphen thức tỉnh, dừng bước luân hồi, nghiệp mê băng hoại,mới tin "ta là Phật sẽ thành".

SANHTỬ TỨC NIẾT-BÀN

Chúngsanh mải trôi lăn, lặn hụp trong biển luân hồi sanh tử,dừng sanh tử được an lành là Niết-bàn. Sanh tử là khổđau. Niết-bàn là an lạc. Sự khổ đau an lạc dường nhưhai mà không phải hai. Như người đi trên vai gánh một gánhnặng đi xa, họ cảm nghe nhọc nhằn vô kể, để gánh nặngxuống nghỉ, họ cảm thấy nhẹ bổng an vui. Cái nhọc nhằnvà an vui người này cảm giác được, dường như hai mà khôngphải hai. Chẳng qua, khi gánh nặng còn đè trĩu trên vai làđau khổ, để gánh nặng xuống thì an vui. Do hết khổ gọilà vui, chớ không có cái vui từ đâu đem đến. Niết-bànvà sanh tử cũng thế, do hết sanh tử gọi là Niết-bàn, khôngcó Niết-bàn ngoài sanh tử.

Chúngsanh tạo nghiệp, lại do nghiệp dẫn chúng sanh loanh quanh lẩnquẩn, không có ngày cùng. Chúng ta vì sự sống tạo nghiệp,nghiệp lại dẫn chúng ta qua lại trong tam giới, lên xuốngtrong sáu đường, không biết bao giờ ra khỏi. Nếu khéo tudừng nghiệp thì bánh xe luân hồi sẽ theo đó mà dừng. Theonghiệp trôi lăn là sanh tử, dừng nghiệp lặng yên là Niết-bàn.Vì thế, cần được Niết-bàn, chúng ta phải dừng nghiệp.Có nhiều người tưởng Niết-bàn là một cảnh giới xa xôiđẹp đẽ như cảnh Cực Lạc chẳng hạn. Họ cố cầu xinPhật, Bồ-tát cho họ được Niết-bàn hoặc tìm minh sư đạtđạo nhờ truyền pháp hay điểm đạo cho họ được Niết-bàn.Họ không ngờ sạch nghiệp tức là Niết-bàn. Nghiệp lạido mình tạo, chỉ cần tìm ra động cơ chủ yếu tạo nghiệp,bắt nó dừng lại thì Niết-bàn hiện tiền. Tâm thức lăngxăng của chúng ta là chủ động tạo nghiệp, khéo tu dừnglặng nó thì Niết-bàn xuất hiện. Dừng ngắn thì đượcNiết-bàn ngắn, dừng lâu thì được Niết-bàn lâu, dừnghẳn thì được Niết-bàn viên mãn.

Sởdĩ có Niết-bàn là do đối với sanh tử mà lập, một khisanh tử dứt sạch thì Niết-bàn cũng không còn chỗ đứng.Kinh có câu "Niết-bàn sanh tử đồng như hoa đốm trong không".Ðã là hai danh từ đối đãi mà lập thì đều không thật.Không có sanh tử thì không có Niết-bàn; không có Niết-bànthì nói gì là sanh tử. Như không có khổ thì không có vui,không có vui thì làm sao biết khổ. Niết-bàn và sanh tử khôngriêng lập và không ngoài nhau, nên nói "Sanh tử tức Niết-bàn".

Sẽcó người bảo, sanh tử là do nghiệp dẫn là pháp sanh diệt,hư dối là phải, Niết-bàn là dứt sạch nghiệp là chân thật,tại sao lại nói hư dối? Quả thật Niết-bàn không hư dối,song danh từ Niết-bàn là hư dối. Thực thể Niết-bàn khôngcó hình dáng để diễn tả, không có ngôn ngữ để nói bàn,nó vượt ngoài pháp đối đãi thế gian. Ngôn ngữ chúng tasử dụng để diễn đạt tâm tư đều nằm trong đối đãikhông thật. Dù là ngôn ngữ Niết-bàn, cũng chỉ là lớp mâyphủ núi, chớ không phải là núi, đứng về núi mà nhìn thìnó là cái hư dối bên ngoài không đáng kể. Thế nên nói"như hoa đốm trong hư không" mà thực thể chẳng phải không.

THIỆNTỨC ÁC, ÁC TỨC THIỆN, PHẢI TỨC QUẤY, QUẤY TỨC PHẢI

Tacó thể nói rộng ra "thiện tức ác, ác tức thiện" hay "phảitức quấy, quấy tức phải"... chẳng hạn. Bởi vì, dù làviệc thiện mà chúng ta cố chấp liền trở thành ác. Ví nhưngười theo tôn giáo A tự thấy là hay là lợi ích, liền khuyênbà con thân quyến cùng theo với mình. Nếu những người thânkhông bằng lòng theo, tức thì sanh tâm giận ghét. Thế khôngphải chấp thiện thành ác là gì? Tuy là việc ác, chúng taý thức được liền bỏ là trở thành thiện. Như anh A nghetheo bạn bè làm việc trộm cắp, gặp người tốt nhắc nhởgiải thích cho A biết việc làm ấy là xấu xa, tội lỗi,A liền bỏ nghề trộm cắp. Quả thật ác biết bỏ liềntrở thành thiện.

Phảiquấy cũng không có tiêu chuẩn cố định, nếu ta chấp vàocái phải của mình liền trở thành quấy. Bao nhiêu việc cãivã chửi lộn đánh lộn đâu không phải do chấp phải màra. Có người nào sau khi đánh lộn, bị người hỏi, dám nhậnlà tôi quấy đâu. Mọi người đều thấy mình phải nên cóẩu đả. Ngược lại, người ý thức việc làm của mìnhlà quấy tự bỏ, liền trở thành phải. Những người lầmđường lạc lối, khi họ thức tỉnh xoay trở lại đườnglành liền trở thành người tốt. Mọi sự việc trong đốiđãi đều như thế cả, không có một sự việc gì là cốđịnh. Cái phải của A không phải là cái phải của B. Cáiphải của nhóm C không phải là cái phải của nhóm D. Cáiphải của xứ này không phải là cái phải của xứ khác.Cái phải của thời gian trước không phải là cái phải củathời gian sau. Thế thì, lấy đâu làm tiêu chuẩn mà chấpphải quấy! Chấp chặt phải quấy là ngu xuẩn là khổ đau.Biết buông xả linh động tùy thời là người khôn ngoan anổn.

CHỮTỨC ÐỐI TRONG VẠN VẬT

Tađi xa hơn ra ngoại giới, với mọi sự vật dùng chữ TỨCvẫn đúng lẽ thật. Như nói "thể lỏng tức là thể hơi"hoặc nói "thể hơi tức là thể lỏng". Nước là thể lỏngđun nóng bốc lên thành hơi, hơi nước lên cao gặp khí lạnhđọng lại rơi xuống thành nước thể lỏng. Cũng có thểnói "thể lỏng tức là thể cứng, thể cứng tức là thểlỏng". Nước là thể lỏng khi để vào tủ lạnh cô đọngthành nước đá thể cứng; nước đá đem để ngoài nắngtan thành nước thể lỏng. Ngoài nước ra, các loại chì, đồng,sắt..., từ thể cứng để vào lò nấu sức nóng lên đến1.000 độ C trở lên sẽ chảy thành thể lỏng, thể lỏngđó đem ra để nguội trở thành cứng... Vì thế, thấu hiểuchữ TỨC là thấy đúng lẽ thật, cũng là thấy tột cùnglý tùy duyên chuyển biến của các pháp. Môn hóa học hiệntại chứng minh sự vật không tự tồn tại, không có cá thểđộc lập, không giữ nguyên một vị trí. Một vật thể nàybị thay đổi chất liệu liền biến thành vật thể khác.Thế nên, con người có thể dùng các thứ nguyên liệu khoahọc đã tìm được, biến chế thành những sản phẩm hữuích cung ứng cho nhân loại cần dùng. Mọi vật thể kết hợpkhông phải đơn thuần, mà sự cấu tạo rất phức tạp. Biếtđược sự cấu tạo của vật thể, người ta sẽ tạo điềukiện biến nó thành những vật theo nhu cầu của mình. Sựbiến hóa đổi thay trong mỗi vật thể đã là bằng chứnghùng hồn về lý không cố định của sự vật. Thấy đượclý không cố định là thấy tột bản tánh của sự vật.Những nguyên tố hợp thành sự vật tuy nhiều song chẳng lắm,do sự kết hợp tăng giảm biến thành muôn vàn sự vật cóđủ thiên hình vạn trạng trên thế gian này. Quả là trongvật này có những nguyên tố của vật khác, trong vật kháccó những nguyên tố của vật này. Thế nên, nói "A tức B,B tức A" là đúng lẽ thật đâu có sai ngoa.

HIỆUDỤNG CHỮ "TỨC" TRONG SỰ TU HÀNH

Hiểurõ chữ TỨC có công hiệu rất lớn trong việc tu hành. A tứclà B, thì A không thật A, B tức là A thì B không thật B. Muônvật tùy duyên thay hình đổi dạng, có cái gì cố định màchấp. Bệnh lớn của con người là cố chấp, chấp càng nặngthì khổ càng nhiều. Mỗi người chấp theo cái thấy, cáinghe, cái sở học, cái suy nghĩ, cái tưởng tượng của mìnhhoặc của nhóm người thân mình, nếu người khác thấy đồngcái thấy của mình, nhóm mình thì thân; thấy khác cái thấycái chấp của mình, nhóm mình thì thù. Ðây là gốc đấutranh gây ra đau khổ cho nhân loại. Sự vật là một dòng biếnthiên, mà mình nhìn theo cái chấp cố định thì làm sao thấyđược lẽ thật, làm sao đem lại sự an bình. Con người khủngkhiếp hãi hùng khi nghe tin mình sắp chết. Sợ chết vì chấpthân là chắc thật lâu dài, bỗng dưng nó sắp tan hoại nênhoảng sợ. Sự nghiệp tài sản cũng chấp cố định bềnlâu, xảy ra tai nạn hỏa hoạn, binh đao, trộm cướp... khiếnphải tan hoại, người ta sẽ đau khổ vô hạn. Tình cảm bạnbè, thân hữu..., chấp mãi mãi không đổi thay; một khi gặpcảnh đổi thay, người ta sẽ thảm sầu vô kể.

Ngườinắm vững nguyên tắc "các pháp không cố định", mọi cốchấp trên từ từ tan rã, khổ đau, sầu thảm, hoảng sợ,hãi hùng dần dần tan biến theo mây khói. Thân sắp chết,sự nghiệp tan vỡ, bạn bè chia lìa... cũng là lẽ đươngnhiên trong dòng biến thiên của vạn vật. Chúng ta chưa canđảm cười trước cảnh ấy, song cũng can đảm nhìn chúngtrôi qua với tâm niệm an bình. Bởi người tu hành là huântập phát minh những lẽ thật ấy. Sở dĩ hiện nay có lắmngười tu khi gặp hoàn cảnh tang thương biến cố liền hoảngsợ bất an, do họ không phát minh những lẽ thật này. Họnghĩ rằng tụng kinh nhiều, niệm Phật lắm, cúng kính hậulà đầy đủ công phu tu hành. Tu bằng cách nhắm ra ngoài,chạy theo hình thức làm sao đạt được lẽ thật, mà làmsuy giảm khổ đau. Họ càng tu thì chấp càng nặng, chấp nặngthì đau khổ càng nhiều. Thế là, tu chỉ tăng khổ, chớ khônghết khổ.

A tứclà B, thì A không thật là A, B tức là A, thì B không thậtlà B, hai bên đều không cố định. Ðã không cố định thìlàm sao dám bảo là thật. Hai bên đều không thật thì khôngthể thành hai. Bởi không thể thành hai là tiến thẳng vào"Pháp môn bất nhị". Thấy vạn vật đối đãi không thật,còn gì để lý giải luận bàn. Vừa phát ra ngôn ngữ là nằmtrong đối đãi, đối đãi thuộc hai bên. Muốn chỉ chỗ cứukính của "Pháp môn bất nhị", ngài Duy-ma-cật chỉ còn cáchlên tòa ngồi lặng thinh. Chính thế mà Bồ-tát Văn-thù tánthán không tiếc lời.









Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
14/12/2022(Xem: 2144)
Đạo đức và Luân lý chẳng những là nền tảng của mọi tôn giáo, mà còn là nền tảng của mọi xã hội loài người. Một xã hội sẽ không hoạt động hoặc phát triển nếu không có Đạo đức và Luân lý; nó sẽ không chịu nổi sự hỗn loạn và bạo lực. Đạo đức và Luân lý cũng đóng vai trò là hệ thống giá trị mà từ đó luật pháp và công lý được hình thành, cùng với các định nghĩa của chúng ta về đúng và sai. Một hệ thống Đạo đức và Luân lý không chỉ tạo ra hòa bình và trật tự trên thế giới này, nó còn cung cấp một mục đích trong cuộc sống. Sống có Đạo đức và Luân lý cho chúng ta cảm giác thành một ơn gọi cao hơn có thể mang bản chất tâm linh, cho phép chúng ta trải nghiệm sự siêu việt vượt qua những cám dỗ vật chất trần tục.
02/11/2022(Xem: 18599)
Đức Phật thuyết giảng giáo nghĩa Đại thừa vì tám lý do, được nêu lên ở trong bài kệ của Đại thừa trang nghiêm kinh luận: "Bất ký diệc đồng hành Bất hành diệc thành tựu Thể, phi thể, năng trị Văn dị bát nhân thành". Bài kệ này nêu lên tám lý do, tám bằng chứng kinh điển Đại thừa là do đức Phật nói chứ không phải là ai khác. Hàng Thanh văn không đủ khả năng để nói đến kinh điển Đại thừa. Hàng Duyên giác không có khả năng để nói đến kinh điển Đại thừa. Bồ tát cũng chưa đủ sự toàn giác để nói kinh điển Đại thừa. Còn đối với ngoại đạo thì đương nhiên không thể nói được một từ nào ở trong kinh điển Đại thừa. Có nhiều vị cố chấp, thiên kiến nói rằng kinh điển Đại thừa do ngoại đạo tuyên thuyết; nói như vậy là hồ đồ, không có luận cứ. Tu tập đến cỡ như hàng Thanh văn, hàng Duyên giác mà còn không nói được kinh điển Đại thừa thì làm gì cái đám ngoại đạo chấp ngã, chấp trước, chấp danh, chấp lợi mà nói được kinh điển Đại thừa. Cho nên nói kinh điển Đại thừa do ngoại đạo nói, đó
02/11/2022(Xem: 14174)
Bấy giờ, tôi khoảng chín tuổi, một hôm đi xem đưa đám tang ông Võ Hờ trong xóm, thấy mọi người đi sau đám tang đều khóc nức nở và tức tối. Thấy họ khóc, tôi cũng khóc, nhưng bấy giờ tôi không biết tại sao tôi lại khóc như vậy.
31/10/2022(Xem: 12479)
SOTAPATTI, quả vị Dự lưu, là cấp bậc đầu tiên trong bốn cấp bậc giác ngộ được đề cập trong Phật giáo Sơ kỳ. Tên gọi của quả vị nầy là từ ý nghĩa của một hành giả nhập vào dòng chảy không thối chuyển (sotāpanna, thánh Dự lưu) đưa đến giải thoát hoàn toàn. Dòng chảy nầy chính là đường thánh tám chi (Bát chi Thánh đạo, SN 55:5, kinh Sāriputta), là dòng sông hướng đến Niết-bàn cũng giống như sông Hằng chảy ra biển cả (SN 45:91, kinh Phương đông). Thời gian cần thiết để dòng sông nầy tiến đến mục tiêu tối hậu là tối đa bảy kiếp sống, không kiếp nào tái sinh trong cõi giới thấp hơn cõi người (SN 55:8, kinh Giảng đường bằng gạch).
29/10/2022(Xem: 6660)
Nhận tin nhắn trễ trên Viber sau khi đã ra khỏi nhà, và mãi đến trưa con mới trở về nên con chỉ nghe lại bài phỏng vấn này do TT Thích Nguyên Tạng có nhã ý cho chúng đệ tử học hỏi thêm giáo lý Phật Pháp trước khi Ngài trở về trú xứ Hoa Kỳ sau 3 tuần tham dự Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư và Lễ Mừng 32 năm Khai Sơn Tu Viện Quảng Đức, vào trước giờ có pháp thoại của Tổng Vụ Hoằng Pháp và Giáo Dục của Giáo Hội Úc Châu cùng ngày. Tuy nhiên với sự ngưỡng mộ của con đối với bậc cao tăng trí tuệ viên minh, diệu huyền thông đạt như Ngài, mà những lời Ngài trình bày qua những kinh nghiệm tu chứng hành trì, hạnh giải tương ưng thu thập được trong suốt hơn 46 năm qua đã khiến con phấn chấn tu tập hơn, hầu đạt được mục đích tối cao mà Đức Phật đã truyền trao nên con đã nghe lại đôi lần vào hôm nay để có thể uống được cam lồ qua những lời đáp trao đổi Phật Pháp. Thành kính tri ân TT Thích Nguyên Tạng và HT Thích Đồng Trí và kính xin phép cho con chia sẻ lại những gì con đã học được.
13/07/2022(Xem: 8791)
Phải nói là khi nhận được tin TT Giảng Sư Thích Nguyên Tạng sẽ có bài pháp thoại giảng tại Thiền Lâm Pháp Bảo hôm nay (12/7/2022) lại vừa nghe tin tức mưa lớn và lụt tràn về Sydney mấy ngày qua, thế mà khi nhìn vào màn ảnh livestream lại thấy khuôn viên thiền môn trang nghiêm thanh tịnh quá, dường như thời tiết khí hậu chẳng hề lay động đến nơi chốn này, nơi đang tập trung những người con cầu tiến muốn hướng về một mục đích mà Đức Phật hằng mong chúng ta đạt đến : Vô Sanh để thoát khỏi vòng sinh tử .
15/06/2022(Xem: 7814)
Tôi thật chưa tìm ra cuốn nào như cuốn này, tác giả viết từ những năm 50s, hữu duyên được dịch ra tiếng Việt vào những năm 80s… Tìm lại được bản thảo sau khoảng 33 năm (2021). Tốn thêm một năm hiệu đính trên đường ta bà, gọt dũa lại.
17/11/2021(Xem: 20281)
Nghiệp, phổ thông được hiểu là quy luật nhân quả. Nhân quả cũng chỉ là mối quan hệ về tồn tại và tác dụng của các hiện tượng tâm và vật trong phạm vi thường nghiệm. Lý tính của tất cả mọi tồn tại được Phật chỉ điểm là lý tính duyên khởi.266F[1] Lý tính duyên khởi được nhận thức trên hai trình độ khác nhau. Trong trình độ thông tục của nhận thức thường nghiệm, quan hệ duyên khởi là quan hệ nhân quả. Chân lý của thực tại trong trình độ này được gọi là tục đế, nó có tính quy ước, lệ thuộc mô hình cấu trúc của các căn hay quan năng nhận thức. Nhận thức về sự vật và môi trường chung quanh chắc chắn loài người không giống loài vật. Trong loài người, bối cảnh thiên nhiên và xã hội tạo thành những truyền thống tư duy khác nhau, rồi những dị biệt này dẫn đến chiến tranh tôn giáo.
14/11/2021(Xem: 16690)
Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại xứ Sāvatthi, gần đến ngày an cư nhập hạ suốt ba tháng trong mùa mưa, chư Tỳ khưu từ mọi nơi đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, xin Ngài truyền dạy đề mục thiền định, đối tượng thiền tuệ thích hợp với bản tánh của mỗi Tỳ khưu. Khi ấy, có nhóm năm trăm (500) Tỳ khưu, sau khi thọ giáo đề mục thiền định xong, dẫn nhau đến khu rừng núi thuộc dãy núi Himavantu, nơi ấy có cây cối xanh tươi, có nguồn nước trong lành, không gần cũng không xa xóm làng, chư Tỳ khưu ấy nghỉ đêm tại đó. Sáng hôm sau, chư Tỳ khưu ấy dẫn nhau vào xóm làng để khất thực, dân chúng vùng này khoảng một ngàn (1.000) gia đình, khi nhìn thấy đông đảo chư Tỳ khưu, họ vô cùng hoan hỉ, bởi vì những gia đình sống nơi vùng hẻo lánh này khó thấy, khó gặp được chư Tỳ khưu. Họ hoan hỉ làm phước, dâng cúng vật thực đến chư Tỳ khưu xong, bèn bạch rằng: – Kính bạch chư Đại Đức Tăng, tất cả chúng con kính thỉnh quý Ngài an cư nhập hạ suốt ba tháng mùa mưa tại nơi vùng này, để cho tất cả chúng con có
08/11/2021(Xem: 11752)
Đây chỉ là chiếc thuyền nan, chưa tới bờ bên kia, vẫn còn đầy ảo tưởng chèo ra biển cả. Thân con kiến, chưa gột sạch đất cát, bò dưới chân Hy Mã Lạp Sơn, nghe tiếng vỗ của một bàn tay trên đỉnh cao. Chúng sinh mù, nếm nước biển, ngỡ bát canh riêu cá, Thế gian cháy, mải vui chơi, quên cảnh trí đại viên. Nắm vạt áo vàng tưởng như nắm lấy diệu quang, bay lên muôn cõi, theo tiếng nhạc Càn Thát Bà réo gọi về Tịnh Độ, ngửi mùi trầm Hương Tích, an thần phóng thoát. Con bướm mơ trăng Cực Lạc, con cá ngụp lặn dưới nước đuôi vàng như áo cà sa quẫy trong bể khổ, chờ thiên thủ thiên nhãn nghe tiếng sóng trầm luân vớt lên cõi Thanh văn Duyên giác. Những trang sách còn sở tri chướng của kẻ sĩ loanh quanh thềm chùa Tiêu Sơn tìm bóng Vạn Hạnh, mơ tiên Long Giáng lào xào bàn tay chú tiểu Lan trên đồi sắn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567