Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

12-Tội phước

28/01/201109:41(Xem: 7744)
12-Tội phước

BƯỚCÐẦU HỌC PHẬT
HòathượngThích Thanh Từ
PhậtLịch 2541-1998

Tộivà phước

I.-MỞÐỀ

Nóiđếntu hành là nói đến tội phước, nếu không rõ tộiphước tức là không rõ sự tu hành. Nếu người tu mà cứlao mình trong tội lỗi, ấy là người tạo tội chớ khôngphải là người tu hành. Mọi sự an vui và đau khổ gốc từtội phước mà sanh ra. Vì thế muốn thấu hiểu sự tu hànhchúng ta phải thấu hiểu tội phước. Tội phước là nhữnghành động thiết thực trong cuộc sống này, không phải làchuyện siêu huyền mờ ảo đâu đâu. Thế nên người tu hànhphải thấu đáo phải phân rành vấn đề tội phước.

II.-THẾ NÀO LÀ TỘI?

Tộilà hành động làm cho mình và người đau khổ trong hiện tạivà vị lai. Người làm tội cũng gọi là người dữ, ngườixấu. Tội, có tội ngoài đời và tội trong đạo. Tội ngoàiđời là những kẻ phạm luật pháp nhà nước, bị tù đàyđau khổ. Tội trong đạo có hai loại: tội do hứa nguyệngìn giữ mà không giữ, tội làm đau khổ chúng sanh. Tội dohứa nguyện gìn giữ mà không giữ, như trước nhận giữnăm giới hoặc mười giới là điều cao cả quí báu, ở trướcTam Bảo nguyện trọn đời gìn giữ, mà sau này không giữđược một hoặc nhiều điều, gọi là tội phạm giới. Tạisao phạm giới gọi là tội? Bởi vì trước mình đã nhậnđịnh những giới luật đó là hay là đúng, nếu giữ đượcsẽ lợi ích cho mình và chúng sanh, nên nguyện gìn giữ. Saunày mình không gìn giữ, thế là đã phá hoại sự lợi íchcủa mình và của chúng sanh nên phạm tội. Thí dụ như giớiăn trộm chẳng hạn. Bất cứ một hành động nào làm khổcho người hiện tại hoặc mai kia đều là tội. Bởi vì mìnhđã gây ra nhân đau khổ thì quả đau khổ mình phải lãnhlấy. Do làm khổ mình khổ người nên gọi là tội. Tội cótội nhẹ và tội nặng.

a)Tội nhẹ

Nhữngđiều làm đau khổ cho người cho chúng sanh do thân miệng chúngta gây ra mà không cộng tác với ý là tội nhẹ. Bởi vì việclàm ấy là vô tâm, hoặc không có ý thức. Việc làm vô tâm,khi nạn nhân cảm thông được, họ sẽ bớt thù hận, nếuhọ đại lượng có thể tha thứ luôn. Thí dụ chúng ta điđường, có đứa bé cầm hòn đất ném chơi, lại trúng vàochúng ta. Nếu chúng ta biết nó không có ý ném mình, tuy đauđiếng mà chúng ta không giận nó. Thế nên mọi hành độngbằng thân bằng miệng làm đau khổ cho người mà không cóý thức là tội nhẹ, xin lỗi hoặc sám hối sẽ hết. Việclàm đau khổ chúng sanh chút ít cũng là tội nhẹ.

b)Tội nặng

Nhữngđiều làm đau khổ cho người cho chúng sanh do thân miệng cộngtác với ý chúng ta gây ra là tội nặng.

Bởivì việc làm ấy là có cố tâm, có hữu ý, khiến ngườioán giận không thể tha thứ. Thí dụ như có người cố tìnhđánh chúng ta, dù cái đánh ấy bị cản trở không chạm đếnthân chúng ta song biết kẻ ấy cố tình đánh mình, chúng tacũng giận họ đời đời. Vì thế hành động cố tâm, hữuý là hành động quan trọng nên tạo thành tội nặng.

Thếnên tội phát xuất từ ba nghiệp chúng ta. Nơi thân: giếtngười, trộm cướp, tà dâm. Nơi miệng: nói dối, nói hailưỡi, nói thêu dệt, nói hung ác. Nơi ý: tham, sân và tà kiến.Sự hợp tác chặt chẽ của ba nghiệp này là tội nặng.

III.-THẾ NÀO LÀ PHƯỚC?

Phướclà những hành động đem lại sự an vui cho mình, cho ngườiở hiện tại và mai kia. Người làm phước cũng gọi là ngườilành, người tốt. Bởi vì những hành động đem lại sựan vui cho người, người sẽ quí mến. Chính sự quí mến ấynên gặp nhau vui vẻ và sẵn sàng giúp đỡ nhau. Chúng ta giúpđỡ hoặc an ủi khiến người được an vui, người thù đáplại chúng ta bằng cử chỉ biết ơn vui vẻ quí mến, đólà làm phước gặp phước. Vì thế người biết làm phướchiện tại được an vui, mai sau vẫn an vui. Làm phước có haithứ: phước hữu lậu và phước vô lậu.

A)Phước hữu lậu

Làmcho mình cho người an vui tương đối trong vòng sanh tử làphước hữu lậu. Do ba nghiệp chúng ta hoạt động đem lạisự an vui cho người, chính hành vi ấy là sanh diệt giới hạn,còn trong vòng sanh tử hiện tại cũng như mai sau. Chúng ta phảinỗ lực tạo điều kiện cho mình và mọi người thườngđược an vui. Muốn thực hiện được việc đó, ngay nơi banghiệp chúng ta phải ứng dụng các điều này:

1.Về thân

a)Cứu mạng: Chúng ta phải sẵn sàng cứu giúp bảo vệ sanhmạng người. Nếu người gặp tai nạn sắp mất mạng, theokhả năng mình, chúng ta tận tâm cứu giúp. Giải cứu cho ngườithoát chết, hoặc ngừa đón những sự việc có thể làm nguyhiểm đến sanh mạng người, đó là việc làm phước củathân. Bởi vì sanh mạng đối với con người là tối thượng,cho nên ai giải cứu khỏi chết, là an vui và biết ơn vô kể.

b)Bố thí: Kế đến, sẵn sàng cứu giúp người khi gặp cảnhcơ hàn nguy khốn. Nỗi khổ đói rét cũng đe dọa đến sanhmạng, người đang lâm vào cảnh khổ này, nếu được cứugiúp, họ cũng vui mừng vô hạn. Chúng ta muốn được an vuithì phải sẵn sàng mang sự an vui bủa khắp mọi người, đólà nền tảng phước đức. Hạnh phúc không phải đến riêngvới chúng ta, mà do sự thù đáp từ hạnh phúc của mọi ngườimang lại. Chúng ta đừng dại khờ cứ bo bo giữ lấy tài sảnvô thường làm của riêng mình, cần phải ban bố cho nhữngngười đang thiết tha cần nó. Những cái vô thường mà cứgiữ, có ngày sẽ khổ đau khi nó không còn ở trong tầm taymình nữa. Mượn của cải vô thường làm phương tiện anvui cho người, nguồn an vui ấy sẽ trở về với chúng ta mộtcách bền vững lâu dài.

c)Trinh bạch: Cần phải giữ hạnh trung thành trinh bạch. Ngườibiết đạo lý đã không dám xâm phạm đến danh giá và hạnhphúc của gia đình người, còn phải trung thành trinh bạchvới gia đình mình. Tinh thần trung trinh ấy giúp cho ngườitrong gia đình tín cẩn lẫn nhau. Do sự tín cẩn nhau nên tronggia đình được sự an ổn vui tươi. Trong gia đình đã thế,chúng ta cần nhắc nhở chỉ dạy cho mọi người chung quanhđều tập hạnh trung trinh này. Ðược thế, sự an vui khôngnhững chỉ ở trong phạm vi gia đình, mà tràn lẫn đến xãhội.

2.Vềmiệng

Tuphước ở miệng phải tập bốn điều này:

a)Nói chân thật: Nói chân thật để đem lại niềm tin tưởngan ổn cho người. Bất cứ ở trường hợp nào, chúng ta cũngcố gắng nói lên những lẽ thật. Luôn luôn tôn trọng vàyêu chuộng lẽ thật, cho nên phát ngôn lúc nào cũng hợp vớisự thật. Chân thật là nguồn gốc tin yêu nhau, do đó mọisự mến thương được bền bỉ.

c)Nói đúng lý: Nói đúng lý để giúp mọi người nhận đượclẽ chánh. Trong cuộc sống phức tạp này khiến mọi ngườikhó tìm được con đường chánh. Cho nên chúng ta cố gắngnói ra lời đúng lý, hầu làm sáng tỏ mọi chỗ ngờ vựccủa người. Sống đúng, nói đúng, thật là sự hi hữu trongcuộc đời hỗn độn hiện nay. Chúng ta mãi tôn trọng câu"mặc người phi pháp, chúng ta vẫn giữ đúng pháp".

c)Nói hòa thuận: Nói hòa thuận để đem lại tình đoàn kếtcho mọi người. Tất cả việc làm phân ly chia rẽ đều làtạo nên thống khổ cho con người. Chúng ta đã không làm thế,mà luôn luôn dùng lời hòa thuận để hàn gắn lại nhữngmối tình đã rạn nứt. Ngôn ngữ chúng ta phát ra đều đemlại tình thương gắn bó cho mọi người. Thấy đâu có sựrạn nứt, có mầm tan rã, chúng ta đều nỗ l?c dùng lời hòathuận là chất keo hàn gắn lại. Tận dụng ngôn ngữ mìnhđể đem lại tình đoàn kết an vui cho nhân loại.

d)Nói nhã nhặn: Nói nhã nhặn để đem lại sự ôn hòa vui vẻcho người. Mọi sự căm phẫn, bực tức đều làm cho ngườiđau khổ. Chúng ta tập nói nhã nhặn là làm dịu mọi sựbực dọc của người. Lời nói nhã nhặn khiến người dễmến và vui vẻ. Trọn đời chúng ta đem lại sự an vui chochúng sanh, không có lý do nào lại dùng lời thô ác. Chúngta phải thực hiện lời nhã nhặn mãi mãi với mọi người.

3.Vềý

Chúngtaphải tập từ bi, nhẫn nhục và chánh kiến. Mang lại tìnhthương cho chúng sanh là tiêu diệt mầm tham lam độc ác. Nỗikhổ của chúng sanh ngập trời đều do lòng tham ác của conngười tạo nên. Chúng ta tận lực gây dựng tình thương đểgiảm thiểu đau khổ cho chúng sanh. Tập lòng nhẫn nhục đểchịu đựng mọi cảnh ngang trái mà không sanh sân hận. Cónhẫn nhục được, chúng ta mới giữ được tình thương lâudài với chúng sanh. Chánh kiến là nhận định đúng đắn,đưa chúng ta đi đúng hướng, sáng suốt vui tươi. Do chánhkiến mới có nói đúng, làm đúng. Ba nghiệp tạo phước,chánh kiến là đội binh tiên phong. Tóm lại, ba nghiệp làmmười điều trên là tu phước hữu lậu. Phước này khiếnchúng ta qua lại trên con đường an vui tươi đẹp. Mặc dùcòn tương đối sanh tử, song đến đâu cũng là hài lòng mãný.

B)Phước vô lậu

Phướcvô lậu là sự an vui tuyệt đối không giới hạn. Do thoátly sanh tử nên an vui miên viễn. Bởi sự an vui nào mà cònsanh tử đều tạm bợ đối đãi. Chỉ có tiêu diệt hếtmầm sanh tử, an trụ vô sanh, mới là an vui viên mãn. Tu phướcvô lậu là chúng ta nhắm hướng vô sanh làm mục đích, hàngngày buông xả cái chủ động sanh diệt và dùng trí thấyrõ các tướng giả dối sanh diệt, không lầm, không kẹt nó.Cứ thế tiến mãi, cho đến bao giờ viên mãn mới thôi. Mìnhlàm như vậy, chỉ dạy người làm như vậy là tu phước vôlậu.

IV.-CẦN TRÁNH TỘI LÀM PHƯỚC

a)Tránh tội

Ðãbiết tội là nhân khổ đau bất như ý, chúng ta cố gắngtránh đừng gây nên tội. Cuộc đời đã khổ đau lắm rồi,chúng ta không thể làm cho nó tươi đẹp, ít ra cũng đừngtô thêm cho đậm nét khổ đau. Tránh gây khổ đau cho ngườitức là tránh tạo khổ cho mình. Có ai ngu dại đến nỗi lấydây tự trói, lấy roi tự đánh, để rồi kêu khóc thở than.Mầm khổ đau không gieo thì cây khổ đau làm sao đâm chồinảy lộc. Biết thế, chúng ta dè dặt tối đa trong việc gieonhân đau khổ. Dù một tội nhỏ, tránh được, chúng ta cũngcố gắng tránh. Như trong Luật nói: "Giọt nước tuy nhỏ,rơi mãi cũng đầy chậu lớn." Người biết sợ tội là ngườisẽ khỏi tội. Chỉ có kẻ liều mạng xem thường tội lỗi,càng lún sâu trong tội lỗi. Ðã có tội lỗi là có khổ đau,như có hình thì có bóng, có tiếng thì có vang. Người họcđạo phải sáng suốt thấy rõ lý lẽ ấy, để không lầm,làm khổ mình khổ người.

b)Làm phước

Hạnhphúc an vui là điều ai cũng ước mơ, mong mỏi. Người họcđạo không ư?c mơ mong mỏi suông, phải thực tế gầy dựnghạnh phúc cho người tức là gầy dựng hạnh phúc cho mình.Hạnh phúc không thể ngẫu nhiên đến với chúng ta, mà docông phu bồi đắp. Một hành động, một lời nói, một ýnhiệm mầu đem an vui lại cho người, chính là gây dựng hạnhphúc cho ta. Trong cuộc đời tương phản, kẻ buông xả hếtlại là người được nhiều nhất. Ngược lại, người cốgiữ gìn lại là người mất mát nhất. Tạo hạnh phúc chomình, không phải bo bo gìn giữ những cái gì của mình màphải xả bỏ cái của mình, tạo cho người an vui. Chúng talàm cho trăm ngàn người an vui, quả thực đã tạo trăm ngànđiều an vui cho chúng ta. Vì thế làm phước không bao giờthấy đủ, chúng ta làm mãi đến suốt đời, mà vẫn thấychưa xong. Có một lần đức Phật đang ngồi trong một tịnhxá, ở phòng khác ngài A-na-luật đang xỏ kim vá y, vì mắtkhông tỏ, Ngài xỏ hoài mà chẳng được. Ngài buột miệngthan: "Có ai mắt sáng làm phước xỏ kim hộ tôi." Ðức Phậtnghe, Ngài đi đến chỗ A-na-luật bảo: "A-na-luật! Ðưa kimta xỏ hộ". Thế Tôn đầy đủ vô lượng phước đức, màcòn mót từ cái phước xỏ kim. Thử hỏi chúng ta là ngườigì mà không cố gắng làm phước? Phước càng to thì an vuicàng lắm, có thiệt thòi gì đâu mà không chịu làm!

V.-KẾT LUẬN

Tộiphước là điều thực tế trên cõi nhân gian. Cổ động khuyếnkhích người tránh tội là hành động giảm thiểu khổ đaucho nhân loại. Tán thán ca ngợi làm phước là mang lại hạnhphúc an vui cho chúng sanh. Lý đáng mọi người chúng ta đềutận lực làm điều này. Vô lý những kẻ đã không làm, lạicông kích người khác làm. Còn ai không xót xa khi thấy conngười sát phạt con người. Người có lương tâm, đầy lòngtrắc ẩn không thể ngó lơ trước huynh đệ tương tàn. Chonên tránh tội làm phước là điều mỗi con người chúng taphải ứng dụng. Biết tội phước là cội nguồn của đạođức. Song chúng ta đừng bị phỉnh gạt bằng những tộiphước rỗng. Tội là cấy mầm đau khổ nơi con người,Phước là gieo hạt hạnh phúc cho chúng sanh. Thực tếnhư vậy, không phải việc huyễn hoặc viễn vông.

















Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/11/2021(Xem: 12318)
Kinh Vô Lượng Nghĩa nói “vô lượng pháp từ một pháp mà sinh ra”. Ma Ha Chỉ Quán của Thiên Thai Trí Giả (538-597), quyển 5, nói: “Phật bảo các Tỳ-kheo, một pháp thâu nhiếp tất cả pháp, chính là Tâm”. Phổ môn là vô lượng giáo pháp. Vô lượng giáo pháp này cũng từ một giáo pháp mà sinh ra. Một giáo pháp phổ cập tất cả gọi là phổ môn. Chư Phật thuyết giáo thuận theo Tâm của chúng sinh. Giáo là những ngôn từ được thuyết ra cho những chúng sinh chưa thấu suốt. Pháp là những phương thức với nhiều tướng trạng giống nhau hoặc khác nhau. Tâm ý chúng sinh có bao nhiêu ngõ ngách thì giáo pháp có chừng ấy quanh co. Chư Phật dùng muôn vàn phương tiện khế cơ mang lại lợi ích cho chúng sinh. Ngài Xá Lợi Phất từng nói: “Phật dùng nhiều thứ nhân duyên và thí dụ, phương tiện ngôn thuyết như biển rộng khiến tâm người trong pháp hội được yên ổn, con nghe pháp ấy khiến lưới nghi dứt” là nghĩa trên vậy.
05/09/2021(Xem: 15192)
Bắt đầu gặp nhau trong nhà Đạo, người quy-y và người hướng-dẫn biết hỏi và biết tặng món quà pháp-vị gì cho hợp? Thực vậy, kinh sách man-mác, giáo-lý cao-siêu, danh-từ khúc-mắc, nghi-thức tụng-niệm quá nhiều – nghiêng nặng về cầu-siêu, cầu-an – không biết xem gì, tụng gì và nhất là nhiều người không có hoàn-cảnh, thỉnh đủ. Giải-đáp thực-trạng phân-vân trên, giúp người Phật-tử hiểu qua những điểm chính trong giáo-lý, biết qua sự nghiệp người xưa, công việc hiện nay và biết đặt mình vào sự rèn-luyện thân-tâm trong khuôn-khổ giác-ngộ và xử-thế, tôi biên-soạn cuốn sách nhỏ này. Cuốn sách nhỏ này không có kỳ-vọng cao xa, nó chỉ ứng theo nhu-cầu cần-thiết, mong giúp một số vốn tối-thiểu cho người mới vào Đạo muốn tiến trên đường tu-học thực-sự. Viết tại Sài-thành mùa Đông năm Mậu-tuất (1958) Thích-Tâm-Châu
23/07/2021(Xem: 12024)
Giữa tương quan sinh diệt và biển đổi của muôn trùng đối lưu sự sống, những giá trị tinh anh của chân lý bất diệt từ sự tỉnh thức tuyệt đối vẫn cứ thế, trơ gan cùng tuế nguyệt và vững chãi trước bao nổi trôi của thế sự. Bản thể tồn tại của chân lý tuyệt đối vẫn thế, sừng sững bất động dẫu cho người đời có tiếp nhận một cách nồng nhiệt, trung thành hay bị rũ bỏ, vùi dập một cách ngu muội và thô thiển bởi các luận điểm sai lệch chối bỏ sự tồn tại của tâm thức con người. Sự vĩnh cửu ấy phát xuất từ trí tuệ vô lậu và tồn tại chính bởi mục đích tối hậu là mang lại hạnh phúc chân thật cho nhân loại, giúp con người vượt thoát xiềng xích trói buộc của khổ đau. Tuỳ từng giai đoạn của nhân loại, có những giai đoạn, những tinh hoa ấy được tiếp cận một cách mộc mạc, dung dị và thuần khiết nhất; có thời kỳ những nét đẹp ấy được nâng lên ở những khía cạnh khác nhau; nhưng tựu trung cũng chỉ nhằm giải quyết những khó khăn hiện hữu trong đời sống con người và xã hội.
07/05/2021(Xem: 16925)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
29/11/2020(Xem: 12701)
“Ma” tiếng Phạn gọi là Mara, Tàu dịch là “Sát,” bởi nó hay cướp của công đức, giết hại mạng sống trí huệ của người tu. “Ma” cũng chỉ cho những duyên phá hoại làm hành giả thối thất đạo tâm, cuồng loạn mất chánh niệm, hoặc sanh tà kiến làm điều ác, rồi kết cuộc bị sa đọa. Những việc phát sanh công đức trí huệ, đưa loài hữu tình đến Niết-bàn, gọi là Phật sự. Các điều phá hoại căn lành, khiến cho chúng sanh chịu khổ đọa trong luân hồi sanh tử, gọi là Ma sự. Người tu càng lâu, đạo càng cao, mới thấy rõ việc ma càng hung hiểm cường thạnh. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong "Niệm Phật Thập Yếu", Ma tuy nhiều, nhưng cốt yếu chỉ có ba loại: Phiền não ma, Ngoại ma và Thiên ma
04/11/2020(Xem: 7915)
Những chúng sanh thuộc hàng Thanh Văn: Các chúng sanh thuộc hàng Thanh Văn được chứng ngộ khi nghe được những học thuyết về các Uẩn, Giới, Xứ, nhưng lại không đặc biệt lưu tâm đến lý nhân quả. Họ giải thoát được sự trói buộc của các phiền não nhưng vẫn chưa đoạn diệt được tập khí của mình. Họ đạt được sự thể chứng Niết-Bàn, và an trú trong trạng thái ấy, họ tuyên bố rằng họ đã chấm dứt sự hiện hữu, đạt được đời sống Phạm hạnh, tất cả những gì cần phải làm đã được làm, họ sẽ không còn tái sinh nữa. Những vị nầy đã đạt được Tuệ kiến về sự Phi hiện hữu của “Ngã thể” trong một con người, nhưng vẫn chưa thấy được sự Phi hiện hữu trong các sự vật. Những nhà lãnh đạo triết học nào tin vào một "Đấng Sáng Tạo" hay tin vào “Linh hồn” cũng có thể được xếp vào đẳng cấp nầy.
03/10/2020(Xem: 20350)
Đây là một bài nghị luận về Lý Duyên Khởi được Ajahn Brahm viết lần đầu tiên hơn hai thập niên trước. Vào lúc đó, ngài quan tâm nhiều hơn đến những chi tiết phức tạp trong việc giảng dạy kinh điển. Vì lý do đó bài nghị luận này có tính cách hoàn toàn chuyên môn, so với những gì ngài giảng dạy hiện nay. Một trong những học giả Phật học nổi tiếng nhất hiện nay về kinh điển Phật giáo đương đại là Ngài Bhikkhu Bodhi, đã nói với tôi rằng “Đây là bài tham luận hay nhất mà tôi được đọc về đề tài này”.
05/04/2020(Xem: 11781)
Luận Đại Thừa Trăm Pháp do Bồ tát Thế Thân (TK IV TL) tạo nêu rõ tám thức tâm vương hàm Tâm Ý Thức thuộc ngành tâm lý – Duy Thức Học và là một tông phái: Duy Thức Tông - thuộc Đại Thừa Phật Giáo. Tâm Ý Thức như trở thành một đề tài lớn, quan trọng, bàn cải bất tận lâu nay trong giới Phật học thuộc tâm lý học. Bồ Tát Thế Thântạo luận, lập Du Già Hành Tông ở Ấn Độ, và sau 3 thế kỷ pháp sư Huyền Trang du học sang Ấn Độ học tông này với Ngài Giới Hiền tại đại học Na Lan Đà (Ấn Độ) năm 626 Tây Lịch. Sau khi trở về nước (TH) Huyền Trang lập Duy Thức Tông và truyền thừa cho Khuy Cơ (632-682) xiển dương giáo nghĩa lưu truyền hậu thế.
30/03/2020(Xem: 9219)
Những người Cơ đốc giáo thường đặt vấn đề: Thượng đế có phải là một con người hay không? Nếu Thượng đế không phải là một con người thì làm sao chúng ta có thể cầu nguyện? Đây là một vấn đề rất lớn trong Cơ đốc giáo. (God is a person or is not a person?)
23/03/2020(Xem: 10453)
Có một con sư tử mẹ đang đi kiếm ăn. Nó sắp làm mẹ. Buổi sáng đó nó chạy đuổi theo một chú nai. Chú nai con chạy thật nhanh dù sức yếu. Sư tử mẹ dầu mạnh, nhưng đang mang thai, nên khá chậm chạp. Sư tử mẹ chạy sau chú nai con rất lâu, khoảng 15 phút, mà vẫn chưa bắt kịp. Sau đó chúng tới một rãnh sâu. Chú nai lẹ làng nhảy qua rãnh, sang bờ bên kia. Sư tử mẹ rất bực tức vì không bắt kịp con mồi, và vì nó đang cần thức ăn cho cả nó và đứa con trong bụng. Vì thế, nó cố hết sức để nhảy qua cái rãnh sâu. Nhưng tai họa đã xảy ra, sư tử mẹ đã sẩy đứa con khi cố nhảy qua rãnh. Dầu qua được bờ bên kia, nhưng sư tử mẹ biết rằng mình đã đánh mất đứa con mà nó đã chờ đợi từ bao lâu, đã yêu thương hết lòng, chỉ vì một phút vô tâm của mình. Nó đã quên rằng nó đang mang một bào thai trong bụng, và nó cần phải hết sức cẩn trọng. Chỉ một phút lơ đễnh, nó đã không giữ được đứa con của mình.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567