Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

21-Cốt lõi của đạo Phật

28/01/201109:41(Xem: 7703)
21-Cốt lõi của đạo Phật

BƯỚCÐẦU HỌC PHẬT

HòathượngThích Thanh Từ
PhậtLịch 2541-1998

Cốtlõi của đạo Phật

Chủyếu đạo Phật là chỉ dạy chúng sanh giải thoát mọi khổđau. Song lâu đài giải thoát phải xây dựng trên một nềntảng giác ngộ. Trước phải giác ngộ nhiên hậu mới giảithoát, như nói "biết đúng mới làm đúng". Giác ngộ Giảithoát theo liền bên nhau không thể tách rời được. Cầu Giảithoát mà trước không Giác ngộ là sự mong cầu viển vôngthiếu thực tế. Như người mắc bệnh ghiền á phiện muốnbỏ, mà không ý thức tai hại do ghiền á phiện gây ra, chạycầu thầy bùa, thầy pháp xin bùa phép uống để khỏi ghiền,là xa vời không thực tế. Muốn bỏ bệnh ghiền á phiện,chính người ấy phải nhận thức rõ ràng tai hại của bệnhghiền, đồng thời lập chí cương quyết bỏ á phiện, dùbị cơn ghiền hành hạ thế mấy, liều chết hẳn không táiphạm. Có thế, người ấy khả dĩ thành công việc bỏ ghiềná phiện. Mọi khổ đau trong đời sống con người đều dohành động xấu xa của con người chuốc lấy. Muốn giảithoát mọi đau khổ, con người phải Giác ngộ, cương quyếtđập tan mọi nguyên nhân sanh ra đau khổ. Nhân đau khổ đãnát thì quả khổ đau đâu còn. Vì thế, Giác ngộ Giảithoát là "Cốt Lõi Ðạo Phật".

GIÁCNGỘÐAU KHỔ

Thuởcòn làm Thái tử, sau khi chứng kiến sự sanh già bệnh chếtcủa con người, ngài Tất-đạt-đa quyết tâm xuất gia tầmđạo. Sau khi đã đạt đạo, ngài thấy rõ trong mọi đau khổchỉ luân hồi sanh tử là cái khổ to lớn dai dẳng hơn cả.Cho nên, ngót bốn mươi chín năm Ngài thuyết pháp cốt chỉrõ con đường Giải thoát Sanh tử Luân hồi cho chúng sanh.Ðồng thời Ngài cũng phương tiện vạch bày phương pháp giảmthiểu đau khổ cho những chúng sanh chưa đủ khả năng thoátkhỏi luân hồi.

GIÁCNGỘ LÝ NGHIỆP DẪN

Chúngsanh si mê tạo nghiệp, sức nghiệp lôi kéo chúng sanh đi vàoluân hồi sanh tử. Do nghiệp dẫn dắt chúng sanh mãi trèo lêntuột xuống trong sáu nẻo luân hồi. Có khi chúng ta vui cườiở cõi trời, có khi la hét ở cõi a-tu-la, có lúc nửa cười,nửa mếu ở cõi người, lại có khi kêu la thảm thiết ởđịa ngục, có lúc thất thểu đói khát ở ngạ quỉ, cókhi ngu si sống theo bản năng ở súc sanh. Ðang lúc bị nghiệpdẫn, chúng ta cũng có gặp những cảnh vui, song cái vui ấychỉ trá hình của đau khổ. Vì là cái vui mỏng manh tạm bợ,rốt cuộc đều tan biến theo thời gian. Nghiệp là hành độngtạo tác của con người hoặc nói khác, nghiệp là động lựcthúc đẩy lôi kéo chúng sanh đến nơi thọ quả. Cụ thểhơn, nghiệp là sức bảo tồn mạng sống hiện tại của conngười. Do hành động tạo tác nhiều lần, thành thói quen,có sức mạnh lôi cuốn con người đi theo thói quen là nghiệp.Ban đầu ta làm chủ tạo nghiệp, nghiệp thành, làm chủ chiphối lại chúng ta. Như người khi mới tập uống rượu vàsau khi đã ghiền rượu. Nghiệp dẫn dắt chúng ta lang thangtrong sáu nẻo luân hồi đều do cái sở tập của mình mànên. Sự sống là động, ngừng mọi hoạt động trong thânthì chết. Như mũi tên rời dây cung bay bổng trong không làdo sức đẩy, sức đẩy mãn thì mũi tên phải rơi. Sự sốngcủa thân chúng ta đều do sức nghiệp, nhờ gió nghiệp thuhút tứ đại bên ngoài vào thân, cũng do gió nghiệp tốngtứ đại phế thải trong thân ra ngoài, gió nghiệp dừng thìthân này phải hoại. Có bài tụng:

Ðemvào nhờ gió nghiệp
Tốngracũng gió đưa
Sựhôhấp tuần hoàn
Tấtcảđều do gió.
Mộtphengió nghiệp dừng
Thânnàynhư khúc gỗ.
Thếnên, sự tồn tại của thân hiện nay và sự tiếp nối củathân mai sau đều do nghiệp. Còn nghiệp là còn sự sống vàtiếp nối sự sống. Nghiệp chủ động trong vòng sanh tửcủa chúng sanh.

Nghiệpcónhiều thứ, nói đơn giản chỉ có hai thứ thuộc ba lớpkhác nhau: thiện nghiệp, ác nghiệp, tích lũy nghiệp, cậntử nghiệp, định nghiệp, bất định nghiệp. Những hànhđộng lành tạo thành thói quen là thiện nghiệp, sẽ dẫndắt sanh trong các cõi lành. Những hành động dữ tạo thànhthói quen là ác nghiệp, sẽ lôi cuốn vào các cõi dữ. Tronglục đạo luân hồi, tùy nghiệp lành cao thấp sẽ sanh trongba đường lành: người, a-tu-la, trời. Nghiệp dữ tùy nặngnhẹ sẽ sanh trong ba đường dữ: địa ngục, ngạ quỉ, súcsanh. Vì thế, lành dữ đều do nghiệp, nghiệp lại chính làhành động hằng ngày của chúng ta. Muốn tương lai vui haykhổ đều do ta quyết định. Chính chúng ta là người làmchủ vận mạng của chúng ta, không ai khác có thể đem vuikhổ lại cho chúng ta, kể cả đức Phật. Chúng ta là ngườiđịnh đo?t số phận của mình ngay trong hiện tại và vịlai.

Hằngngày chúng ta gây tạo nghiệp lành hay dữ tích lũy thành sứcmạnh, dẫn dắt chúng ta đến chỗ tương ứng thọ sanh, gọilà tích lũy nghiệp. Thuở Phật tại thế, Thích-ma-ha-nam đếnbạch Phật: Hằng ngày con giữ năm giới tu thập thiện...nếu đi đường gặp cọp dữ, voi dữ hại, khi ấy chết consẽ sanh về đâu? Ðức Phật đáp: Như cây to đang nghiênghẳn về một chiều, bị người cưa sẽ ngã về đâu? Ðâylà hiệu năng của tích lũy nghiệp. Chúng ta sắp chết mànghiệp thiện, ác chưa nghiêng hẳn bên nào, khi ấy tâm niệmthiện dấy mạnh, hoặc tâm niệm ác dấy mạnh liền theo đóthọ sanh, là cận tử nghiệp. Người ta thường quan trọnggiờ phút lâm chung là vì thế. Trợ niệm bằng cách nhắclại giáo pháp mà người sắp chết đã nghe, cho họ dễ tỉnhgiác, hoặc tụng kinh niệm Phật theo sở thích hằng ngày củahọ, khiến thêm sức mạnh để họ đi theo con đường đãchọn. Thân miệng ý cộng tác tạo nghiệp lành hay nghiệpdữ, kết quả tất yếu phải thọ báo lành hay dữ là địnhnghiệp. Thân miệng riêng lẻ tạo nghiệp lành hay dữ, kếtquả có thể thay đổi được là bất định nghiệp. Ví nhưcó người ý thù ghét, miệng chửi, tay đánh một đối phương,sau đó họ ăn năn đến xin lỗi, đối phương dù có tâm lượngrộng rãi đến đâu thử hỏi có tha thứ dễ dàng chăng? Ngượclại, có người vô tình hoặc lầm lẫn chửi hay đánh kẻkhác, sau đó anh biết lỗi đến xin lỗi, chắc chắn nạnnhân kia tha thứ chẳng khó.

GIÁCNGỘ TU NGHIỆP THIỆN

Biếtthân miệng ý là chỗ xuất phát nghiệp, người phát tâm quiy Tam Bảo, trước tiên phải giữ năm giới. Trong năm giớikhông sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm là ba điềuthiện của thân; không nói dối, không uống rượu là hai điềuthiện của miệng. Chỉ tu năm điều thiện này là đủ cungcách một người tốt trong xã hội hiện tại, và sẽ làmngười tốt ở vị lai. Giữ trọn năm giới là đóng cửaba đường ác (địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh), không bao giờta bước chân đến ba chỗ này. Thế nên, Phật chế năm giớilà phương tiện giảm thiểu đau khổ cho con người trong hiệntại và vị lai.

Nếugiữ trọn mười điều thiện sẽ được sanh lên cõi trời,là con đường lành cao nhất trong sáu đường. Giữ mườiđiều thiện là tu đủ ba nghiệp: nơi thân không sát sanh,không trộm cướp, không tà dâm; nơi miệng không nói dối,không nói hai lưỡi (nói lật lọng), không nói hung dữ, khôngnói thêu dệt; nơi ý bớt tham, bớt sân, không tà kiến. Tàkiến là nhận định lệch lạc không đúng lẽ thật, gốctừ si mê mà ra. Phật dạy: "Thấy đúng nhân quả là chánhkiến, thấy sai nhân quả là tà kiến." Ba nghiệp biết tu thiệnlà tạo nguồn an lạc hiện tại và mai sau.

Ngượclại, ba nghiệp tạo đầy đủ mười điều ác là nhân củađịa ngục. Ð?a ngục là đường khổ nhất trong sáu đườngluân hồi. Ðâu đợi xuống địa ngục mới khổ, ngay trongcuộc sống hiện tại này, nếu người làm đủ mười điềuác, sẽ thấy một đời hoàn toàn đau khổ. Chúng ta thử nhìnngười ưa sát sanh, trộm cướp, tà dâm, nói dối, nói hailưỡi, nói thêu dệt, tham lam, sân hận, tà kiến có lúc nàohọ được yên ổn đâu. Dù họ ở địa vị thế nào trongxã hội, bản thân và tâm hồn họ vẫn đen tối và đau khổdài dài.

Phậtdạy người Phật tử tu thập thiện cốt để đầy đủ phướcđức, đời sau sanh ra sẽ được thỏa mãn mọi nhu cầu trongcõi dục giới này. Song đây chưa phải là lối tu giải thoát,đau khổ cứu kính, cần tiến lên những bậc trên nữa mớihoàn toàn giải thoát đau khổ. Tuy nhiên, trên đường tu, trướcgiữ năm giới, kế tu thập thiện là cơ bản là hai nấc thangđầu trên cây thang giải thoát. Thiếu nó, người tu sẽ chớivới không thể tiến lên được.

GIÁCNGỘ DỨT NGHIỆP

Sanhtử gốc do nghiệp dẫn, muốn hết sanh tử phải hết nghiệp.Nghiệp phát xuất từ thân miệng ý, song chủ động là ý.Ý có nghĩ lành dữ, thân miệng mới tạo nghiệp lành dữ.Ý lặng rồi thì thân miệng đâu còn cơ sở tạo nghiệp.Như chiếc xe lăn bánh chạy trên đường, gốc từ cháy xăngnổ máy, muốn xe dừng thì phải hãm xăng tắt máy. Cái chủđộng đã dừng, các bộ phận bị động cũng dừng. Ngườitu quyết giải thoát luân hồi, sanh tử phải chận đứng ýnghiệp. Khi nào ý nghiệp vắng bặt rồi, chắc chắn mìnhthoát ly sanh tử. Phương tiện dừng ý nghiệp: Phật dạy cónhiều lối, gọi là những pháp môn tu. Pháp môn tu thiền,pháp môn tu tịnh độ... Mỗi pháp môn đều nhằm đập chếtcon khỉ ý thức. Tu thiền phải được định, niệm phậtphải nhất tâm. Ðã định thì ý thức đâu còn hoạt động,nhất tâm thì con khỉ ý đã chết lịm rồi. Vì thế tu thiềnđến diệt tận định thì nhập Niết-bàn (vô sanh), niệmPhật đến nhất tâm bất loạn thì thấy Phật A-di-đà đếnđón về cực lạc. Nhập Niết-bàn thì không còn sanh tử,về cực lạc thì hết luân hồi trong lục đạo. Ðược vềCực lạc (vui tột) hay nhập Niết-bàn (vô sanh) mới thậtlà giải thoát khổ đau hoàn toàn miên viễn. Ðây là chỗđức Phật Thích-ca nhằm hướng dẫn chúng sanh đạt đến.

Muốnniệm Phật được nhất tâm phải tin chắc về sự, hoặcnhận thực về lý. Tin chắc về sự, là tin có cõi cực lạc,có đức Phật A-di-đà tiếp dẫn, tin mình niệm Phật sẽđược vãng sanh. Nhận thực về lý, là nhận rõ tâm tịnhthì độ tịnh. Phật A-di-đà là tánh giác của mình, phươngpháp niệm Phật là một cách lóng lặng cho tâm mình thanh tịnh,có câu "Tự tánh Di-đà, duy tâm Tịnh Ðộ". Ðã đủ lòngtin hay nhận thực ấy rồi, hành giả bắt đầu thực hànhbằng niệm danh hiệu đức Phật A-di-đà. Miệng niệm lỗtai lắng nghe, phải nghe rõ ràng từng tiếng niệm của mình,dù niệm thầm cũng vậy. Niệm có chuỗi cũng tốt, không chuỗicũng được. Cốt yếu cột tâm trong sáu chữ Di-đà, khôngcho tâm phóng chạy ra ngoài. Ban đầu niệm Phật có thời khóahay có số chuỗi, sau quen rồi trong bốn oai nghi, trong mọihoạt động đều nhớ niệm Phật. Chỉ ngoài giờ ngủ ra,tất cả giờ đều là giờ niệm Phật. Người niệm Phậttin về sự, sau thời niệm Phật đều phát nguyện hồi hướngsanh về cực lạc. Cõi cực lạc là mục tiêu qui hướng tuyệtđối của người này. Ðức Phật di-đà sẽ đến đón họtrước giờ lâm chung, khẳng định như vậy. Người niệmPhật nhận thực về lý, hướng thẳng về tâm thanh tịnhcủa mình. Như nói "Trì Thành Nguyệt Hiện", hồ nước đàoxong, nước hồ lóng trong thì mặt trăng hiện. Nước hồ tronglà tâm thanh tịnh, bóng trăng hiện là tánh giác hiện bày.Tánh giác là Phật Di-đà, tâm thanh tịnh là cực lạc. Tinvề sự là hướng ra ngoài, nhận thực về lý là nhắm thẳngtâm mình. Tuy sự lý trong ngoài có khác, song trên phương diệnthực hành chủ yếu được nhất tâm. Nhất tâm là mục đíchduy nhất của phương pháp niệm Phật. Dù tin sự hay hiểulý mà niệm Phật không nhất tâm thì cũng chẳng đến đâu.

Muốntu thiền được định tùy trình độ sai khác cũng có nhiềulối tu khác nhau. Tổng quát có hai lối, thiền tiệm thứ vàthiền đốn ngộ.

THIỀNTIỆM THỨ

Thiềntiệm thứ là lối tu thiền theo thứ lớp tuần tự tiến lên,có đề mục, có phương pháp, ứng dụng tu pháp này xong, tiếnlên pháp khác, có sở chứng sở đắc từ thấp đến cao.Như lối tu quán tứ niệm xứ, minh sát tuệ (Xem sách ThiềnNguyên Thủy). Hoặc tu lốiLục diệu pháp môn. Ðâylà sáu cửa mầu nhiệm tiến vào thiền.

Banđầu là Sổ tức, là lối đếm hơi thở. Hít hơi vàocùng, đếm một, thở ra sạch đếm hai. Hoặc cả hai hơi vôhơi ra đếm một, chú tâm vào hơi thở vô và ra đến đâuđều biết, nhớ số từ một đến mười không cho lộn. Ðếnmười đếm lại một, nếu giữa chừng quên số cũng đếmtrở lại một. Cột tâm theo hơi thở và số, vừa dấy nghĩliền kéo lại với số và hơi thở. Chú ý đừng cố đemhơi xuống rún sanh mệt. Hơi vừa dài vừa nhẹ là tốt. Ðếnbao giờ ngồi thiền cả giờ mà chỉ nhớ số và hơi thởlà thành công.

SangTùytứclà theo hơi thở. Ðến đây bỏ không đếm số chỉduyên theo hơi thở ra vào, chú tâm theo hơi thở vô đến đâubiết rõ đến đó, ra đến đâu theo đến đấy. Tâm cộtvới hơi thở, vừa có nghĩ khác kéo lại hơi thở. Theo sáthơi thở không phút giây lơi lỏng, cho đến khi chỉ còn biếthơi thở ra vào không nghĩ gì khác là xong phần tùy tức.

TuChỉ: Dừng tâm ở mũi xem hơi thở ra vào, như người gáccổng nhận diện từng người khách ra vào không sai sót. Trụtâm ở mũi lâu sanh hôn trầm liền khởi quán.

TuQuán: Quán hơi thở ra vào là tướng vô thường mỏng manhtạm bợ. Mạng sống lại nương hơi thở mà còn thì mạngsống cũng mong manh tạm bợ. Quả thật mạng sống chỉ trongkhoảng hơi thở ra vào, thở ra mà không hít vào là chết,có gì là chắc chắn lâu dài. Thấy được lẽ thật này làthấy Ðạo. Hoặc quán hơi thở vào do phổi phồng lên, hơithở ra do phổi xẹp xuống. Khi phổi phồng lên, thì mũi hítkhông khí vào, phổi xẹp xuống thì đẩy không khí ra. Bênngoài có không khí, bên trong có phổi, hợp với tâm lý tácđộng thành sự thở. Sự thở không tự có, đủ duyên mớicó, đã do duyên thì hơi thở không thật. Sự thở đã khôngthật, mạng sống lại nương theo hơi thở mà có thì mạngsống cũng không thật. Quán rõ thấy mạng sống như huyễnhóa là thành công.

TuHoàn: Quán nhiều sanh động, nên xoay lại tìm xem tâm năngquán này ở đâu? Tìm đáo để, không thấy nó thì năng sởtự yên lặng.

TuTịnh: chỗ năng sở yên lặng này là tâm thanh tịnh. Giờngồi thiền xả hết vọng niệm chỉ còn một tâm thanh tịnhlà tu tịnh. Tâm thanh tịnh bền bỉ lâu dài là xong xuôi phầntu Lục diệu pháp môn (cần đọc quyển Lục Diệu Pháp Môncủa Trí Khải Ðại Sư).

THIỀNÐỐN NGỘ

Thiềnđốn ngộ là lối tu trực ngộ bản tâm, gọi là kiến tánhkhởi tu. Không có đề mục, không có phương pháp, không cósở chứng sở đắc, chỉ mê là chúng sanh, ngộ là Phật nênnói "Kiến tánh thành Phật". Lối tu này không tu mà tu, khôngchứng mà chứng. Bởi vì khi hành giả trực nhận bản tâm,biết rõ nơi mình có cái không sanh không diệt, mà từ thuởnào mãi chạy theo cái tâm sanh diệt tạo nghiệp luân hồi.Ngang đây biết rõ bộ mặt sanh diệt của nó, không chạytheo nữa, khi nó dấy lên không cho nối tiếp, không khởi thìlặng yên đừng dấy niệm. Tổ Lâm Tế nói: "Ðã khởi chớtiếp nối, chưa khởi chẳng cần dấy khởi, còn hơn ông hànhcước mười năm." Cổ Ðức cũng nói: "Chớ sợ niệm khởichỉ sợ giác chậm." Thiền sư Vô Nghiệp suốt đời chỉdùng một câu "chớ vọng tưởng" trả lời tất cả câu hỏicủa thiền khách.

Cóngười bảo lối tu này là "Tảo niệm" (quét sạch niệm),song khi ngồi thiền quét, lúc tiếp duyên, xúc cảnh thâu lại.Cứ quét rồi thâu đến bao giờ mới hết niệm? Ðúng thế,nếu người tu chỉ biết quét khi ngồi thiền, lúc ra ngoàithì thâu lại, thật là gian nan cho lối tu này. Song ở đâykhông phải vậy, khi ngồi thiền không theo niệm, lúc ra ngoàithấy các pháp đều duyên hợp hư dối như huyễn hóa khôngcó một pháp đáng lưu tâm, thì làm gì có thâu, ví như ngườiđi chợ, cô ta dạo qua các cửa hàng chen chúc với bao nhiêungười qua lại trên đường phố, nhưng không có vật gì vàngười nào đáng cho cô để ý. Về đến nhà, người nhàhỏi: đi chợ có thấy gì không? Cô đáp: không. Có phải thậtkhông thấy gì chăng? Hẳn không phải thế, chỉ không có gìquan trọng đáng cô chú ý nên nói không thấy gì. Khi tiếpduyên xúc cảnh, hành giả thấy rõ các pháp như huyễn hóa,tự nhiên không có gì đáng để thâu. Bên trong có bao nhiêuvọng tưởng dấy lên đều không tiếp tục, lâu ngày tựhết.

Lạicó người bảo "không theo niệm" nhẹ nhàng quá, nếu ngườitọa thiền bị hôn trầm nặng nề làm sao đuổi được? Nếukhi hôn trầm nặng nề, hành giả chấn chỉnh thân, mở mắtsáng mà không hết, nên khởi niệm tìm xem hôn trầm này xuấtphát từ chỗ nào? Tức là đặt câu hỏi: "Hôn trầm xuấtphát từ chỗ nào?" Theo dõi lùng tìm nó thì hôn trầm sẽtan. Khi gặp tán loạn mãnh liệt cũng thế. Hành giả nên đặtcâu hỏi: "Vọng tưởng này xuất phát từ chỗ nào?" Tìm kiếmnó một lúc sẽ hết. Khi hôn trầm tan, vọng tưởng lặngliền trở lại lối tu "không theo niệm" như trước.

Lốitu này cụ thể hóa bằng mười bức họa "Chăn Trâu ThiềnTông". Mã Tổ hỏi Thiền sư Thạch Củng: Ông làm gì đây?Sư đáp: Con chăn trâu. Mã Tổ hỏi: Chăn như thế nào? Sưđáp: Mỗi khi nó chạy vào ruộng lúa thì lôi mũi kéo lại.Mã Tổ bảo: Thế là ông chăn giỏi, chỉ chăn giữ không chotrâu xâm phạm mạ của người là biết chăn trâu. Con trâulà tâm, chạy loạn vào lúa mạ là vọng khởi theo sáu trần,dừng lại không theo là lôi mũi kéo về. Cứ thế mãi, giờngồi thiền chăn, giờ làm công tác chăn, giờ dạo chơi, tiếpkhách cũng chăn... không lơi lỏng. Thế nên nói, hái rau, chặtcủi, nấu cơm, đều là thiền. Chăn cho đến khi trâu khôngcòn, người chăn cũng mất, đây là hoàn toàn an định. Thiềnsư Lương Giới tìm đến am tranh Hòa thượng Ẩn Sơn hỏi:Hòa thượng ở đây làm gì? Ẩn Sơn đáp: Tôi thấy hai contrâu báng lộn nhau, chạy ùm xuống sông, đến nay không cótin tức. Sư đắp y đảnh lễ. Ðây là mục thứ tám trongmười mục chăn trâu nhà thiền, trâu và chăn đều vắng bặtchỉ còn một vòng tròn trắng. Ðến đây ý nghiệp yên lặngkhông còn lôi kéo vào luân hồi sanh tử nữa. Nếu hàng Nhịthừa đến đây là nhập Niết-bàn, vì đã dứt sạch nghiệpsanh tử.

GIÁCNGỘ PHÁP THÂN

Dứtsạch nghiệp mới gọi là hết sanh tử, chưa phải thành Phật.Về các kinh A-hàm đến đây là chứng Niết-bàn (Vô Sanh) củaA-la-hán. Kinh Pháp Hoa Phật bảo là Hóa thành không phải Bảosở, về Thiền tông gọi đây là đất Vô sanh, là Tử thủy(nước chết) là đầu sào trăm trượng, cần phải vượtqua mới được. Căn cứ vào mười mục chăn trâu nhà Thiền,chỗ này mới là mục thứ tám chăn và trâu đều mất. Phảitiến lên mục thứ chín là lá rụng về cội, nước chảyvề nguồn mới được, mục này gọi là nhập Phật giớihay nhập Pháp thân. Cần vượt lên mục thứ mười là buônglỏng tay vào chợ hay nhập ma giới, mới vuông tròn công đứcthành Phật. Dứt sạch nghiệp mới thoát khỏi đau khổ trongsanh tử cho chính mình, song chưa đạt Pháp thân, chưa viênmãn công đức cứu khổ chúng sanh, cần phải hòa quang đồngtrần làm lợi ích tất cả chúng sanh mới vẹn tròn công đứcthành Phật.

THẦMNGỘ LÀ ÐỦ LÒNG TIN

Cóngười nghĩ, hành giả chưa trực ngộ bản tâm tu thiền đốnngộ được chăng? Trực ngộ bản tâm là chủ yếu của ngườitu thiền đốn ngộ. Song có người chưa ngộ mà đủ lòngtin, tu vẫn được. Xem kinh, đọc luận, hỏi đạo, nghe giảng...thầm nhận mình có bản tâm bất sanh bất diệt, khẳng địnhkhông nghi ngờ, người này tu thiền đốn ngộ được. Thiềnsư Pháp Thường đến hỏi Mã Tổ: Thế nào là Phật? Mã Tổđáp: Tức tâm là Phật. Sư thầm nhận, đến núi Ðại Maicất am tu. Sau Mã Tổ nghe, sai vị Tăng đến thăm dò. Tăngđến hỏi Sư: Hòa thượng gặp Mã Tổ, được cái gì vềở núi này? Sư đáp: Mã Tổ nói với tôi: tức tâm là Phật,tôi bèn đến ở núi này. Tăng thưa: Gần đây Mã Tổ lạinói "Phi tâm phi Phật." Sư bảo: Ông già mê hoặc người, chưacó ngày xong, mặc ông phi tâm phi Phật, tôi chỉ biết tứctâm là Phật. Vị Tăng trở về thuật lại Mã Tổ. Mã Tổnói với đại chúng: Ðại chúng, trái mai đã chín. Ðây làtin nhận mình có bản tâm chân thật một cách chắc chắnlà tu thiền đốn ngộ hay chăn trâu được.

Hoặcgiả nhận rõ vọng tưởng hư dối như sương như khói, khôngtheo, không bị nó dẫn, đến khi nó tan biến hoàn toàn, chântâm hiển lộ. Ngài Huệ Khả sau khi được Tổ Ðạt-ma nhậnlàm môn đồ, Ngài hỏi Tổ: Tâm con chưa an, xin Thầy dạycon phương pháp an tâm? Tổ Ðạt-ma nhìn thẳng vào mặt bảo:Ðem tâm ra ta an cho. Ngài sửng sốt lặng tìm liền đáp: Contìm tâm không được. Tổ Ðạt-ma bảo: Ta đã an tâm cho ông.Ngài Huệ Khả liền biết lối vào. Bình nhật chúng ta thấytâm tưởng lăng xăng, khi nhìn lại thì mất bóng bặt dạng.Thế là nó hư dối không thật. Biết rõ nó hư dối thì nókhông còn khả năng lôi cuốn dẫn dắt chúng ta nữa. Khôngchạy theo không bị dẫn, chẳng an là gì? An tâm là nhìn thẳngbộ mặt hư dối của nó, nó tự tan biến, còn gì nữa màđộng. Thời gian sau, ngài Huệ Khả thưa Tổ Ðạt-ma: Nay conbặt hết các duyên. Tổ Ðạt-ma bảo: Coi chừng rơi vào đoạndiệt. Ngài Huệ Khả thưa: Không rơi. Tổ Ðạt-ma hỏi: Thếnào không rơi? Ngài Huệ Khả thưa: Rõ ràng thường biết,nói không thể đến. Tổ Ðạt-ma nói: Ðây là chỗ truyềncủa chư Phật, chớ có hoài nghi. Thế là, từ nhận biếttâm bất an là hư dối, ngài Huệ Khả chăn nó đến lúc khôngcòn tâm dạng là: "bặt hết các duyên" chỉ còn lại cái:"rõ ràng thường biết" là chỗ chư Phật truyền nhau.

Cónhiều người học đạo đã thầm nhận mình có cái chân thậtsẵn đủ, hoặc biết rõ vọng tâm hư dối, mà vẫn chưa đủlòng tin để tiến tu, họ cứ đòi phải ngộ mới tu được.Quả thật họ đang đuổi theo cái ảo ảnh của danh từ ngộ.Ðâu biết rằng tin chắc không nghi là đã thầm ngộ.

KẾTTHÚC

Trêntiến trình tu tập từ phàm phu đến Phật quả thật là thămthẳm gian truân. Song vì ý thức được sự đau khổ trong kiếpmê lầm, sự đọa đầy trong vòng lục đạo, chúng ta phảinỗ lực tiến tu. Nhờ thắp sáng ngọn đuốc trí tuệ, chúngta mới thấy đường để tháo gỡ những gút mắc của muônngàn sợi dây nghiệp báo. Gỡ sạch những vòng dây nghiệpbáo rồi, chúng ta được thảnh thơi, tự tại. Song, thân bằngquyến thuộc ta, đồng bào, đồng loại ta, đang bị chúngbủa vây bao phủ, đành lòng nào chúng ta lại ngó lơ. Thếlà, vén áo xăn quần, chúng ta lao mình vào cõi trần ai đểdìu dắt nhân loại thoát khỏi vòng khổ ải. Ðây là hìnhảnh Thiền sư vai mang chiếc đãy, tay cầm bầu rượu, kếtbè họp bạn với đám người đầu đường xó chợ. Ðem ánhsáng hòa lẫn với bụi bặm, quả là "đầu tro mặt đất"lang thang. Có thế mới tròn bản nguyện đại bi, mới đủcông đức giải thoát chúng sanh ra khỏi sông mê bể khổ.Cứu mình, độ người được viên mãn, đều đặt gọn trênnền tảng giác ngộ giải thoát của đạo Phật.








Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
14/12/2022(Xem: 2154)
Đạo đức và Luân lý chẳng những là nền tảng của mọi tôn giáo, mà còn là nền tảng của mọi xã hội loài người. Một xã hội sẽ không hoạt động hoặc phát triển nếu không có Đạo đức và Luân lý; nó sẽ không chịu nổi sự hỗn loạn và bạo lực. Đạo đức và Luân lý cũng đóng vai trò là hệ thống giá trị mà từ đó luật pháp và công lý được hình thành, cùng với các định nghĩa của chúng ta về đúng và sai. Một hệ thống Đạo đức và Luân lý không chỉ tạo ra hòa bình và trật tự trên thế giới này, nó còn cung cấp một mục đích trong cuộc sống. Sống có Đạo đức và Luân lý cho chúng ta cảm giác thành một ơn gọi cao hơn có thể mang bản chất tâm linh, cho phép chúng ta trải nghiệm sự siêu việt vượt qua những cám dỗ vật chất trần tục.
02/11/2022(Xem: 18621)
Đức Phật thuyết giảng giáo nghĩa Đại thừa vì tám lý do, được nêu lên ở trong bài kệ của Đại thừa trang nghiêm kinh luận: "Bất ký diệc đồng hành Bất hành diệc thành tựu Thể, phi thể, năng trị Văn dị bát nhân thành". Bài kệ này nêu lên tám lý do, tám bằng chứng kinh điển Đại thừa là do đức Phật nói chứ không phải là ai khác. Hàng Thanh văn không đủ khả năng để nói đến kinh điển Đại thừa. Hàng Duyên giác không có khả năng để nói đến kinh điển Đại thừa. Bồ tát cũng chưa đủ sự toàn giác để nói kinh điển Đại thừa. Còn đối với ngoại đạo thì đương nhiên không thể nói được một từ nào ở trong kinh điển Đại thừa. Có nhiều vị cố chấp, thiên kiến nói rằng kinh điển Đại thừa do ngoại đạo tuyên thuyết; nói như vậy là hồ đồ, không có luận cứ. Tu tập đến cỡ như hàng Thanh văn, hàng Duyên giác mà còn không nói được kinh điển Đại thừa thì làm gì cái đám ngoại đạo chấp ngã, chấp trước, chấp danh, chấp lợi mà nói được kinh điển Đại thừa. Cho nên nói kinh điển Đại thừa do ngoại đạo nói, đó
02/11/2022(Xem: 14211)
Bấy giờ, tôi khoảng chín tuổi, một hôm đi xem đưa đám tang ông Võ Hờ trong xóm, thấy mọi người đi sau đám tang đều khóc nức nở và tức tối. Thấy họ khóc, tôi cũng khóc, nhưng bấy giờ tôi không biết tại sao tôi lại khóc như vậy.
31/10/2022(Xem: 12502)
SOTAPATTI, quả vị Dự lưu, là cấp bậc đầu tiên trong bốn cấp bậc giác ngộ được đề cập trong Phật giáo Sơ kỳ. Tên gọi của quả vị nầy là từ ý nghĩa của một hành giả nhập vào dòng chảy không thối chuyển (sotāpanna, thánh Dự lưu) đưa đến giải thoát hoàn toàn. Dòng chảy nầy chính là đường thánh tám chi (Bát chi Thánh đạo, SN 55:5, kinh Sāriputta), là dòng sông hướng đến Niết-bàn cũng giống như sông Hằng chảy ra biển cả (SN 45:91, kinh Phương đông). Thời gian cần thiết để dòng sông nầy tiến đến mục tiêu tối hậu là tối đa bảy kiếp sống, không kiếp nào tái sinh trong cõi giới thấp hơn cõi người (SN 55:8, kinh Giảng đường bằng gạch).
29/10/2022(Xem: 6680)
Nhận tin nhắn trễ trên Viber sau khi đã ra khỏi nhà, và mãi đến trưa con mới trở về nên con chỉ nghe lại bài phỏng vấn này do TT Thích Nguyên Tạng có nhã ý cho chúng đệ tử học hỏi thêm giáo lý Phật Pháp trước khi Ngài trở về trú xứ Hoa Kỳ sau 3 tuần tham dự Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư và Lễ Mừng 32 năm Khai Sơn Tu Viện Quảng Đức, vào trước giờ có pháp thoại của Tổng Vụ Hoằng Pháp và Giáo Dục của Giáo Hội Úc Châu cùng ngày. Tuy nhiên với sự ngưỡng mộ của con đối với bậc cao tăng trí tuệ viên minh, diệu huyền thông đạt như Ngài, mà những lời Ngài trình bày qua những kinh nghiệm tu chứng hành trì, hạnh giải tương ưng thu thập được trong suốt hơn 46 năm qua đã khiến con phấn chấn tu tập hơn, hầu đạt được mục đích tối cao mà Đức Phật đã truyền trao nên con đã nghe lại đôi lần vào hôm nay để có thể uống được cam lồ qua những lời đáp trao đổi Phật Pháp. Thành kính tri ân TT Thích Nguyên Tạng và HT Thích Đồng Trí và kính xin phép cho con chia sẻ lại những gì con đã học được.
13/07/2022(Xem: 8804)
Phải nói là khi nhận được tin TT Giảng Sư Thích Nguyên Tạng sẽ có bài pháp thoại giảng tại Thiền Lâm Pháp Bảo hôm nay (12/7/2022) lại vừa nghe tin tức mưa lớn và lụt tràn về Sydney mấy ngày qua, thế mà khi nhìn vào màn ảnh livestream lại thấy khuôn viên thiền môn trang nghiêm thanh tịnh quá, dường như thời tiết khí hậu chẳng hề lay động đến nơi chốn này, nơi đang tập trung những người con cầu tiến muốn hướng về một mục đích mà Đức Phật hằng mong chúng ta đạt đến : Vô Sanh để thoát khỏi vòng sinh tử .
15/06/2022(Xem: 7825)
Tôi thật chưa tìm ra cuốn nào như cuốn này, tác giả viết từ những năm 50s, hữu duyên được dịch ra tiếng Việt vào những năm 80s… Tìm lại được bản thảo sau khoảng 33 năm (2021). Tốn thêm một năm hiệu đính trên đường ta bà, gọt dũa lại.
17/11/2021(Xem: 20309)
Nghiệp, phổ thông được hiểu là quy luật nhân quả. Nhân quả cũng chỉ là mối quan hệ về tồn tại và tác dụng của các hiện tượng tâm và vật trong phạm vi thường nghiệm. Lý tính của tất cả mọi tồn tại được Phật chỉ điểm là lý tính duyên khởi.266F[1] Lý tính duyên khởi được nhận thức trên hai trình độ khác nhau. Trong trình độ thông tục của nhận thức thường nghiệm, quan hệ duyên khởi là quan hệ nhân quả. Chân lý của thực tại trong trình độ này được gọi là tục đế, nó có tính quy ước, lệ thuộc mô hình cấu trúc của các căn hay quan năng nhận thức. Nhận thức về sự vật và môi trường chung quanh chắc chắn loài người không giống loài vật. Trong loài người, bối cảnh thiên nhiên và xã hội tạo thành những truyền thống tư duy khác nhau, rồi những dị biệt này dẫn đến chiến tranh tôn giáo.
14/11/2021(Xem: 16721)
Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại xứ Sāvatthi, gần đến ngày an cư nhập hạ suốt ba tháng trong mùa mưa, chư Tỳ khưu từ mọi nơi đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, xin Ngài truyền dạy đề mục thiền định, đối tượng thiền tuệ thích hợp với bản tánh của mỗi Tỳ khưu. Khi ấy, có nhóm năm trăm (500) Tỳ khưu, sau khi thọ giáo đề mục thiền định xong, dẫn nhau đến khu rừng núi thuộc dãy núi Himavantu, nơi ấy có cây cối xanh tươi, có nguồn nước trong lành, không gần cũng không xa xóm làng, chư Tỳ khưu ấy nghỉ đêm tại đó. Sáng hôm sau, chư Tỳ khưu ấy dẫn nhau vào xóm làng để khất thực, dân chúng vùng này khoảng một ngàn (1.000) gia đình, khi nhìn thấy đông đảo chư Tỳ khưu, họ vô cùng hoan hỉ, bởi vì những gia đình sống nơi vùng hẻo lánh này khó thấy, khó gặp được chư Tỳ khưu. Họ hoan hỉ làm phước, dâng cúng vật thực đến chư Tỳ khưu xong, bèn bạch rằng: – Kính bạch chư Đại Đức Tăng, tất cả chúng con kính thỉnh quý Ngài an cư nhập hạ suốt ba tháng mùa mưa tại nơi vùng này, để cho tất cả chúng con có
08/11/2021(Xem: 11777)
Đây chỉ là chiếc thuyền nan, chưa tới bờ bên kia, vẫn còn đầy ảo tưởng chèo ra biển cả. Thân con kiến, chưa gột sạch đất cát, bò dưới chân Hy Mã Lạp Sơn, nghe tiếng vỗ của một bàn tay trên đỉnh cao. Chúng sinh mù, nếm nước biển, ngỡ bát canh riêu cá, Thế gian cháy, mải vui chơi, quên cảnh trí đại viên. Nắm vạt áo vàng tưởng như nắm lấy diệu quang, bay lên muôn cõi, theo tiếng nhạc Càn Thát Bà réo gọi về Tịnh Độ, ngửi mùi trầm Hương Tích, an thần phóng thoát. Con bướm mơ trăng Cực Lạc, con cá ngụp lặn dưới nước đuôi vàng như áo cà sa quẫy trong bể khổ, chờ thiên thủ thiên nhãn nghe tiếng sóng trầm luân vớt lên cõi Thanh văn Duyên giác. Những trang sách còn sở tri chướng của kẻ sĩ loanh quanh thềm chùa Tiêu Sơn tìm bóng Vạn Hạnh, mơ tiên Long Giáng lào xào bàn tay chú tiểu Lan trên đồi sắn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567