Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

18-Hoa sen trong bùn

28/01/201109:41(Xem: 8640)
18-Hoa sen trong bùn

BƯỚCÐẦU HỌC PHẬT

HòathượngThích Thanh Từ
PhậtLịch 2541-1998

Hoa sentrong bùn

Có lắmngười xuất gia cũng như tại gia cho rằng, chúng ta tu khôngthể nào giác ngộ thành Phật. Vì đức Phật ra đời có nhữngnhân duyên kỳ đặc, bản chất Ngài đã thánh sẵn rồi; cònchúng ta nào là ham mê dục lạc, nào là tội lỗi đầy đầu,nào là sanh nhằm thời mạt pháp căn cơ yếu kém ngu độnv.v... làm sao tu thành Phật được? Ở đây chúng ta hãy nhìnThái tử là một con người, thật là người để lấy làmmẫu mực hướng theo tu hành.

THÁITỬTẤT-ÐẠT-ÐA (Siddharta) - SỐNG TRONG HOÀNG CUNG

Khilà một ông hoàng ở trong cung cấm, Thái tử bị mọi thứdục lạc bủa vây: nào là vợ đẹp, hầu xinh, Ngài có cảthảy ba bà vợ, bà Cu-tỳ-gia (Gapica), bà Gia-du-đà-la (Yasodhara),bà Lộc giả (Urganica) và cung phi mỹ nữ. Nào là đàn ngọthát hay, cả ngày âm thanh dằng dặc không dừng nghỉ. Nàolà sự chiều chuộng của vua cha, xây cung điện thích hợpbốn mùa, tạo cảnh vui thích không để Ngài có một phútđăm chiêu. Ðây là cảnh thiên đàng ngay trong trần thế, Ngàivui hưởng cảnh này đến năm mười chín tuổi.

THÁITỬ ÐI TU VÀ THÀNH PHẬT

Chỉmột lần Thái tử trông thấy cảnh già, bệnh, chết củacon người, Ngài khổ đau trằn trọc. Tại sao người ta phảichấp nhận lớp người này sanh ra, già, bệnh, chết, rồilớp khác tiếp tục, cứ thế tiếp tục mãi không có ngàycùng? Ngài cương quyết đập tan cái tiền lệ ấy. Vì thế,bao đêm Ngài thức trắng, lòng Ngài băn khoăn đau xót giàyvò, cốt tìm ra lối thoát để cứu mình, cứu chúng sanh. Từđây, sắc đẹp hát hay, trở thành trơ trẽn tầm thườngtrước mắt Ngài. Thức ngon vị ngọt, trở thành nhạt nhẽochán ngán, khi chúng để vào miệng Ngài. Ngài ê chề ngánngẩm mọi thứ dục lạc tạm bợ trá hình. Ngài cương quyếtrời hoàng cung xuất gia tầm đạo. Mặc dù con đường nàygiăng trải trước mắt Ngài muôn vàn nguy hiểm thập tử nhấtsanh, Ngài chấp nhận phải dấn bước. Thế là Ngài xuấtgia lúc mười chín tuổi.

Baonhiêu năm lang thang trong rừng sâu học đạo, con người vươnggiả của Ngài đã pha màu sương gió, đã từng trải mọithứ đắng cay, song ý chí kiên cường quả cảm của Ngàikhông suy giảm. Học đạo không thỏa mãn, Ngài nguyện thựchành khổ hạnh tột cùng. Nhưng thân sắp hoại mà đạo chưathấy, Ngài phải sống trung hòa và đến dưới cội bồ-đềngồi tu bốn mươi chín ngày đêm liền ngộ đạo. Ngang đây,Ngài thành Phật hiệu là Thích-ca Mâu-ni. Ðã qua rồi, con đườngtầm đạo ngót mười một năm.

Saukhi Ngài thành Phật, Ngài nhìn hồ sen thấy có những hoa đãnở tròn đầy, có những hoa còn búp son trinh, có những hoađang trụ hình trong nước, có những mầm sen còn vùi trongbùn nhơ. Song tất cả đều có khả năng nở tròn khoe sắc,nhả hương tinh khiết. Chúng đồng trong lòng đất nhớp nhúavươn lên, khi được hớp sương phơi nắng, chúng đều trònđủ sắc hương như nhau. Ngài thấy con người cũng thế, khisanh ra và lớn lên trong vòng mê dục, một phen tỉnh giác conngười sẽ tiến lên bậc giác ngộ khó gì. Thế là, Ngàilấy hoa sen để biểu trưng cuộc sống và giáo lý của Ngài.Kinh Diệu Pháp Liên Hoa là hình ảnh cụ thể nhất.

PHẬTNGỒI TRÊN ÐÀI SEN

Chúngta đọc lịch sử Phật, ai cũng biết Bồ-tát đến cội bồ-đềtrải cỏ làm tòa ngồi, và thành đạo ngay dưới cội câynày. Hiện nay chúng ta thờ Phật đúng theo tài liệu lịchsử, phải để Ngài ngồi trên tòa cỏ. Tại sao ngày nay chùanào thờ Phật cũng ngồi trên tòa sen? Ðây là để biểu trưngcon người của Ngài. Vì trước kia là ông hoàng, Ngài cũngnhiễm ô ngũ dục, như mầm sen còn ở trong bùn. Khi Ngài vượtthành xuất gia là mầm sen ra khỏi bùn, mà còn ở trong nước.Lúc Ngài ngồi tu ở dưới cội bồ-đề và thành đạo làhoa sen ra khỏi nước nở tròn đầy hương thơm ngào ngạt.Hoa sen lại tượng trưng cho sự bình đẳng giữa mọi người.Ðã là mầm sen thì mầm sen nào cũng có khả năng vươn lênkhỏi bùn, khỏi nước và trổ hoa tươi thắm hương thơm ngạtngào. Ðã là con người thì con người nào cũng có khả năngthoát khỏi dục lạc ô nhiễm, thức tỉnh tu hành và đạtthành đạo quả. Phật quả không phải của riêng một ngườinào, mà của chung tất cả ai có ý chí thoát trần, có quyếttâm đạt đạo. Vì vậy, Phật quả gọi là Vô thượng giác,là giác ngộ không ai trên, song có người bằng; Phật cũngdùng hình ảnh hoa sen để nhắc nhở Phật tử, ở giữa chốnô nhiễm mà khéo vượt ra bằng trí tuệ sáng ngời của mình.

Bàikệ nói :

Nhưgiữa đống rác nhớp.
Quăngbỏnơi bờ đầm
Chỗấyhoa sen nở.
Thơmsạchđẹp ý người.
Cũngvậy,giữa quần sanh.
Uế,nhiễm,mù, phàm tục
Ðệtửbậc Chánh Giác.
Sángngờivới trí tuệ. -- (Pháp cú câu 58-59)
Hoa senmọc chỗ nhớp nhúa mà thơm tho tươi đẹp, sống trong đờinhiễm nhơ mù tối, người Phật tử chúng ta phải khéo dùngtrí tuệ vượt ra để cứu mình, và cứu người. Cái quícủa hoa sen là sanh từ chốn bùn lầy mà tinh khiết, cái caocả của người tu là sống trong mọi dục lạc nhiễm ô màvượt ra an toàn siêu thoát. Hoa hường, hoa lan thơm hơn hoasen, mà không được nhắc tới, vì sanh ở chỗ đất sạch.Nếu Thái tử là người từ trên trời rơi xuống mà đắcđạo thì không có giá trị gì. Chính trong vòng kềm tỏa củadục trần, mà thoát được mới là bậc đại hùng.

CÁNHẢYKHỎI LƯỚI

ÐờiTống ở Trung Hoa có hai Thượng tọa Thâm và Minh. Hai vị códuyên sự cùng sang đò qua sông Hoài. Ðang sang sông, thấy ngườibủa lưới đang kéo, có con cá to nhảy khỏi lưới ra ngoài.Thượng tọa Thâm vỗ tay khen: "Hay thay! Như Thiền sư." Thượngtọa Minh không đồng ý bảo: "Phải ở ngoài lưới mới hay,đợi vào lưới rồi mới nhảy là muộn." Thượng tọa Thâmnói: "Huynh Minh chưa hiểu." Ði hơn dặm đường, Thượng tọaMinh bỗng nhận ra chỗ sai, liền sám hối.

Quacâu chuyện trên, chúng ta thấy thế nào? Con cá trong lướinhảy là hay, con cá thong dong ngoài lưới là hay? Ðạo lý nhàPhật dạy, trong cảnh bủa vây của phiền não mà thoát rađược mới thật là hay. Ðây mới thi thố được sức mạnhphi thường của con người thoát tục. Nếu ở ngoài lướinói gì nhảy, không nhảy làm sao biết được sức mạnh củamình. Hơn nữa, bản thân con người đầy đủ tam bành (tamđộc), lục tặc (sáu giặc) lại sáu trần dụ dỗ cuốn lôi,nếu không phải là bậc siêu quần bạt tụy làm sao thắngtrận giặc nội công ngoại kích này. Cùng là cá, bao nhiêucon khác bị lưới cuốn không thể giãy vùng, cuối cùng bịngười đánh cá bắt bỏ vào giỏ, chỉ một con này nhảyvọt khỏi lưới, không đồng với người xuất trần thoáttục là gì? Nếu chúng ta sanh ra đã là Thánh thì còn nói gìtu. Chính vì chúng ta mang đầy đủ thói hư tật xấu trongmình, chứa đầy tham sân si trong lòng, cho nên gặp cảnh thìnhiễm, trái ý thì sân, quẳng chúng thoát ra, thật là điềukhó khăn trăm phần, ai làm được điều đó, đáng cho chúngta chấp tay tán thán. Vì thế, Tuệ Trung Thượng Sĩ đã làmbài kệ:

XUẤTTRẦN

Tằngvivật dục dịch lao khu
Bàilạctrần hiêu thế ngoại du
Tánthủna biên siêu Phật Tổ
Nhấthồiđẩu tẩu nhất hồi hưu.

Dịch:
RAKHỎI BỤI HỒNG

Ðãtừng ham muốn phải long đong
Némquáchmà ra khỏi bụi hồng
Buôngthõngbờ kia lên Phật Tổ
Mộtlầnphủi giũ một lần xong.

Bởivì chúng ta chạy theo vật dục nhân gian nên phải khổ sởgian nan. Nếu can đảm ném phắt hết, vượt ra ngoài vòng trầnlụy, quả là can đảm phi thường. Có thể, mới buông thõngtay bước lên ngôi nhà Phật Tổ được. Song phải mạnh dạndứt khoát, một lần bỏ đi không thèm ngó lại. Chớ đừnghọc thói nhầy nhụa, dùng dùng thẳng thẳng cắt không đứt,bứt không rời, một chân bước tới hai chân bước lui, khônglàm nên trò trống gì, chỉ chuốc trò cười cho hàng thứcgiả. Bởi vậy nên nhà thiền thường dùng câu "giết ngườikhông ngó lại" là ý này. Phải can đảm dứt khoát thì việckhó mấy cũng thành công.

TRẦNNHÂNTÔNG: ÔNG VUA, TU SĨ

VuaTrần Nhân Tông sanh năm 1258, lên ngôi vua năm hai mươi tuổi,xuất gia năm bốn mươi mốt tuổi và năm mươi mốt tuổitịch (1308). Suốt hai mươi năm, Ngài là bậc nhân chủ lãnhđạo quốc gia giữ nước chăn dân, ngồi trên ngai vàng sốngtrong cung ngọc, mọi thứ dục lạc đều dư thừa. Hai phencầm quân chống giặc xâm lăng, nhân mạng hy sinh rất lớn.Bổn phận giữ nước chăn dân, Ngài làm đầy đủ. Năm bốnmươi mốt tuổi, Ngài nhường ngôi cho con, đi xuất gia. Lúcnhỏ Ngài đã được vua cha và thầy là Tuệ Trung Thượngsĩ chỉ dạy đạo lý thiền nhuần thấm sâu xa, nên khi xuấtgia Ngài không cần tầm học, chỉ thực hiện điều đã họcđược.

Trongmười năm, là kẻ xuất gia Ngài mang hiệu Trúc Lâm Ðầu-đà,tích cực hoạt động truyền bá chánh pháp. Trong giới xuấtgia, Ngài giáo dục chúng Tăng, có khả năng đảm đang giáohội. Trong dân chúng, Ngài đem pháp Thập thiện giáo hóa toàndân, khiến Phật pháp mở rộng trong nhân gian. Công tác hoằngtruyền Phật pháp, giáo hóa nhân dân, Ngài làm suốt đờikhông dừng nghỉ.

Khisắp tịch, Ngài nằm tại Ngọa Vân am sai người gọi BảoSát đến. Ngày một tháng mười một, đúng nửa đêm, saosáng đầy trời, Ngài hỏi: Bây giờ là giờ gì? Bảo Sátthưa: Giờ Tý. Ngài đưa tay ra hiệu mở cửa sổ để nhìnra ngoài, nói: Ðến giờ ta đi vậy. Bảo Sát hỏi: Tôn đứcđi đâu bây giờ? Ngài đọc lại bài kệ:

Nhấtthiết pháp bất sanh
Nhấtthiếtpháp bất diệt
Nhượcnăngnhư thị giải
ChưPhậtthường hiện tiền
Hàkhứlai chi hữu?
Dịch:
Tấtcả pháp chẳng sanh
Tấtcảpháp chẳng diệt
Nếuhiểuđược như thế
ChưPhậtthường hiện tiền
Nàocóđi có lại?
BảoSát hỏi thêm: Khi chẳng sanh chẳng diệt thì sao? Ngài khuatay nói: Thôi đừng nói mê nữa. Rồi Ngài ngồi theo kiểusư tử tọa mà tịch... (Tam Tổ thực lục).

Quabagiai đoạn trên, chúng ta thấy Ngài sống giai đoạn nàora giai đoạn ấy. Lúc làm vua thì quên mình giữ nước, hếtdạ chăn dân. Khi đi tu, nhiệt tâm vì đạo mài miệt tu hành,chẳng ngại nhọc nhằn hết tình với tăng tục. Vì thế,trên đường đời Ngài thành công viên mãn, trên đường đạothì đạo quả viên thành. Chính thái độ dứt khoát tích cực,nên lãnh vực nào Ngài cũng thành công. Ngài cũng hưởng dụclạc trong hoàng cung, cũng cầm binh khiển tướng ngoài trậnmạc, nếu nói là tội lỗi thì cũng tràn trề. Song khi dứtkhoát tiến tu thì cắt đứt mọi quá khứ, sống kham khổtu hành, nên lấy hiệu đầu-đà (khổ hạnh). Với ý chí cươngquyết đó, chỉ trong vòng mười năm, Ngài đã tiến đếnchỗ sanh tử tự tại. Ðây là tấm gương sáng rỡ để nhắcnhở chúng ta, không sợ mình trước mê lầm tội lỗi, chỉsợ xuất gia rồi mà thái độ vẫn mập mờ. Ngài là con ngườithấy được đạo lý và sống được đạo lý. Chúng ta đọcbài kệ kết thúc bài phú Cư Trần Lạc Ðạo của Ngài thìrõ:

Cưtrần lạc đạo thả tùy duyên
Cơtắcxan hề khốn tắc miên
Giatrunghữu bảo hưu tầm mích
Ðốicảnhvô tâm mạc vấn thiền.
Dịch:
Trongđời vui đạo hãy tùy duyên
Ðóiđếnthì ăn mệt nghỉ liền
Nhàmìnhbáu sẵn thôi tìm kiếm
Ðốicảnhkhông tâm, chớ hỏi thiền.
Sốngngay trong lòng trần tục mà khéo biết đạo vẫn thấy an vui.Duyên cảnh đổi thay tùy thời linh động, như khi đói thìăn, khi mệt thì nghỉ, đừng cố chấp cứng nhắc mà tựkhổ đau. Phật đã sẵn nơi ta, khỏi phải nhọc nhằn sangđông tìm tây. Cái khôn ngoan khéo léo của chúng ta là "đốicảnh tâm không động", chính nơi đây là thiền rồi, cònthưa hỏi đâu nữa. Người học đạo nhận thấy Phật đãsẵn nơi tâm mình, song muốn Phật hiện thì tâm đừng chạytheo cảnh. Ðây là lối tu thật giản đơn, thật cụ thể,mà người đời khó tin khó nhận. Người ta chỉ tin Phậtở Tây phương, phải siêng năng lễ bái thì được phước,được Phật rước về cõi Phật. Bởi vậy Tổ Lâm Tế nói:"Người ngu cười ta, kẻ trí biết ta." Cười, vì thấy khôngtụng kinh lễ bái, chẳng biết tu cái gì? Biết, vì thấy lốitu tế nhị cụ thể thiết thực, không còn gì nghi ngờ. Mộtông vua, xuất gia chỉ có mười năm mà đạt đạo như vậy,thật đáng quí kính biết dường nào. Cho nên triều đìnhtôn xưng Ngài là Ðiều Ngự Giác Hoàng.

THÁITỬTẤT-ÐẠT-ÐA VÀ TRẦN NHÂN TÔNG

Tháitử là ông hoàng chưa từng đối đầu với mọi việc khókhăn ở đời, chỉ thấy cảnh già, bệnh, chết là phát tâmđi tu. Mục đích Ngài đi tu để tìm phương pháp phá vỡ cáiluật khắc nghiệt của kiếp con người mà muôn thuở đãchấp nhận. Ngài phải trả cái giá rất đắt là, mười mộtnăm nằm gió phơi sương lang thang trong rừng núi, ăn uốngsơ sài cho đến kiệt sức. Đến khi giác ngộ viên mãn phươngpháp giải thoát sanh tử tuyên bố thành Phật. Ðây là ngườikhai mở con đường đạo giác ngộ giải thoát. Tức là Ngàiđã phá vỡ luật khắc nghiệt (già bệnh chết) chi phối mìnhvà đem ra chỉ dạy mọi người. Việc làm của Ngài là muônthuở không hai.

VuaTrần Nhân Tông là người kế thừa con đường của Phậtđã vạch sẵn. Bởi kế thừa nên công phu đơn giản và nhẹnhàng, chỉ cần đem đuốc mình mồi vào đuốc Phật là cháysáng. Do đó đi tu Ngài không khổ công tầm đạo, chỉ cầnứng dụng đạo đã sẵn vào việc tu hành là thành công. Tuyvậy cũng không phải là việc dễ dàng, mặc dù có công thứcchỉ rõ, muốn ứng dụng công thức ấy phải gan góc cùngmình, phải mạnh tay chặt đứt mọi xiềng vàng xích ngọc,phải hùng dũng nhảy vọt khỏi mấy lớp rào tình cảm bịtbùng.

HaiNgài đều chôn mình trong cung vàng điện ngọc, bị bao vâybởi đám cung nữ phi tần, bị phủ kín trong tiếng đàn ngọthát hay, bị siết chặt bởi mùi thơm vị quí. Song cả haiđều quả cảm thoát ra không chút đoái hoài luyến tiếc.Do đó hai Ngài làm được việc khó làm, để lại cho đờitấm gương phi phàm xuất chúng. Hai Ngài là hai mầm sen chônsâu trong vũng bùn ngũ dục, vươn lên khỏi nước nở tròntươi thắm và tỏa ra mùi hương tinh anh thanh khiết bủa khắpcả trần gian.

Quanhững hình ảnh trên, chúng ta có đủ kinh nghiệm trong việctiến tu, không còn e dè nghi ngại gì nữa. Bởi vì không cóvị nào đã là thánh rồi thành thánh, mà tất cả đều bịbao vây bởi phiền não dục trần. Cái đặc điểm của cácngài là nhạy cảm sớm thức tỉnh và anh dũng khi cần thoátnó. Ðiều đó chúng ta có thể học được, có ai thấy cảnhgià bệnh chết mà chẳng buồn, có ai không khí khái khi thốtra những lời thề bán mạng. Chỉ cần chúng ta triệt đểứng dụng cái nhạy cảm của mình để phát chí tu hành, khéoxoay chuyển cái khí khái của mình vào con đường quyết tửcầu đạo. Dám hạ quyết tâm trên đường hành đạo, chúngta sẽ thu gặt được kết quả chắc chắn không nghi. Chúngta là những mầm sen phơi mình trên bùn ngũ dục, thoát khỏinó để vươn lên có khó gì? Chúng ta đâu có cung vàng điệnngọc, đâu có cung phi mỹ nữ... mọi dục lạc tìm cầu rấtkhó, nếu thoát nó thì hết sức nhẹ nhàng, chỉ cần mộtcái nhảy nhẹ đã ra khỏi rồi, thế mà chúng ta cứ chầnchừ không ưng nhảy. Ðây là yếu điểm muôn kiếp chịu trầmluân của chúng ta.





Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
14/12/2022(Xem: 2162)
Đạo đức và Luân lý chẳng những là nền tảng của mọi tôn giáo, mà còn là nền tảng của mọi xã hội loài người. Một xã hội sẽ không hoạt động hoặc phát triển nếu không có Đạo đức và Luân lý; nó sẽ không chịu nổi sự hỗn loạn và bạo lực. Đạo đức và Luân lý cũng đóng vai trò là hệ thống giá trị mà từ đó luật pháp và công lý được hình thành, cùng với các định nghĩa của chúng ta về đúng và sai. Một hệ thống Đạo đức và Luân lý không chỉ tạo ra hòa bình và trật tự trên thế giới này, nó còn cung cấp một mục đích trong cuộc sống. Sống có Đạo đức và Luân lý cho chúng ta cảm giác thành một ơn gọi cao hơn có thể mang bản chất tâm linh, cho phép chúng ta trải nghiệm sự siêu việt vượt qua những cám dỗ vật chất trần tục.
02/11/2022(Xem: 18664)
Đức Phật thuyết giảng giáo nghĩa Đại thừa vì tám lý do, được nêu lên ở trong bài kệ của Đại thừa trang nghiêm kinh luận: "Bất ký diệc đồng hành Bất hành diệc thành tựu Thể, phi thể, năng trị Văn dị bát nhân thành". Bài kệ này nêu lên tám lý do, tám bằng chứng kinh điển Đại thừa là do đức Phật nói chứ không phải là ai khác. Hàng Thanh văn không đủ khả năng để nói đến kinh điển Đại thừa. Hàng Duyên giác không có khả năng để nói đến kinh điển Đại thừa. Bồ tát cũng chưa đủ sự toàn giác để nói kinh điển Đại thừa. Còn đối với ngoại đạo thì đương nhiên không thể nói được một từ nào ở trong kinh điển Đại thừa. Có nhiều vị cố chấp, thiên kiến nói rằng kinh điển Đại thừa do ngoại đạo tuyên thuyết; nói như vậy là hồ đồ, không có luận cứ. Tu tập đến cỡ như hàng Thanh văn, hàng Duyên giác mà còn không nói được kinh điển Đại thừa thì làm gì cái đám ngoại đạo chấp ngã, chấp trước, chấp danh, chấp lợi mà nói được kinh điển Đại thừa. Cho nên nói kinh điển Đại thừa do ngoại đạo nói, đó
02/11/2022(Xem: 14286)
Bấy giờ, tôi khoảng chín tuổi, một hôm đi xem đưa đám tang ông Võ Hờ trong xóm, thấy mọi người đi sau đám tang đều khóc nức nở và tức tối. Thấy họ khóc, tôi cũng khóc, nhưng bấy giờ tôi không biết tại sao tôi lại khóc như vậy.
31/10/2022(Xem: 12557)
SOTAPATTI, quả vị Dự lưu, là cấp bậc đầu tiên trong bốn cấp bậc giác ngộ được đề cập trong Phật giáo Sơ kỳ. Tên gọi của quả vị nầy là từ ý nghĩa của một hành giả nhập vào dòng chảy không thối chuyển (sotāpanna, thánh Dự lưu) đưa đến giải thoát hoàn toàn. Dòng chảy nầy chính là đường thánh tám chi (Bát chi Thánh đạo, SN 55:5, kinh Sāriputta), là dòng sông hướng đến Niết-bàn cũng giống như sông Hằng chảy ra biển cả (SN 45:91, kinh Phương đông). Thời gian cần thiết để dòng sông nầy tiến đến mục tiêu tối hậu là tối đa bảy kiếp sống, không kiếp nào tái sinh trong cõi giới thấp hơn cõi người (SN 55:8, kinh Giảng đường bằng gạch).
29/10/2022(Xem: 6729)
Nhận tin nhắn trễ trên Viber sau khi đã ra khỏi nhà, và mãi đến trưa con mới trở về nên con chỉ nghe lại bài phỏng vấn này do TT Thích Nguyên Tạng có nhã ý cho chúng đệ tử học hỏi thêm giáo lý Phật Pháp trước khi Ngài trở về trú xứ Hoa Kỳ sau 3 tuần tham dự Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư và Lễ Mừng 32 năm Khai Sơn Tu Viện Quảng Đức, vào trước giờ có pháp thoại của Tổng Vụ Hoằng Pháp và Giáo Dục của Giáo Hội Úc Châu cùng ngày. Tuy nhiên với sự ngưỡng mộ của con đối với bậc cao tăng trí tuệ viên minh, diệu huyền thông đạt như Ngài, mà những lời Ngài trình bày qua những kinh nghiệm tu chứng hành trì, hạnh giải tương ưng thu thập được trong suốt hơn 46 năm qua đã khiến con phấn chấn tu tập hơn, hầu đạt được mục đích tối cao mà Đức Phật đã truyền trao nên con đã nghe lại đôi lần vào hôm nay để có thể uống được cam lồ qua những lời đáp trao đổi Phật Pháp. Thành kính tri ân TT Thích Nguyên Tạng và HT Thích Đồng Trí và kính xin phép cho con chia sẻ lại những gì con đã học được.
13/07/2022(Xem: 8841)
Phải nói là khi nhận được tin TT Giảng Sư Thích Nguyên Tạng sẽ có bài pháp thoại giảng tại Thiền Lâm Pháp Bảo hôm nay (12/7/2022) lại vừa nghe tin tức mưa lớn và lụt tràn về Sydney mấy ngày qua, thế mà khi nhìn vào màn ảnh livestream lại thấy khuôn viên thiền môn trang nghiêm thanh tịnh quá, dường như thời tiết khí hậu chẳng hề lay động đến nơi chốn này, nơi đang tập trung những người con cầu tiến muốn hướng về một mục đích mà Đức Phật hằng mong chúng ta đạt đến : Vô Sanh để thoát khỏi vòng sinh tử .
15/06/2022(Xem: 7851)
Tôi thật chưa tìm ra cuốn nào như cuốn này, tác giả viết từ những năm 50s, hữu duyên được dịch ra tiếng Việt vào những năm 80s… Tìm lại được bản thảo sau khoảng 33 năm (2021). Tốn thêm một năm hiệu đính trên đường ta bà, gọt dũa lại.
17/11/2021(Xem: 20362)
Nghiệp, phổ thông được hiểu là quy luật nhân quả. Nhân quả cũng chỉ là mối quan hệ về tồn tại và tác dụng của các hiện tượng tâm và vật trong phạm vi thường nghiệm. Lý tính của tất cả mọi tồn tại được Phật chỉ điểm là lý tính duyên khởi.266F[1] Lý tính duyên khởi được nhận thức trên hai trình độ khác nhau. Trong trình độ thông tục của nhận thức thường nghiệm, quan hệ duyên khởi là quan hệ nhân quả. Chân lý của thực tại trong trình độ này được gọi là tục đế, nó có tính quy ước, lệ thuộc mô hình cấu trúc của các căn hay quan năng nhận thức. Nhận thức về sự vật và môi trường chung quanh chắc chắn loài người không giống loài vật. Trong loài người, bối cảnh thiên nhiên và xã hội tạo thành những truyền thống tư duy khác nhau, rồi những dị biệt này dẫn đến chiến tranh tôn giáo.
14/11/2021(Xem: 16779)
Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại xứ Sāvatthi, gần đến ngày an cư nhập hạ suốt ba tháng trong mùa mưa, chư Tỳ khưu từ mọi nơi đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, xin Ngài truyền dạy đề mục thiền định, đối tượng thiền tuệ thích hợp với bản tánh của mỗi Tỳ khưu. Khi ấy, có nhóm năm trăm (500) Tỳ khưu, sau khi thọ giáo đề mục thiền định xong, dẫn nhau đến khu rừng núi thuộc dãy núi Himavantu, nơi ấy có cây cối xanh tươi, có nguồn nước trong lành, không gần cũng không xa xóm làng, chư Tỳ khưu ấy nghỉ đêm tại đó. Sáng hôm sau, chư Tỳ khưu ấy dẫn nhau vào xóm làng để khất thực, dân chúng vùng này khoảng một ngàn (1.000) gia đình, khi nhìn thấy đông đảo chư Tỳ khưu, họ vô cùng hoan hỉ, bởi vì những gia đình sống nơi vùng hẻo lánh này khó thấy, khó gặp được chư Tỳ khưu. Họ hoan hỉ làm phước, dâng cúng vật thực đến chư Tỳ khưu xong, bèn bạch rằng: – Kính bạch chư Đại Đức Tăng, tất cả chúng con kính thỉnh quý Ngài an cư nhập hạ suốt ba tháng mùa mưa tại nơi vùng này, để cho tất cả chúng con có
08/11/2021(Xem: 11810)
Đây chỉ là chiếc thuyền nan, chưa tới bờ bên kia, vẫn còn đầy ảo tưởng chèo ra biển cả. Thân con kiến, chưa gột sạch đất cát, bò dưới chân Hy Mã Lạp Sơn, nghe tiếng vỗ của một bàn tay trên đỉnh cao. Chúng sinh mù, nếm nước biển, ngỡ bát canh riêu cá, Thế gian cháy, mải vui chơi, quên cảnh trí đại viên. Nắm vạt áo vàng tưởng như nắm lấy diệu quang, bay lên muôn cõi, theo tiếng nhạc Càn Thát Bà réo gọi về Tịnh Độ, ngửi mùi trầm Hương Tích, an thần phóng thoát. Con bướm mơ trăng Cực Lạc, con cá ngụp lặn dưới nước đuôi vàng như áo cà sa quẫy trong bể khổ, chờ thiên thủ thiên nhãn nghe tiếng sóng trầm luân vớt lên cõi Thanh văn Duyên giác. Những trang sách còn sở tri chướng của kẻ sĩ loanh quanh thềm chùa Tiêu Sơn tìm bóng Vạn Hạnh, mơ tiên Long Giáng lào xào bàn tay chú tiểu Lan trên đồi sắn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567