Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

17-Tu trong mọi hoàn cảnh

28/01/201109:41(Xem: 8568)
17-Tu trong mọi hoàn cảnh

BƯỚCÐẦU HỌC PHẬT

HòathượngThích Thanh Từ
PhậtLịch 2541-1998

Tu trongmọi hoàn cảnh

Có nhiềungười nghĩ rằng, tu là phần riêng của những kẻ rảnh rangnhàn hạ, những người thừa của thừa tiền, còn mình làmđầu tắt mặt tối, cơm không đủ no áo không đủ ấm, cóthì giờ đâu mà nói chuyện tu. Hoặc có những người nghĩ,tu là việc của những kẻ thiếu phước bần hàn, cô quả,tật nguyền, nhờ tu họ được an ủi bớt khổ, còn ta phướcnhiều của lắm, thân quyến đầy đàn, đẹp đẽ sang trọngmà tu làm gì. Lại có người nghĩ, tu là việc của nhữngkẻ tội lỗi ác độc, bởi họ tạo nhiều tội lỗi nênphải tu để chuộc tội, còn tôi hiền lành có làm gì hạiai đâu mà tu. Bởi có những quan niệm này, nên người ta khôngmàng không nghĩ đến tu. Họ đâu biết rằng, mọi chúng tatrong tâm niệm có cả xấu lẫn tốt, nếu thả nổi mặc tìnhniệm xấu hoành hành, là sống theo bản năng, mất hết tưcách của con người và sẽ gây tội lỗi ngập trời. Ðểhạn chế tâm niệm xấu, khiến nó tiêu mòn, khởi dậy tâmniệm tốt, khiến nó tăng trưởng, đây là việc làm củangười tu. Có giảm tâm niệm xấu, tăng tâm niệm tốt, ngườinày mới đủ tư cách con người và làm nhiều việc tốt đẹpvới mọi người chung quanh. Thế là, có hoàn cảnh nào màchẳng nên tu?

Cónhững người bận lo sinh kế gia đình, tửng bưng sáng đãcó mặt ở chợ, đến sẩm tối mới về tới nhà, rồi loăn uống giặt giũ cho con cái là tối mò, có rảnh lúc nàođâu mà tu? Nếu bảo những người này phải tụng kinh, phảilần chuỗi niệm Phật, chắc hẳn không thế nào làm được.Nhưng tu ở đây là, bỏ ý nghĩ xấu, nuôi dưỡng ý nghĩ tốt,bỏ lời nói dữ, nói lời nói lành, dừng những hành độngác, tạo những hành động thiện, có mất thì giờ chút nàomà tu không được. Trái lại, chính khi buôn bán làm ăn ấy,chúng ta có ý nghĩ tốt, thốt lời nói lành, có hành độngthiện, người khách hàng mến thương, khiến khách mua hàngcàng lúc càng đông, việc làm ăn dễ phát đạt. Ví như côbán hàng có khách đến mua, giá món hàng một ngàn đồng,cô nói một ngàn hai, chờ khách trả một ngàn là cô bán.Song trớ trêu, người khách không trả một ngàn, mà trả batrăm. Trường hợp này, nếu cô bán hàng không biết tu thìnổi giận quát tháo ầm ĩ, gây ra cuộc cãi vã ồn ào. Ngượclại, cô bán hàng biết tu, chỉ cần cười, nói nhẹ nhàng"trả chưa tới giá, bán không được". Mọi việc êm ái, khôngai thiệt thòi gì, mai kia người khách ấy còn có thể đếngian hàng này mua hàng. Trước những cảnh bất như ý, chúngta biết kềm hãm sự nóng giận, biết lựa lời ôn hòa đểđáp, biết giữ thái độ bình tĩnh, là khéo tu. Ở giữa chợ,mỗi ngày sự bất như ý diễn ra liên tục, nên tu hành làđiều tối cần cho người sống trong hoàn cảnh này. Vì thếngười xưa nói: "Nhất tu thị, nhị tu sơn."

Nếulà người nông phu làm nghề ruộng khi vác cuốc ra đồng,chúng ta nghĩ "cần mẫn làm cho lúa trúng, để có cơm cho giađình mình ăn, vơi ra giúp đồng bào mình cùng có cơm ăn".Quan niệm ấy là ý nghĩ lành, đó là tu. Thấy thửa ruộngbên cạnh tốt hơn ruộng mình, không có tâm đố kỵ, mà lòngmừng thầm bạn mình được lúa trúng, gia đình ấm no...,mình gắng học hỏi theo cách làm ăn ấy, đây là tâm niệmcủa người biết tu. Lại, khi làm việc đắp bờ cuốc ruộng,trong tâm vừa nảy ra niệm xấu, ta liền diệt trừ, trong tâmnảy ra niệm tốt, ta liền khơi dậy cho nó tăng trưởng, ấylà tu, một cuốc là một câu niệm Phật, hoặc một cuốctận kim cang địa ấy là tu.

Làhọc trò bận việc học hành, công phu tu không hề chướngngại. Khi cắp sách đi học, em nghĩ "ta cố gắng học cho giỏi,để mai kia giúp cha mẹ khi tuổi già, có tài để góp côngmình xây dựng quê hương tốt đẹp hơn", đó là em tu. Thầygiáo, cô giáo nhọc sức giảng dạy bài vở, em lắng nghe vàcố học thuộc, vì thương sợ thầy cô buồn, đấy là embiết tu. Bạn bè trong lớp có những trò học giỏi hơn em,em không ganh tỵ, trái lại còn kính phục để bắt chướctheo, ấy là tâm niệm người tu. Người tu là người biếtphục thiện, mỗi khi có lỗi lầm bị rầy, bị phạt, biếtlỗi sửa ngay, không oán hờn trách móc. Có những đứa họchành thua kém và thiếu phương tiện hơn em, em thương mếnhướng dẫn và giúp đỡ nó, là em khéo tu. Xã hội ngày maisáng sủa hơn, tốt đẹp hơn, chính nhờ những mầm non biếttu.

TUTRONG CẢNH NGHÈO KHÓ

Chúngta nghèo tiền nghèo của chớ đâu có nghèo ý nghĩ, lời nói,hành động. Chuyển hóa ý nghĩ xấu thành tốt, lời nói dữthành hiền, hành động ác thành thiện là tu. Việc này đâuđòi có tiền có của, nhàn rỗi mới làm được. Chính trongcuộc sống vất vả nghèo nàn của chúng ta cần thiết phảicó nó. Như có người nghèo khó vất vả mà lòng tốt, lờinói hiền hòa, hành động lương thiện, khiến mọi ngườithương mến giúp đỡ, nhờ đó mọi khó khăn giảm bớt đi.Ngược lại, nếu ở trong cảnh khó khăn mà ý ngang ngạnh,lời nói hung dữ, hành động bạo ngược, khiến ai nghe thấycũng ghét cũng lánh xa, nhờ điều gì họ cũng không giúp,thì khó khăn lại càng khó khăn hơn. Hơn nữa, tâm hồn trongsáng, lời nói hiền hòa, hành động thanh cao, dù chúng ta sốngtrong cảnh nghèo vẫn thấy êm đềm hạnh phúc. Chồng biếtnhường vợ, vợ biết kính chồng, con hiếu thuận cha mẹ,cha mẹ thương yêu con cái, gọi là cuộc sống hạt muối cắnhai, thật là lý tưởng biết bao.

TUTRONG CẢNH BỆNH HOẠN

Bìnhthường người ta cho khi bệnh hoạn là chướng ngại tu hành,đây cũng là quan niệm sai lầm về việc tu. Nếu thấy tụngkinh, tọa thiền mới là tu, khi bệnh hoạn tụng kinh khôngnổi, tọa thiền không được, đó là chướng ngại tu. Songtu cốt ngăn ngừa phiền não, chiến thắng vọng tưởng, dùcó tụng kinh tọa thiền, không tụng kinh tọa thiền đềutu được. Nếu có người bệnh nặng không đi đứng được,nằm một chỗ, khi ấy nằm nhiếp tâm niệm Phật, niệm chítử, chẳng buồn nghĩ đến ai, lo việc gì, chỉ một bề niệmPhật thôi. Ðây là tu đại tinh tấn theo pháp môn Tịnh độ,đâu có chướng ngại gì. Hoặc có người bệnh, không niệmPhật mà thích quán chiếu, liền quán thân này thấy nó làgốc khổ đau, là tướng vô thường, là hiện tượng nhớpnhúa, là không có chủ, nương thân bệnh quán chiếu tườngtận như vậy, thấy được tướng thật của thân, đây làpháp trí tuệ sẽ gần với Niết-bàn, là tu thiền. Khổ nỗi,người Phật tử bình thường tinh tấn tu hành, gặp lúc bệnhhoạn lại thối chuyển, sanh phiền não với con cháu, đâylà việc đáng tiếc. Khi mạnh chúng ta tu, để khi yếu bệnhcó đủ đạo lực tiếp tục, vì lúc này là lúc gần vớitử thần, là phút chiến đấu cuối cùng, nếu ngang đây màdừng, mà hướng đi chiều khác, thật là một việc hoài côngvô ích. Bởi vậy nên, Phật tử chúng ta phải thấy khi bệnhlà cơ hội tốt, dồn hết tâm lực vào sự tu, chuyên tâmkhông lơi niệm, được vậy là gần với Phật, gần Niết-bàn,mới mong thoát khỏi khổ luân hồi muôn kiếp.

TUTRONG CẢNH TẠI GIA

Cómột số Phật tử nghĩ rằng, ở tại gia phiền rộn khó tu,được xuất gia rảnh rang tu hành mới giải thoát. Quan niệmnày cũng không đúng. Nếu thấy tại gia là nhiều việc, vàochùa chắc gì ít việc? Người xưa nói: "Ca-sa vị trước hiềmđa sự, trước dĩ ca-sa sự cánh đa." (Ca-sa chưa mặc than nhiềuviệc, được mặc ca-sa việc lại nhiều.) Câu này thật làchua chát đối với người tu. Ðây quả là sợ ông táo gặpông lò, chạy ô mồ mắc ô mả. Chúng ta đâu không nghe quíthầy trụ trì thường than: "Trụ trì làm dâu trăm họ." Thếlà ít việc hay nhiều việc, phiền rộn hay rảnh rang. Yếuđiểm tu hành là hiểu đạo, vững lòng tin. Ðủ hai điểmnày, ở tại gia hay xuất gia đều tu được. Nếu không đủhai điểm này, dù ở chùa chưa chắc đã tu được. Chúng taphải khéo linh động trong mọi hoàn cảnh, đừng đòi hỏiphải cảnh thế ấy tu mới được. Sự đòi hỏi đó là cáicớ để chúng ta không tu. Vì có những người không thể tạođược hoàn cảnh như ý. Có những Phật tử nam cũng như nữ,con cái đầy đàn đầy đống mà cứ nằng nặc đòi xuấtgia, quăng đại cho người ở nhà làm sao thì làm. Nếu thỏamãn nguyện vọng, vào chùa một lúc, gặp khi gia đình thiếuthốn, con cái nheo nhóc, nóng lòng rồi gởi ca-sa cho chùa trởvề nhà. Ðây là việc làm nông nổi.

CHỨNGMINH MỌI HOÀN CẢNH ÐỀU TU ÐƯỢC

Ngàyxưa, đời Ðường ở Trung Hoa có gia đình ông Bàng Long Uẩn,vẫn làm cư sĩ tại gia, mà tu đến được chỗ sanh tử tựtại. Trong giới học Phật từ trước đến nay vẫn ngưỡngmộ công đức tu hành của gia đình ông. Như trong bài sámtu Tịnh độ đã đọc buổi tối, có câu "in như thiền địnhhọ Bàng thuở xưa..." Ông Bàng Long Uẩn trước theo Nho học,sau nghiên cứu Phật thấy thích thú, ông tìm đến tham vấncác thiền sư. Ban đầu, ông đến hỏi Thiền sư Hy Thiên (ThạchÐầu): "Người không cùng muôn pháp làm bạn là người gì?"Hy Thiên liền bụm miệng ông. Ngay đây ông được ngộ. Sauông đến tham vấn Mã Tổ (Ðạo Nhất), cũng đem câu ấy rahỏi. Mã Tổ bảo: "Ông hớp một ngụm cạn hết sông TâyGiang, ta sẽ vì ông nói." Ông càng tin sâu hơn.

Giađìng ông, hai ông bà và một con trai, một con gái. Ông cấtnhà gần chân núi, mỗi ngày chẻ tre đan sáo, cô con gái gánhra chợ bán. Sống đạm bạc qua ngày để tu hành. Một hôm,trong nhà cùng ngồi bàn việc đạo, ông nói: "Nan nan nan, thậptạ du ma thọ thượng thang." (Khó khó khó, mười tạ dầumè trên cây vuốt.) Bà đáp: "Dị dị dị, bách thảo thượngđầu Tổ sư ý." (Dễ dễ dễ, trên đầu trăm cỏ ý Tổ sư.)Cô con gái tên Linh Chiếu đáp: "Dã bất dị, dã bất nan, cơlai khiết phạn, khốn lai thùy." (Cũng chẳng dễ, cũng chẳngkhó, đói đến thì ăn mệt ngủ khò.) Với cái nhìn của ông,thấy sự tu hành thật khó khăn vô kể, giống như ngườitrèo lên cây cao mà bị thoa dầu, trèo lên tuột xuống, khôngcó chỗ để bám. Trái lại, bà thấy việc tu rất dễ, vìnhìn ở đâu cũng thấy ý Tổ sư tràn khắp. Cô Linh Chiếudung hòa, không nói khó, không nói dễ, khó dễ là hai bên,vượt qua hai bên (nhị kiến) tâm sẽ thanh tịnh thản nhiên,khi ấy chỉ đói đến thì ăn, mệt đến thì ngủ. Câu nóicủa cô Linh Chiếu dễ bị người sau hiểu lầm, người tanghĩ rằng tu thiền là đói ăn mệt ngủ, rồi sống theo bảnnăng, thật là tai họa, chủ yếu cô nói là, khi nào tâm takhông còn mắc kẹt hai bên, khó dễ, tốt xấu, hơn thua, haydở..., mới đến chỗ đói ăn mệt ngủ.

Lại,ông có làm bài kệ nói sự đoàn tụ của gia đình ông nhưsau:

Hữunam bất thú
Hữunữbất giá
Ðạigiađoàn biến đầu
Cộngthuyếtvô sanh thoại.
Dịch:
Cócon trai không cưới vợ
Cócongái không gả chồng
Cảnhàcùng sum họp
Ðồngbànlời vô sanh.
Về già,một hôm ông lên ngựa giữa ngồi chuẩn bị tịch, bảo LinhChiếu: "Con ra sân xem đúng ngọ vô cho cha hay." Cô Linh Chiếura xem trở vào thưa: "Gần đúng ngọ, mặt trời bị nguyệtthực, cha ra xem." Ông ra sân xem, trở vào, thấy Linh Chiếulên ngựa giữa ngồi kiết già tịch. Ông nói: "Con gái ta lanhlợi quá!" Lo mai táng Linh Chiếu xong, ông báo tin cho thân hữuhay sắp tịch. Hôm ấy bạn bè tụ hội, ông nằm gối đầutrên đầu gối Châu Mục Công, nhắm mắt thị tịch. Tin nàyđến bà Long Uẩn, bà ra đồng cho con trai hay, người con traiđang đánh trâu cày ruộng, bà bảo: "Con ơi! Ông già vô trivà con bé ngu si đã bỏ mình đi rồi." Người con trai thưa:"Vậy hở mẹ!" Liền đứng thẳng tịch. Bà nói: "Thằng ngusi này cũng đi nữa." Bà lo mai táng con trai xong, lên núi tịch.Ðây là hiện tượng sanh tử tự tại của gia đình ông BàngLong Uẩn. Ông Long Uẩn đan sáo, cô Linh Chiếu bán sáo ngoàichợ, con trai ông cuốc cày ngoài ruộng, bà Long Uẩn ở nhànấu cơm, đều tu hành đắc lực đến sanh tử tự tại. Tạisao chúng ta lại đổ tại hoàn cảnh này, hoàn cảnh nọ, tukhông được?

ÐếnđờiTrần ở Việt Nam, vua Trần Thánh Tông và Tuệ Trung Thượngsĩ, một ông vua, một ông quan vẫn tu hành đắc lực. Chúngta ôn lại câu chuyện sau đây. Nhân ngày làm tuần cho Hoàngthái hậu, vua Thánh Tông thỉnh các bậc tôn túc đến dựtrai, trong đó có Tuệ Trung Thượng sĩ. Nhà vua yêu cầu cácNgài trình bài kệ ngắn để thấy chỗ kiến giải của cácngài, qua nhiều bài kệ, nhà vua không hài lòng bèn trao giấybút cho Thượng sĩ. Thượng sĩ viết một mạch:

Kiếngiải trình kiến giải
Tợniếtmục tác quái
Niếtmụctác quái liễu
Minhminhthường tự tại.
Dịch:
Kiếngiải trình kiến giải
Nhưdụimắt thấy quái
Dụimắtthấy quái rồi
Rõràngthường tự tại.
Nhà vuađọc xong, liền phê tiếp ở sau:
Minhminh thường tự tại
Diệcniếtmục tác quái
Kiếnquáibất kiến quái
Kỳquáitất tự hoại.
Dịch:
Rõràng thường tự tại
Cũngdụimắt thấy quái
Thấyquáichẳng thấy quái
Quáiấyắt tự hoại.
Kiếngiải của chúng ta không thật, giống như dụi mắt trong hưkhông có những đốm hoa. Khi con mắt bình thường trở lạithì những đốm hoa không còn. Những đốm hoa mất đi, ấylà con mắt sáng. Tâm chúng ta bị kiến giải che mờ, mộtkhi kiến giải lặng mất, lúc ấy mới là tâm chân thật sángsuốt. Vua Thánh Tông và Thượng sĩ chỗ thấy như nhau, khácnhau chỉ đối ngược ý trước sau mà thôi. Thượng sĩ nóicon mắt dụi thấy hoa đốm, khi hết lòa con mắt trước đãsáng rỡ. Thánh Tông nói con mắt trước đã sáng rõ, do dụinên thấy hoa đốm, chính khi thấy hoa đốm, biết là khôngthật thì hoa đốm tự mất, trở lại con mắt sáng như trước.

VuaThánhTông đau nặng, Thượng sĩ biên thơ hỏi thăm. Vua trảlời bằng hai câu thơ:

Viêmviêm thử khí hạn thông thân
Vịtằnguyển ngã nương sanh khố.
Dịch:
Hừnghực hơi nóng toát mồ hôi
Chiếckhốmẹ sanh chưa từng ướt.
Thượngsĩbệnh sơ sài, Ngài kê một giường gỗ nằm tại DưỡngChân Trang. Ngài nằm nghiêng bên phải theo phép cát tường,mắt nhắm lại, người hầu và thê thiếp khóc rống lên.Ngài mở mắt ngồi dậy, sai lấy nước rửa tay súc miệng,liền quở nhẹ rằng:
"-Sốngchết là lẽ thường, buồn thảm luyến tiếc chi, làm nãochân tánh ta".
Nói xong,Ngài nằm xuống yên lặng mà tịch.

Mộtôngvua khi sắp chết, thấy thân tứ đại tan rã đau đớn,song còn một cái chưa bao giờ tan rã, đây là "chiếc khốmẹ sanh". Một ông quan sống trong cảnh thê thiếp tôi tớđầy nhà, mà vẫn nhẹ nhàng thanh thản ra đi, trước mọingười khóc than luyến tiếc. Nếu vì bận rộn khó tu, ai bậnrộn hơn một ông vua, nhất là ông vua vì dân vì nước trướccuộc xâm lăng của phương Bắc. Ai bị ràng buộc hơn mộtông quan, có đủ thê thiếp tôi tớ đầy nhà. Những vị nàytu được, chúng ta không còn lý do gì thối thác khó tu.

Tómlại, chúng ta là con người chưa có ai toàn hảo, cần phảibiết tu để chận đứng những điều xấu dở xuất pháttừ ba nghiệp của mình. Ðồng thời chúng ta khéo nuôi dưỡngnhững hành động tốt đẹp từ thân miệng ý phát ra. Dừngác nuôi thiện là điều không thể thiếu, nơi con người muốnvươn lên. Khước từ tu hành, là chúng ta khước từ sự tiếnbộ, là khước từ mọi đẹp đẽ cao quí, khước từ sựan vui hạnh phúc. Nếu ai quyết chí vươn lên, muốn sống cuộcđời an lạc, muốn gia đình hạnh phúc, muốn xứ sở huy hoàng,tu là chủ yếu thực hiện những điều mong muốn ấy.




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
14/12/2022(Xem: 2161)
Đạo đức và Luân lý chẳng những là nền tảng của mọi tôn giáo, mà còn là nền tảng của mọi xã hội loài người. Một xã hội sẽ không hoạt động hoặc phát triển nếu không có Đạo đức và Luân lý; nó sẽ không chịu nổi sự hỗn loạn và bạo lực. Đạo đức và Luân lý cũng đóng vai trò là hệ thống giá trị mà từ đó luật pháp và công lý được hình thành, cùng với các định nghĩa của chúng ta về đúng và sai. Một hệ thống Đạo đức và Luân lý không chỉ tạo ra hòa bình và trật tự trên thế giới này, nó còn cung cấp một mục đích trong cuộc sống. Sống có Đạo đức và Luân lý cho chúng ta cảm giác thành một ơn gọi cao hơn có thể mang bản chất tâm linh, cho phép chúng ta trải nghiệm sự siêu việt vượt qua những cám dỗ vật chất trần tục.
02/11/2022(Xem: 18656)
Đức Phật thuyết giảng giáo nghĩa Đại thừa vì tám lý do, được nêu lên ở trong bài kệ của Đại thừa trang nghiêm kinh luận: "Bất ký diệc đồng hành Bất hành diệc thành tựu Thể, phi thể, năng trị Văn dị bát nhân thành". Bài kệ này nêu lên tám lý do, tám bằng chứng kinh điển Đại thừa là do đức Phật nói chứ không phải là ai khác. Hàng Thanh văn không đủ khả năng để nói đến kinh điển Đại thừa. Hàng Duyên giác không có khả năng để nói đến kinh điển Đại thừa. Bồ tát cũng chưa đủ sự toàn giác để nói kinh điển Đại thừa. Còn đối với ngoại đạo thì đương nhiên không thể nói được một từ nào ở trong kinh điển Đại thừa. Có nhiều vị cố chấp, thiên kiến nói rằng kinh điển Đại thừa do ngoại đạo tuyên thuyết; nói như vậy là hồ đồ, không có luận cứ. Tu tập đến cỡ như hàng Thanh văn, hàng Duyên giác mà còn không nói được kinh điển Đại thừa thì làm gì cái đám ngoại đạo chấp ngã, chấp trước, chấp danh, chấp lợi mà nói được kinh điển Đại thừa. Cho nên nói kinh điển Đại thừa do ngoại đạo nói, đó
02/11/2022(Xem: 14277)
Bấy giờ, tôi khoảng chín tuổi, một hôm đi xem đưa đám tang ông Võ Hờ trong xóm, thấy mọi người đi sau đám tang đều khóc nức nở và tức tối. Thấy họ khóc, tôi cũng khóc, nhưng bấy giờ tôi không biết tại sao tôi lại khóc như vậy.
31/10/2022(Xem: 12550)
SOTAPATTI, quả vị Dự lưu, là cấp bậc đầu tiên trong bốn cấp bậc giác ngộ được đề cập trong Phật giáo Sơ kỳ. Tên gọi của quả vị nầy là từ ý nghĩa của một hành giả nhập vào dòng chảy không thối chuyển (sotāpanna, thánh Dự lưu) đưa đến giải thoát hoàn toàn. Dòng chảy nầy chính là đường thánh tám chi (Bát chi Thánh đạo, SN 55:5, kinh Sāriputta), là dòng sông hướng đến Niết-bàn cũng giống như sông Hằng chảy ra biển cả (SN 45:91, kinh Phương đông). Thời gian cần thiết để dòng sông nầy tiến đến mục tiêu tối hậu là tối đa bảy kiếp sống, không kiếp nào tái sinh trong cõi giới thấp hơn cõi người (SN 55:8, kinh Giảng đường bằng gạch).
29/10/2022(Xem: 6722)
Nhận tin nhắn trễ trên Viber sau khi đã ra khỏi nhà, và mãi đến trưa con mới trở về nên con chỉ nghe lại bài phỏng vấn này do TT Thích Nguyên Tạng có nhã ý cho chúng đệ tử học hỏi thêm giáo lý Phật Pháp trước khi Ngài trở về trú xứ Hoa Kỳ sau 3 tuần tham dự Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư và Lễ Mừng 32 năm Khai Sơn Tu Viện Quảng Đức, vào trước giờ có pháp thoại của Tổng Vụ Hoằng Pháp và Giáo Dục của Giáo Hội Úc Châu cùng ngày. Tuy nhiên với sự ngưỡng mộ của con đối với bậc cao tăng trí tuệ viên minh, diệu huyền thông đạt như Ngài, mà những lời Ngài trình bày qua những kinh nghiệm tu chứng hành trì, hạnh giải tương ưng thu thập được trong suốt hơn 46 năm qua đã khiến con phấn chấn tu tập hơn, hầu đạt được mục đích tối cao mà Đức Phật đã truyền trao nên con đã nghe lại đôi lần vào hôm nay để có thể uống được cam lồ qua những lời đáp trao đổi Phật Pháp. Thành kính tri ân TT Thích Nguyên Tạng và HT Thích Đồng Trí và kính xin phép cho con chia sẻ lại những gì con đã học được.
13/07/2022(Xem: 8832)
Phải nói là khi nhận được tin TT Giảng Sư Thích Nguyên Tạng sẽ có bài pháp thoại giảng tại Thiền Lâm Pháp Bảo hôm nay (12/7/2022) lại vừa nghe tin tức mưa lớn và lụt tràn về Sydney mấy ngày qua, thế mà khi nhìn vào màn ảnh livestream lại thấy khuôn viên thiền môn trang nghiêm thanh tịnh quá, dường như thời tiết khí hậu chẳng hề lay động đến nơi chốn này, nơi đang tập trung những người con cầu tiến muốn hướng về một mục đích mà Đức Phật hằng mong chúng ta đạt đến : Vô Sanh để thoát khỏi vòng sinh tử .
15/06/2022(Xem: 7847)
Tôi thật chưa tìm ra cuốn nào như cuốn này, tác giả viết từ những năm 50s, hữu duyên được dịch ra tiếng Việt vào những năm 80s… Tìm lại được bản thảo sau khoảng 33 năm (2021). Tốn thêm một năm hiệu đính trên đường ta bà, gọt dũa lại.
17/11/2021(Xem: 20357)
Nghiệp, phổ thông được hiểu là quy luật nhân quả. Nhân quả cũng chỉ là mối quan hệ về tồn tại và tác dụng của các hiện tượng tâm và vật trong phạm vi thường nghiệm. Lý tính của tất cả mọi tồn tại được Phật chỉ điểm là lý tính duyên khởi.266F[1] Lý tính duyên khởi được nhận thức trên hai trình độ khác nhau. Trong trình độ thông tục của nhận thức thường nghiệm, quan hệ duyên khởi là quan hệ nhân quả. Chân lý của thực tại trong trình độ này được gọi là tục đế, nó có tính quy ước, lệ thuộc mô hình cấu trúc của các căn hay quan năng nhận thức. Nhận thức về sự vật và môi trường chung quanh chắc chắn loài người không giống loài vật. Trong loài người, bối cảnh thiên nhiên và xã hội tạo thành những truyền thống tư duy khác nhau, rồi những dị biệt này dẫn đến chiến tranh tôn giáo.
14/11/2021(Xem: 16760)
Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại xứ Sāvatthi, gần đến ngày an cư nhập hạ suốt ba tháng trong mùa mưa, chư Tỳ khưu từ mọi nơi đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, xin Ngài truyền dạy đề mục thiền định, đối tượng thiền tuệ thích hợp với bản tánh của mỗi Tỳ khưu. Khi ấy, có nhóm năm trăm (500) Tỳ khưu, sau khi thọ giáo đề mục thiền định xong, dẫn nhau đến khu rừng núi thuộc dãy núi Himavantu, nơi ấy có cây cối xanh tươi, có nguồn nước trong lành, không gần cũng không xa xóm làng, chư Tỳ khưu ấy nghỉ đêm tại đó. Sáng hôm sau, chư Tỳ khưu ấy dẫn nhau vào xóm làng để khất thực, dân chúng vùng này khoảng một ngàn (1.000) gia đình, khi nhìn thấy đông đảo chư Tỳ khưu, họ vô cùng hoan hỉ, bởi vì những gia đình sống nơi vùng hẻo lánh này khó thấy, khó gặp được chư Tỳ khưu. Họ hoan hỉ làm phước, dâng cúng vật thực đến chư Tỳ khưu xong, bèn bạch rằng: – Kính bạch chư Đại Đức Tăng, tất cả chúng con kính thỉnh quý Ngài an cư nhập hạ suốt ba tháng mùa mưa tại nơi vùng này, để cho tất cả chúng con có
08/11/2021(Xem: 11802)
Đây chỉ là chiếc thuyền nan, chưa tới bờ bên kia, vẫn còn đầy ảo tưởng chèo ra biển cả. Thân con kiến, chưa gột sạch đất cát, bò dưới chân Hy Mã Lạp Sơn, nghe tiếng vỗ của một bàn tay trên đỉnh cao. Chúng sinh mù, nếm nước biển, ngỡ bát canh riêu cá, Thế gian cháy, mải vui chơi, quên cảnh trí đại viên. Nắm vạt áo vàng tưởng như nắm lấy diệu quang, bay lên muôn cõi, theo tiếng nhạc Càn Thát Bà réo gọi về Tịnh Độ, ngửi mùi trầm Hương Tích, an thần phóng thoát. Con bướm mơ trăng Cực Lạc, con cá ngụp lặn dưới nước đuôi vàng như áo cà sa quẫy trong bể khổ, chờ thiên thủ thiên nhãn nghe tiếng sóng trầm luân vớt lên cõi Thanh văn Duyên giác. Những trang sách còn sở tri chướng của kẻ sĩ loanh quanh thềm chùa Tiêu Sơn tìm bóng Vạn Hạnh, mơ tiên Long Giáng lào xào bàn tay chú tiểu Lan trên đồi sắn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567