Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

18-Hoa sen trong bùn

28/01/201109:41(Xem: 8642)
18-Hoa sen trong bùn

BƯỚCÐẦU HỌC PHẬT

HòathượngThích Thanh Từ
PhậtLịch 2541-1998

Hoa sentrong bùn

Có lắmngười xuất gia cũng như tại gia cho rằng, chúng ta tu khôngthể nào giác ngộ thành Phật. Vì đức Phật ra đời có nhữngnhân duyên kỳ đặc, bản chất Ngài đã thánh sẵn rồi; cònchúng ta nào là ham mê dục lạc, nào là tội lỗi đầy đầu,nào là sanh nhằm thời mạt pháp căn cơ yếu kém ngu độnv.v... làm sao tu thành Phật được? Ở đây chúng ta hãy nhìnThái tử là một con người, thật là người để lấy làmmẫu mực hướng theo tu hành.

THÁITỬTẤT-ÐẠT-ÐA (Siddharta) - SỐNG TRONG HOÀNG CUNG

Khilà một ông hoàng ở trong cung cấm, Thái tử bị mọi thứdục lạc bủa vây: nào là vợ đẹp, hầu xinh, Ngài có cảthảy ba bà vợ, bà Cu-tỳ-gia (Gapica), bà Gia-du-đà-la (Yasodhara),bà Lộc giả (Urganica) và cung phi mỹ nữ. Nào là đàn ngọthát hay, cả ngày âm thanh dằng dặc không dừng nghỉ. Nàolà sự chiều chuộng của vua cha, xây cung điện thích hợpbốn mùa, tạo cảnh vui thích không để Ngài có một phútđăm chiêu. Ðây là cảnh thiên đàng ngay trong trần thế, Ngàivui hưởng cảnh này đến năm mười chín tuổi.

THÁITỬ ÐI TU VÀ THÀNH PHẬT

Chỉmột lần Thái tử trông thấy cảnh già, bệnh, chết củacon người, Ngài khổ đau trằn trọc. Tại sao người ta phảichấp nhận lớp người này sanh ra, già, bệnh, chết, rồilớp khác tiếp tục, cứ thế tiếp tục mãi không có ngàycùng? Ngài cương quyết đập tan cái tiền lệ ấy. Vì thế,bao đêm Ngài thức trắng, lòng Ngài băn khoăn đau xót giàyvò, cốt tìm ra lối thoát để cứu mình, cứu chúng sanh. Từđây, sắc đẹp hát hay, trở thành trơ trẽn tầm thườngtrước mắt Ngài. Thức ngon vị ngọt, trở thành nhạt nhẽochán ngán, khi chúng để vào miệng Ngài. Ngài ê chề ngánngẩm mọi thứ dục lạc tạm bợ trá hình. Ngài cương quyếtrời hoàng cung xuất gia tầm đạo. Mặc dù con đường nàygiăng trải trước mắt Ngài muôn vàn nguy hiểm thập tử nhấtsanh, Ngài chấp nhận phải dấn bước. Thế là Ngài xuấtgia lúc mười chín tuổi.

Baonhiêu năm lang thang trong rừng sâu học đạo, con người vươnggiả của Ngài đã pha màu sương gió, đã từng trải mọithứ đắng cay, song ý chí kiên cường quả cảm của Ngàikhông suy giảm. Học đạo không thỏa mãn, Ngài nguyện thựchành khổ hạnh tột cùng. Nhưng thân sắp hoại mà đạo chưathấy, Ngài phải sống trung hòa và đến dưới cội bồ-đềngồi tu bốn mươi chín ngày đêm liền ngộ đạo. Ngang đây,Ngài thành Phật hiệu là Thích-ca Mâu-ni. Ðã qua rồi, con đườngtầm đạo ngót mười một năm.

Saukhi Ngài thành Phật, Ngài nhìn hồ sen thấy có những hoa đãnở tròn đầy, có những hoa còn búp son trinh, có những hoađang trụ hình trong nước, có những mầm sen còn vùi trongbùn nhơ. Song tất cả đều có khả năng nở tròn khoe sắc,nhả hương tinh khiết. Chúng đồng trong lòng đất nhớp nhúavươn lên, khi được hớp sương phơi nắng, chúng đều trònđủ sắc hương như nhau. Ngài thấy con người cũng thế, khisanh ra và lớn lên trong vòng mê dục, một phen tỉnh giác conngười sẽ tiến lên bậc giác ngộ khó gì. Thế là, Ngàilấy hoa sen để biểu trưng cuộc sống và giáo lý của Ngài.Kinh Diệu Pháp Liên Hoa là hình ảnh cụ thể nhất.

PHẬTNGỒI TRÊN ÐÀI SEN

Chúngta đọc lịch sử Phật, ai cũng biết Bồ-tát đến cội bồ-đềtrải cỏ làm tòa ngồi, và thành đạo ngay dưới cội câynày. Hiện nay chúng ta thờ Phật đúng theo tài liệu lịchsử, phải để Ngài ngồi trên tòa cỏ. Tại sao ngày nay chùanào thờ Phật cũng ngồi trên tòa sen? Ðây là để biểu trưngcon người của Ngài. Vì trước kia là ông hoàng, Ngài cũngnhiễm ô ngũ dục, như mầm sen còn ở trong bùn. Khi Ngài vượtthành xuất gia là mầm sen ra khỏi bùn, mà còn ở trong nước.Lúc Ngài ngồi tu ở dưới cội bồ-đề và thành đạo làhoa sen ra khỏi nước nở tròn đầy hương thơm ngào ngạt.Hoa sen lại tượng trưng cho sự bình đẳng giữa mọi người.Ðã là mầm sen thì mầm sen nào cũng có khả năng vươn lênkhỏi bùn, khỏi nước và trổ hoa tươi thắm hương thơm ngạtngào. Ðã là con người thì con người nào cũng có khả năngthoát khỏi dục lạc ô nhiễm, thức tỉnh tu hành và đạtthành đạo quả. Phật quả không phải của riêng một ngườinào, mà của chung tất cả ai có ý chí thoát trần, có quyếttâm đạt đạo. Vì vậy, Phật quả gọi là Vô thượng giác,là giác ngộ không ai trên, song có người bằng; Phật cũngdùng hình ảnh hoa sen để nhắc nhở Phật tử, ở giữa chốnô nhiễm mà khéo vượt ra bằng trí tuệ sáng ngời của mình.

Bàikệ nói :

Nhưgiữa đống rác nhớp.
Quăngbỏnơi bờ đầm
Chỗấyhoa sen nở.
Thơmsạchđẹp ý người.
Cũngvậy,giữa quần sanh.
Uế,nhiễm,mù, phàm tục
Ðệtửbậc Chánh Giác.
Sángngờivới trí tuệ. -- (Pháp cú câu 58-59)
Hoa senmọc chỗ nhớp nhúa mà thơm tho tươi đẹp, sống trong đờinhiễm nhơ mù tối, người Phật tử chúng ta phải khéo dùngtrí tuệ vượt ra để cứu mình, và cứu người. Cái quícủa hoa sen là sanh từ chốn bùn lầy mà tinh khiết, cái caocả của người tu là sống trong mọi dục lạc nhiễm ô màvượt ra an toàn siêu thoát. Hoa hường, hoa lan thơm hơn hoasen, mà không được nhắc tới, vì sanh ở chỗ đất sạch.Nếu Thái tử là người từ trên trời rơi xuống mà đắcđạo thì không có giá trị gì. Chính trong vòng kềm tỏa củadục trần, mà thoát được mới là bậc đại hùng.

CÁNHẢYKHỎI LƯỚI

ÐờiTống ở Trung Hoa có hai Thượng tọa Thâm và Minh. Hai vị códuyên sự cùng sang đò qua sông Hoài. Ðang sang sông, thấy ngườibủa lưới đang kéo, có con cá to nhảy khỏi lưới ra ngoài.Thượng tọa Thâm vỗ tay khen: "Hay thay! Như Thiền sư." Thượngtọa Minh không đồng ý bảo: "Phải ở ngoài lưới mới hay,đợi vào lưới rồi mới nhảy là muộn." Thượng tọa Thâmnói: "Huynh Minh chưa hiểu." Ði hơn dặm đường, Thượng tọaMinh bỗng nhận ra chỗ sai, liền sám hối.

Quacâu chuyện trên, chúng ta thấy thế nào? Con cá trong lướinhảy là hay, con cá thong dong ngoài lưới là hay? Ðạo lý nhàPhật dạy, trong cảnh bủa vây của phiền não mà thoát rađược mới thật là hay. Ðây mới thi thố được sức mạnhphi thường của con người thoát tục. Nếu ở ngoài lướinói gì nhảy, không nhảy làm sao biết được sức mạnh củamình. Hơn nữa, bản thân con người đầy đủ tam bành (tamđộc), lục tặc (sáu giặc) lại sáu trần dụ dỗ cuốn lôi,nếu không phải là bậc siêu quần bạt tụy làm sao thắngtrận giặc nội công ngoại kích này. Cùng là cá, bao nhiêucon khác bị lưới cuốn không thể giãy vùng, cuối cùng bịngười đánh cá bắt bỏ vào giỏ, chỉ một con này nhảyvọt khỏi lưới, không đồng với người xuất trần thoáttục là gì? Nếu chúng ta sanh ra đã là Thánh thì còn nói gìtu. Chính vì chúng ta mang đầy đủ thói hư tật xấu trongmình, chứa đầy tham sân si trong lòng, cho nên gặp cảnh thìnhiễm, trái ý thì sân, quẳng chúng thoát ra, thật là điềukhó khăn trăm phần, ai làm được điều đó, đáng cho chúngta chấp tay tán thán. Vì thế, Tuệ Trung Thượng Sĩ đã làmbài kệ:

XUẤTTRẦN

Tằngvivật dục dịch lao khu
Bàilạctrần hiêu thế ngoại du
Tánthủna biên siêu Phật Tổ
Nhấthồiđẩu tẩu nhất hồi hưu.

Dịch:
RAKHỎI BỤI HỒNG

Ðãtừng ham muốn phải long đong
Némquáchmà ra khỏi bụi hồng
Buôngthõngbờ kia lên Phật Tổ
Mộtlầnphủi giũ một lần xong.

Bởivì chúng ta chạy theo vật dục nhân gian nên phải khổ sởgian nan. Nếu can đảm ném phắt hết, vượt ra ngoài vòng trầnlụy, quả là can đảm phi thường. Có thể, mới buông thõngtay bước lên ngôi nhà Phật Tổ được. Song phải mạnh dạndứt khoát, một lần bỏ đi không thèm ngó lại. Chớ đừnghọc thói nhầy nhụa, dùng dùng thẳng thẳng cắt không đứt,bứt không rời, một chân bước tới hai chân bước lui, khônglàm nên trò trống gì, chỉ chuốc trò cười cho hàng thứcgiả. Bởi vậy nên nhà thiền thường dùng câu "giết ngườikhông ngó lại" là ý này. Phải can đảm dứt khoát thì việckhó mấy cũng thành công.

TRẦNNHÂNTÔNG: ÔNG VUA, TU SĨ

VuaTrần Nhân Tông sanh năm 1258, lên ngôi vua năm hai mươi tuổi,xuất gia năm bốn mươi mốt tuổi và năm mươi mốt tuổitịch (1308). Suốt hai mươi năm, Ngài là bậc nhân chủ lãnhđạo quốc gia giữ nước chăn dân, ngồi trên ngai vàng sốngtrong cung ngọc, mọi thứ dục lạc đều dư thừa. Hai phencầm quân chống giặc xâm lăng, nhân mạng hy sinh rất lớn.Bổn phận giữ nước chăn dân, Ngài làm đầy đủ. Năm bốnmươi mốt tuổi, Ngài nhường ngôi cho con, đi xuất gia. Lúcnhỏ Ngài đã được vua cha và thầy là Tuệ Trung Thượngsĩ chỉ dạy đạo lý thiền nhuần thấm sâu xa, nên khi xuấtgia Ngài không cần tầm học, chỉ thực hiện điều đã họcđược.

Trongmười năm, là kẻ xuất gia Ngài mang hiệu Trúc Lâm Ðầu-đà,tích cực hoạt động truyền bá chánh pháp. Trong giới xuấtgia, Ngài giáo dục chúng Tăng, có khả năng đảm đang giáohội. Trong dân chúng, Ngài đem pháp Thập thiện giáo hóa toàndân, khiến Phật pháp mở rộng trong nhân gian. Công tác hoằngtruyền Phật pháp, giáo hóa nhân dân, Ngài làm suốt đờikhông dừng nghỉ.

Khisắp tịch, Ngài nằm tại Ngọa Vân am sai người gọi BảoSát đến. Ngày một tháng mười một, đúng nửa đêm, saosáng đầy trời, Ngài hỏi: Bây giờ là giờ gì? Bảo Sátthưa: Giờ Tý. Ngài đưa tay ra hiệu mở cửa sổ để nhìnra ngoài, nói: Ðến giờ ta đi vậy. Bảo Sát hỏi: Tôn đứcđi đâu bây giờ? Ngài đọc lại bài kệ:

Nhấtthiết pháp bất sanh
Nhấtthiếtpháp bất diệt
Nhượcnăngnhư thị giải
ChưPhậtthường hiện tiền
Hàkhứlai chi hữu?
Dịch:
Tấtcả pháp chẳng sanh
Tấtcảpháp chẳng diệt
Nếuhiểuđược như thế
ChưPhậtthường hiện tiền
Nàocóđi có lại?
BảoSát hỏi thêm: Khi chẳng sanh chẳng diệt thì sao? Ngài khuatay nói: Thôi đừng nói mê nữa. Rồi Ngài ngồi theo kiểusư tử tọa mà tịch... (Tam Tổ thực lục).

Quabagiai đoạn trên, chúng ta thấy Ngài sống giai đoạn nàora giai đoạn ấy. Lúc làm vua thì quên mình giữ nước, hếtdạ chăn dân. Khi đi tu, nhiệt tâm vì đạo mài miệt tu hành,chẳng ngại nhọc nhằn hết tình với tăng tục. Vì thế,trên đường đời Ngài thành công viên mãn, trên đường đạothì đạo quả viên thành. Chính thái độ dứt khoát tích cực,nên lãnh vực nào Ngài cũng thành công. Ngài cũng hưởng dụclạc trong hoàng cung, cũng cầm binh khiển tướng ngoài trậnmạc, nếu nói là tội lỗi thì cũng tràn trề. Song khi dứtkhoát tiến tu thì cắt đứt mọi quá khứ, sống kham khổtu hành, nên lấy hiệu đầu-đà (khổ hạnh). Với ý chí cươngquyết đó, chỉ trong vòng mười năm, Ngài đã tiến đếnchỗ sanh tử tự tại. Ðây là tấm gương sáng rỡ để nhắcnhở chúng ta, không sợ mình trước mê lầm tội lỗi, chỉsợ xuất gia rồi mà thái độ vẫn mập mờ. Ngài là con ngườithấy được đạo lý và sống được đạo lý. Chúng ta đọcbài kệ kết thúc bài phú Cư Trần Lạc Ðạo của Ngài thìrõ:

Cưtrần lạc đạo thả tùy duyên
Cơtắcxan hề khốn tắc miên
Giatrunghữu bảo hưu tầm mích
Ðốicảnhvô tâm mạc vấn thiền.
Dịch:
Trongđời vui đạo hãy tùy duyên
Ðóiđếnthì ăn mệt nghỉ liền
Nhàmìnhbáu sẵn thôi tìm kiếm
Ðốicảnhkhông tâm, chớ hỏi thiền.
Sốngngay trong lòng trần tục mà khéo biết đạo vẫn thấy an vui.Duyên cảnh đổi thay tùy thời linh động, như khi đói thìăn, khi mệt thì nghỉ, đừng cố chấp cứng nhắc mà tựkhổ đau. Phật đã sẵn nơi ta, khỏi phải nhọc nhằn sangđông tìm tây. Cái khôn ngoan khéo léo của chúng ta là "đốicảnh tâm không động", chính nơi đây là thiền rồi, cònthưa hỏi đâu nữa. Người học đạo nhận thấy Phật đãsẵn nơi tâm mình, song muốn Phật hiện thì tâm đừng chạytheo cảnh. Ðây là lối tu thật giản đơn, thật cụ thể,mà người đời khó tin khó nhận. Người ta chỉ tin Phậtở Tây phương, phải siêng năng lễ bái thì được phước,được Phật rước về cõi Phật. Bởi vậy Tổ Lâm Tế nói:"Người ngu cười ta, kẻ trí biết ta." Cười, vì thấy khôngtụng kinh lễ bái, chẳng biết tu cái gì? Biết, vì thấy lốitu tế nhị cụ thể thiết thực, không còn gì nghi ngờ. Mộtông vua, xuất gia chỉ có mười năm mà đạt đạo như vậy,thật đáng quí kính biết dường nào. Cho nên triều đìnhtôn xưng Ngài là Ðiều Ngự Giác Hoàng.

THÁITỬTẤT-ÐẠT-ÐA VÀ TRẦN NHÂN TÔNG

Tháitử là ông hoàng chưa từng đối đầu với mọi việc khókhăn ở đời, chỉ thấy cảnh già, bệnh, chết là phát tâmđi tu. Mục đích Ngài đi tu để tìm phương pháp phá vỡ cáiluật khắc nghiệt của kiếp con người mà muôn thuở đãchấp nhận. Ngài phải trả cái giá rất đắt là, mười mộtnăm nằm gió phơi sương lang thang trong rừng núi, ăn uốngsơ sài cho đến kiệt sức. Đến khi giác ngộ viên mãn phươngpháp giải thoát sanh tử tuyên bố thành Phật. Ðây là ngườikhai mở con đường đạo giác ngộ giải thoát. Tức là Ngàiđã phá vỡ luật khắc nghiệt (già bệnh chết) chi phối mìnhvà đem ra chỉ dạy mọi người. Việc làm của Ngài là muônthuở không hai.

VuaTrần Nhân Tông là người kế thừa con đường của Phậtđã vạch sẵn. Bởi kế thừa nên công phu đơn giản và nhẹnhàng, chỉ cần đem đuốc mình mồi vào đuốc Phật là cháysáng. Do đó đi tu Ngài không khổ công tầm đạo, chỉ cầnứng dụng đạo đã sẵn vào việc tu hành là thành công. Tuyvậy cũng không phải là việc dễ dàng, mặc dù có công thứcchỉ rõ, muốn ứng dụng công thức ấy phải gan góc cùngmình, phải mạnh tay chặt đứt mọi xiềng vàng xích ngọc,phải hùng dũng nhảy vọt khỏi mấy lớp rào tình cảm bịtbùng.

HaiNgài đều chôn mình trong cung vàng điện ngọc, bị bao vâybởi đám cung nữ phi tần, bị phủ kín trong tiếng đàn ngọthát hay, bị siết chặt bởi mùi thơm vị quí. Song cả haiđều quả cảm thoát ra không chút đoái hoài luyến tiếc.Do đó hai Ngài làm được việc khó làm, để lại cho đờitấm gương phi phàm xuất chúng. Hai Ngài là hai mầm sen chônsâu trong vũng bùn ngũ dục, vươn lên khỏi nước nở tròntươi thắm và tỏa ra mùi hương tinh anh thanh khiết bủa khắpcả trần gian.

Quanhững hình ảnh trên, chúng ta có đủ kinh nghiệm trong việctiến tu, không còn e dè nghi ngại gì nữa. Bởi vì không cóvị nào đã là thánh rồi thành thánh, mà tất cả đều bịbao vây bởi phiền não dục trần. Cái đặc điểm của cácngài là nhạy cảm sớm thức tỉnh và anh dũng khi cần thoátnó. Ðiều đó chúng ta có thể học được, có ai thấy cảnhgià bệnh chết mà chẳng buồn, có ai không khí khái khi thốtra những lời thề bán mạng. Chỉ cần chúng ta triệt đểứng dụng cái nhạy cảm của mình để phát chí tu hành, khéoxoay chuyển cái khí khái của mình vào con đường quyết tửcầu đạo. Dám hạ quyết tâm trên đường hành đạo, chúngta sẽ thu gặt được kết quả chắc chắn không nghi. Chúngta là những mầm sen phơi mình trên bùn ngũ dục, thoát khỏinó để vươn lên có khó gì? Chúng ta đâu có cung vàng điệnngọc, đâu có cung phi mỹ nữ... mọi dục lạc tìm cầu rấtkhó, nếu thoát nó thì hết sức nhẹ nhàng, chỉ cần mộtcái nhảy nhẹ đã ra khỏi rồi, thế mà chúng ta cứ chầnchừ không ưng nhảy. Ðây là yếu điểm muôn kiếp chịu trầmluân của chúng ta.





Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/11/2021(Xem: 12308)
Kinh Vô Lượng Nghĩa nói “vô lượng pháp từ một pháp mà sinh ra”. Ma Ha Chỉ Quán của Thiên Thai Trí Giả (538-597), quyển 5, nói: “Phật bảo các Tỳ-kheo, một pháp thâu nhiếp tất cả pháp, chính là Tâm”. Phổ môn là vô lượng giáo pháp. Vô lượng giáo pháp này cũng từ một giáo pháp mà sinh ra. Một giáo pháp phổ cập tất cả gọi là phổ môn. Chư Phật thuyết giáo thuận theo Tâm của chúng sinh. Giáo là những ngôn từ được thuyết ra cho những chúng sinh chưa thấu suốt. Pháp là những phương thức với nhiều tướng trạng giống nhau hoặc khác nhau. Tâm ý chúng sinh có bao nhiêu ngõ ngách thì giáo pháp có chừng ấy quanh co. Chư Phật dùng muôn vàn phương tiện khế cơ mang lại lợi ích cho chúng sinh. Ngài Xá Lợi Phất từng nói: “Phật dùng nhiều thứ nhân duyên và thí dụ, phương tiện ngôn thuyết như biển rộng khiến tâm người trong pháp hội được yên ổn, con nghe pháp ấy khiến lưới nghi dứt” là nghĩa trên vậy.
05/09/2021(Xem: 15183)
Bắt đầu gặp nhau trong nhà Đạo, người quy-y và người hướng-dẫn biết hỏi và biết tặng món quà pháp-vị gì cho hợp? Thực vậy, kinh sách man-mác, giáo-lý cao-siêu, danh-từ khúc-mắc, nghi-thức tụng-niệm quá nhiều – nghiêng nặng về cầu-siêu, cầu-an – không biết xem gì, tụng gì và nhất là nhiều người không có hoàn-cảnh, thỉnh đủ. Giải-đáp thực-trạng phân-vân trên, giúp người Phật-tử hiểu qua những điểm chính trong giáo-lý, biết qua sự nghiệp người xưa, công việc hiện nay và biết đặt mình vào sự rèn-luyện thân-tâm trong khuôn-khổ giác-ngộ và xử-thế, tôi biên-soạn cuốn sách nhỏ này. Cuốn sách nhỏ này không có kỳ-vọng cao xa, nó chỉ ứng theo nhu-cầu cần-thiết, mong giúp một số vốn tối-thiểu cho người mới vào Đạo muốn tiến trên đường tu-học thực-sự. Viết tại Sài-thành mùa Đông năm Mậu-tuất (1958) Thích-Tâm-Châu
23/07/2021(Xem: 12012)
Giữa tương quan sinh diệt và biển đổi của muôn trùng đối lưu sự sống, những giá trị tinh anh của chân lý bất diệt từ sự tỉnh thức tuyệt đối vẫn cứ thế, trơ gan cùng tuế nguyệt và vững chãi trước bao nổi trôi của thế sự. Bản thể tồn tại của chân lý tuyệt đối vẫn thế, sừng sững bất động dẫu cho người đời có tiếp nhận một cách nồng nhiệt, trung thành hay bị rũ bỏ, vùi dập một cách ngu muội và thô thiển bởi các luận điểm sai lệch chối bỏ sự tồn tại của tâm thức con người. Sự vĩnh cửu ấy phát xuất từ trí tuệ vô lậu và tồn tại chính bởi mục đích tối hậu là mang lại hạnh phúc chân thật cho nhân loại, giúp con người vượt thoát xiềng xích trói buộc của khổ đau. Tuỳ từng giai đoạn của nhân loại, có những giai đoạn, những tinh hoa ấy được tiếp cận một cách mộc mạc, dung dị và thuần khiết nhất; có thời kỳ những nét đẹp ấy được nâng lên ở những khía cạnh khác nhau; nhưng tựu trung cũng chỉ nhằm giải quyết những khó khăn hiện hữu trong đời sống con người và xã hội.
07/05/2021(Xem: 16919)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
29/11/2020(Xem: 12697)
“Ma” tiếng Phạn gọi là Mara, Tàu dịch là “Sát,” bởi nó hay cướp của công đức, giết hại mạng sống trí huệ của người tu. “Ma” cũng chỉ cho những duyên phá hoại làm hành giả thối thất đạo tâm, cuồng loạn mất chánh niệm, hoặc sanh tà kiến làm điều ác, rồi kết cuộc bị sa đọa. Những việc phát sanh công đức trí huệ, đưa loài hữu tình đến Niết-bàn, gọi là Phật sự. Các điều phá hoại căn lành, khiến cho chúng sanh chịu khổ đọa trong luân hồi sanh tử, gọi là Ma sự. Người tu càng lâu, đạo càng cao, mới thấy rõ việc ma càng hung hiểm cường thạnh. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong "Niệm Phật Thập Yếu", Ma tuy nhiều, nhưng cốt yếu chỉ có ba loại: Phiền não ma, Ngoại ma và Thiên ma
04/11/2020(Xem: 7911)
Những chúng sanh thuộc hàng Thanh Văn: Các chúng sanh thuộc hàng Thanh Văn được chứng ngộ khi nghe được những học thuyết về các Uẩn, Giới, Xứ, nhưng lại không đặc biệt lưu tâm đến lý nhân quả. Họ giải thoát được sự trói buộc của các phiền não nhưng vẫn chưa đoạn diệt được tập khí của mình. Họ đạt được sự thể chứng Niết-Bàn, và an trú trong trạng thái ấy, họ tuyên bố rằng họ đã chấm dứt sự hiện hữu, đạt được đời sống Phạm hạnh, tất cả những gì cần phải làm đã được làm, họ sẽ không còn tái sinh nữa. Những vị nầy đã đạt được Tuệ kiến về sự Phi hiện hữu của “Ngã thể” trong một con người, nhưng vẫn chưa thấy được sự Phi hiện hữu trong các sự vật. Những nhà lãnh đạo triết học nào tin vào một "Đấng Sáng Tạo" hay tin vào “Linh hồn” cũng có thể được xếp vào đẳng cấp nầy.
03/10/2020(Xem: 20340)
Đây là một bài nghị luận về Lý Duyên Khởi được Ajahn Brahm viết lần đầu tiên hơn hai thập niên trước. Vào lúc đó, ngài quan tâm nhiều hơn đến những chi tiết phức tạp trong việc giảng dạy kinh điển. Vì lý do đó bài nghị luận này có tính cách hoàn toàn chuyên môn, so với những gì ngài giảng dạy hiện nay. Một trong những học giả Phật học nổi tiếng nhất hiện nay về kinh điển Phật giáo đương đại là Ngài Bhikkhu Bodhi, đã nói với tôi rằng “Đây là bài tham luận hay nhất mà tôi được đọc về đề tài này”.
05/04/2020(Xem: 11776)
Luận Đại Thừa Trăm Pháp do Bồ tát Thế Thân (TK IV TL) tạo nêu rõ tám thức tâm vương hàm Tâm Ý Thức thuộc ngành tâm lý – Duy Thức Học và là một tông phái: Duy Thức Tông - thuộc Đại Thừa Phật Giáo. Tâm Ý Thức như trở thành một đề tài lớn, quan trọng, bàn cải bất tận lâu nay trong giới Phật học thuộc tâm lý học. Bồ Tát Thế Thântạo luận, lập Du Già Hành Tông ở Ấn Độ, và sau 3 thế kỷ pháp sư Huyền Trang du học sang Ấn Độ học tông này với Ngài Giới Hiền tại đại học Na Lan Đà (Ấn Độ) năm 626 Tây Lịch. Sau khi trở về nước (TH) Huyền Trang lập Duy Thức Tông và truyền thừa cho Khuy Cơ (632-682) xiển dương giáo nghĩa lưu truyền hậu thế.
30/03/2020(Xem: 9216)
Những người Cơ đốc giáo thường đặt vấn đề: Thượng đế có phải là một con người hay không? Nếu Thượng đế không phải là một con người thì làm sao chúng ta có thể cầu nguyện? Đây là một vấn đề rất lớn trong Cơ đốc giáo. (God is a person or is not a person?)
23/03/2020(Xem: 10452)
Có một con sư tử mẹ đang đi kiếm ăn. Nó sắp làm mẹ. Buổi sáng đó nó chạy đuổi theo một chú nai. Chú nai con chạy thật nhanh dù sức yếu. Sư tử mẹ dầu mạnh, nhưng đang mang thai, nên khá chậm chạp. Sư tử mẹ chạy sau chú nai con rất lâu, khoảng 15 phút, mà vẫn chưa bắt kịp. Sau đó chúng tới một rãnh sâu. Chú nai lẹ làng nhảy qua rãnh, sang bờ bên kia. Sư tử mẹ rất bực tức vì không bắt kịp con mồi, và vì nó đang cần thức ăn cho cả nó và đứa con trong bụng. Vì thế, nó cố hết sức để nhảy qua cái rãnh sâu. Nhưng tai họa đã xảy ra, sư tử mẹ đã sẩy đứa con khi cố nhảy qua rãnh. Dầu qua được bờ bên kia, nhưng sư tử mẹ biết rằng mình đã đánh mất đứa con mà nó đã chờ đợi từ bao lâu, đã yêu thương hết lòng, chỉ vì một phút vô tâm của mình. Nó đã quên rằng nó đang mang một bào thai trong bụng, và nó cần phải hết sức cẩn trọng. Chỉ một phút lơ đễnh, nó đã không giữ được đứa con của mình.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567