Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

02-Tam qui

28/01/201109:41(Xem: 8648)
02-Tam qui

BƯỚCÐẦU HỌC PHẬT
HòathượngThích Thanh Từ
PhậtLịch 2541-1998

TamQui

I.-MỞÐỀ

Sốngtrongcuộc đời muôn mặt, người muốn chọn lấy một lốiđi, vạch ra một cuộc sống đầy đủ ý nghĩa và an lành,thật không phải là việc dễ. Chúng ta là khách lữ hành đangđứng trước ngã tư ngã năm, mà chưa biết cuối cùng cáccon đường ấy sẽ đưa đến đâu? Chọn lấy một con đườngđể đi đến suốt đời, phải khôn ngoan sáng suốt lắm mớikhỏi hối hận về mai sau. Nhưng mà bắt buộc chúng ta phảichọn lấy, đừng nhờ nhõi, đừng nghe lời xúi giục, vìđây là con đường tự ta đi không ai thế ta được. Chọnkỹ rồi sẽ đi, là thái độ của kẻ khôn ngoan; nhắm mắtđi càn phó mặc đến đâu hay đến đó, là kẻ khờ dại,mang cả cuộc đời làm một trò chơi. Người trí phải nhìnkỹ, phải xem xét tường tận trước khi mình cất bước đitrên một con đường nào. Qui y Tam Bảo quả là đã đặt mìnhtrên một con đường đi đến tận cùng. Ðến tận đầu đườnglà suốt cuộc đời của chúng ta. Việc làm này cần phảihiểu biết rõ, nhận thức tường tận, mới phát tâm Qui y.Phát nguyện Qui y là chúng ta đã đặt định hướng cho cảcuộc đời. Nếu không hiểu biết gì thì việc Qui y mất hếtý nghĩa của nó.

II.-ÐỊNH NGHĨA

Tamqui nói đủ là Qui y Tam Bảo. Tam Bảo là Phật bảo, Pháp bảovà Tăng bảo. Phật là chỉ đức Phật Thích-ca Mâu-ni, do trướckia Ngài tu hành giác ngộ thành Phật. Pháp bảo là giáo phápdo đức Phật nói ra chỉ dạy đường lối tu hành. Tăng Bảolà những vị tu hành theo giới luật và chánh pháp của đứcPhật.

Tạisao gọi là Phật bảo?

- Từmột kẻ phàm phu như chúng ta tu hành thành Phật thật là chuyệnít có trên nhân gian này. Thế nên trong kinh thường nói Phậtra đời khó gặp, như hoa Ưu-đàm một ngàn năm mới trổ mộtlần. Bởi ít có khó gặp nên nói là báu. Hơn nữa, giác ngộthành Phật tự bản thân Ngài đã thoát khỏi sanh tử luânhồi, đem chỗ giác ngộ ấy dạy lại cho người cùng ra khỏisanh tử, là điều cao cả nhất trần gian nên gọi là báu.

Thếnào gọi là Pháp bảo?

- Chánhpháp xuất thế hi hữu do đức Phật dạy lại, người ngherất khó hiểu khó thấu đáo được. Nhưng một khi đã hiểu,ứng dụng tu hành có thể chuyển đời phàm phu trở thànhthánh nhân, pháp như vậy còn gì quí báu bằng. Pháp của Phậtdạy là chân lý, dù trải thời gian bao lâu chân lý ấy vẫnrạng ngời như hòn ngọc báu. Những kẻ đang lạc lối trongđêm đen, bất thần gặp được ngọn đuốc, vui mừng quítiếc thế nào, người học đạo gặp được chánh pháp cũngnhư thế. Người đang bị chìm đắm ngoài bể cả, trông thấymột con thuyền đến vớt, vui mừng sung sướng quí mến thếnào, người học đạo gặp được chánh pháp cũng như thế.Cho nên nói "trăm ngàn muôn kiếp khó tìm gặp".

Thếnào gọi là Tăng bảo?

- Tănglà chỉ cho một nhóm tu sĩ học theo Phật, sống chung nhau đúngtinh thần Lục hòa. Sống đúng tinh thần Lục hòa là việcít có trên nhân gian này. Bởi vì người thế gian sống đuađòi giành giật hơn thua với nhau, không bao giờ họ sốnghòa thuận như thế được. Lục hòa là: thân hòa chung ơ,ûmiệng hòa không tranh cãi, ý hòa đồng vui, giới luật hòacùng giữ, hiểu biết hòa cùng giải, lợi hòa chia đồng.Sáu điều này là tinh thần của Tăng. Nếu có người đầutròn áo vuông mà không sống theo tinh thần Lục hòa cũng khônggọi là Tăng. Ở trong tập thể từ bốn người trở lên,hằng hòa thuận chung sống đúng tinh thần Lục hòa, việcnày rất khó làm đối với người thế gian. Vì thế, tu sĩsống khuôn theo tinh thần Lục hòa, thật là một điều quíbáu ở trên nhân gian. Vả lại, trên sự tu hành, các vị ấytự mình đã vơi cạn phiền não, còn dạy bảo kẻ khác dẹpbỏ phiền não. Chính những vị ấy đã được phần nào anổn thanh tịnh, lại hướng dẫn người đến chỗ an ổn thanhtịnh. Bởi lẽ ấy, gọi các ngài là Tăng bảo.

Thếnào là Qui y?

- Quilà trở về, y là nương tựa. Trở về nương tựa với Phật,Pháp và Tăng gọi là Qui y Tam Bảo. Từ lâu, chúng ta mãi chạytheo dục lạc tạo nghiệp đau khổ, nay hồi tâm thức tỉnhquyết định trở về nương tựa với Tam Bảo. Tam Bảo làchỗ cứu kính để cho đời chúng ta nương tựa, không còntạo nghiệp đau khổ, mà thường đem sự an lạc lại cho chúngta. Ðây là sự hồi tâm tỉnh giác phát nguyện trở về củachúng ta. Sự tỉnh giác này là nền tảng của lâu đài trítuệ, nó là bước đầu trên con đường về quê hương giácngộ. Ðặt nền tảng này vững chắc thì lâu đài trí tuệmới được lâu dài. Ðó là sự hệ trọng của tinh thầnQui y.

III.-QUI Y TAM BẢO BÊN NGOÀI

PhậtPháp Tăng là đối tượng để chúng ta Qui y. Nguyện noi theocon đường đức Phật đã đi là Qui y Phật. Quyết thực hànhnhững lời chỉ dạy của Ngài còn ghi trong kinh điển là Quiy Pháp. Thuận theo sự hướng dẫn tu hành của chúng Tăng làQui y Tăng. Từ đây bước đi, cuộc sống của chúng ta lấyTam Bảo làm mẫu mực, nhắm thẳng theo đó mà tiến tới,khỏi phải nghi ngờ dò dẫm như thuở nào. Chúng ta là hoatiêu, Tam Bảo là ngọn hải đăng. Cứ nhắm theo hải đăngmà lái con thuyền thân mạng của chúng ta cho đến đích. SongPhật pháp, người Phật tử quyết định tin theo không cònchút do dự, còn Tăng thì phải cẩn thận để khỏi nhậnlầm. Tăng là tập đoàn Tăng lữ sống đúng tinh thần Lụchòa, không phải tính cách cá nhân. Nếu một vị sư đứngra làm lễ Qui y cho Phật tử, chính vị ấy đại diện chotập đoàn. Qui y Tăng là qui y với những vị sư sống đúngtinh thần Lục hòa, không phải cuộc hạn riêng vị sư truyềntam qui ngũ giới cho mình. Nếu vị đại diện truyền qui giớiấy có tu được hay không tu được, người thọ pháp qui giớivẫn đã Qui y Tăng rồi. Khi qui y một vị Tăng tức là đãqui y tất cả chư Tăng, nếu vị nào sống đúng tinh thầnhòa hợp. Phật tử có quyền học hỏi tất cả Tăng chúng,không nên hạn hẹp nơi ông thầy của mình. Ðược vậy mớiđúng tinh thần Qui y Tam Bảo bên ngoài.

IV.-QUI Y TAM BẢO TỰ TÂM

Phậtpháp bao giờ cũng phải đủ hai mặt, Tam Bảo bên ngoài làđối tượng, Tam Bảo tự tâm là bản chất. Nương Tam Bảobên ngoài, chúng ta phát triển Tam Bảo của tự tâm. Trong ngoàihỗ tương để viên mãn công phu tu hành, là mục tiêu chánhyếu của đạo Phật.

Thếnào là Tam Bảo tự tâm?

Tánhgiác sẵn có nơi chúng ta là Phật bảo. Lòng từ bi thươngxót cứu giúp chúng sanh là Pháp bảo. Tâm hòa hợp thảo thuậnvới mọi người là Tăng bảo. Nhờ Phật bảo bên ngoài, chúngta đánh thức tánh giác của mình, trở về nương tựa tánhgiác của mình là Qui y Phật. Nhờ Pháp bảo bên ngoài, chúngta dấy khởi lòng từ bi đối với chúng sanh, trở về nươngtựa với lòng từ bi của mình là Qui y Pháp. Do chư Tăng bênngoài gợi lại cho chúng ta có tinh thần hòa hợp thuận thảo,trở về nương tựa với tinh thần hòa hợp thuận thảo củamình là Qui y Tăng. Phật Pháp Tăng bên ngoài là trợ duyêngiúp chúng ta phát khởi Phật Pháp Tăng của tự tâm. Ví nhưông thầy giáo làm trợ duyên cho đứa học trò mở mang kiếnthức của nó. Có ông thầy giáo cần cù, mà đứa học tròlười biếng không chịu học, ông thầy cũng trở thành vôích. Cũng thế, có Tam Bảo bên ngoài, người Phật tử khôngcố gắng đánh thức Tam Bảo của chính mình, Tam Bảo bênngoài cũng thành vô nghĩa. Tam Bảo bên ngoài là điều kiệntối thiết yếu với người Phật tử, nhưng có được giácngộ giải thoát chính là khả năng của Tam Bảo tự tâm. Chỉbiết có Tam Bảo bên ngoài là chấp sự bỏ lý. Một bề tinvào Tam Bảo của tự tâm không cần biết đến Tam Bảo bênngoài, là chấp lý bỏ sự. Người Phật tử chân chánh phảiviên dung sự lý mới khỏi trở ngại trên đường tu.

V.-NGHI THỨC QUI Y

Trọngtâm chủ yếu trong buổi lễ Qui y, chính lúc Phật tử quìtrước Tam Bảo, ba lần phát nguyện: "Ðệ tử... xin suốtđời qui y Phật, qui y Pháp, qui y Tăng."Câu phát nguyệnnày tự đáy lòng Phật tử phát xuất, không do sự ép buộcxúi giục nào. Ba lần phát nguyện như vậy là gieo hạt giốngvào sâu trong tàng thức, khiến đời đời không quên. Ðâylà tinh thần tự giác tự nguyện. Hình thức nghi lễ chỉgiúp thêm ấn tượng quan trọng cho giờ phút phát nguyện ấythôi. Khi chúng ta tỉnh giác nguyện theo Tam Bảo thì đời tađược lợi ích. Nếu trên đường tu có lúc nào bị vô minhche đậy không nhớ Tam Bảo, chúng ta tự chịu thiệt thòi.Nhà Phật không bắt buộc chúng ta thệ những gì nặng nềđể không bỏ đạo. Của báu cho người nếu ưng nhận lờithì được lợi ích, không ưng nhận thì thôi, bắt buộc làmgì. Trừ ra có hậu ý gì, mới bắt buộc những câu thề nặngđể không dám bỏ. Người hiểu được chỗ này mới thấygiá trị chân thật của đạo Phật. Tất cả sự dụ dỗép buộc để theo đạo, nhà Phật hoàn toàn phản đối. Mỗingười tự nhận thức rõ ràng về đạo Phật rồi phát tâmđến với đạo, mới đúng tinh thần Phật tử. Hiểu rồimới theo là hành động đúng với tinh thần giác ngộ. Dùngthuật hay, phép lạ để dẫn người vào đạo, đó là mêtín. Dùng mọi quyền lợi để dụ người ta vào đạo, đólà cám dỗ kẻ ngu si, không phù hợp với tinh thần giác ngộ.Chúng ta có bổn phận giải thích để người khác hiểu pháttâm qui y là, người truyền đạo chân chánh. Nghi thức trịnhtrọng trong buổi lễ qui y, chỉ là trợ duyên cho lời phátnguyện của chúng ta được thành tựu viên mãn. Nghi lễ nàykhông có nghĩa là Phật sẽ ban ơn cho chúng ta trọn đời đượcan lành.

VI.-KHẲNG ÐỊNH LẬP TRƯỜNG

Saukhi qui y Tam Bảo, chúng ta khẳng định lập trường một cáchtỏ rõ: "Qui y Phật, không qui y thiên, thần, quỉ, vật."Chúng ta đã nhận định kỹ càng quyết chí theo Phật là đấnggiác ngộ, không lý do gì lại theo thiên, thần, quỉ, vật.Bởi vì thiên, thần, quỉ, vật vẫn chưa giác ngộ, còn bịluân hồi như chúng ta. Song cũng có một số Phật tử đãqui y Phật, mà vẫn chạy theo quỉ thần. Những người nàyvì tham lợi lộc, vì thích mầu nhiệm, nên đã đi sai đườngPhật pháp. Thậm chí vì sự mê tín của họ, họ trở lạikính trọng quỉ thần hơn Phật. Ðây là hiện tượng xấuxa để khách bàng quang phê bình Phật giáo.

"Quiy Pháp, không qui y ngoại đạo tà giáo."Chánh pháp củaPhật là chân lý, cứu giúp chúng sanh một cách thiết thực,như ông thầy thuốc đối với bệnh nhân. Hiểu được lẽchân thực này, còn lý do gì chúng ta chạy theo ngoại đạotà giáo. Chúng ta tự nhận mình yêu chuộng chân lý, cầu mongsự thoát khổ thiết thực, ngoại đạo tà giáo còn gì hấpdẫn được chúng ta. Chỉ có những kẻ ba phải nghe đâu chúcđó, mới có những hành động đổi thay vô lý như vậy. Dùcó những phép tà ngoại linh thiêng muốn gì được nấy, chúngta cũng không khởi lòng tham theo họ. Hoặc họ có những phươngthuốc linh mầu nhiệm bệnh gì cũng cứu khỏi, là Phật tửchân chánh thà chịu chết chớ không cầu xin. Thân này cógiữ gìn khéo mấy, cuối cùng cũng tan hoại, lạc vào đườngtà kiếp kiếp khó ra khỏi.

"Quiy Tăng, không qui y bạn dữ nhóm ác."Chúng ta đã chọnlựa những vị hiền đức nương theo, khiến đời mình vềgần với đức hạnh. Bạn dữ nhóm ác đối với người biếtđạo cần phải tránh xa. Bởi vì "gần mực thì đen gần đènthì sáng", hay "gần đồ tanh hôi mình bị hôi lây, gần vậtthơm tho mình được thơm lây". Vì thế, chúng ta phải can đảmđi đúng đường của mình đã chọn, dù có bị khinh khi mạlỵ, ta cũng cứ thế mà đi. Bởi vì chúng ta đâu phải làkẻ mù quáng, mà đành bỏ cái tốt gần cái xấu. Khẳng địnhlập trường rõ ràng là người có ý chí cương quyết. Nếungười tu hành mà thiếu ý chí này, dễ bị gió lung lay.

VII.-KẾT LUẬN

Quiy Tam Bảo là nền móng tòa nhà giác ngộ, là nấc đầu trêncây thang giải thoát, là những bước đầu trên con đườngvề quê hương vô sanh. Muốn tòa nhà vững chắc, cần phảicó nền móng kiên cố. Cần vượt tột cây thang giải thoát,nấc đầu phải bước cho vững. Thích sự an lành ở quê hươngvô sanh, những bước đầu trên con đường trở về phảiđi cho đúng. Thiếu nền móng Tam Qui thì tòa nhà giác ngộkhông sao xây cất được. Không có nấc đầu, khó ai có thểleo tận cây thang giải thoát. Những bước đầu trên con đườngvề quê đã sai, trăm ngàn bước sau cho đến càng đi càngsai. Vì thế, Qui y Tam Bảo có tầm quan trọng vô cùng. Mỗingười muốn đến với đạo Phật phải từ cửa Qui y màvào, không như thế thì học Phật mất căn bản. Bởi nó đóngmột vai trò quan trọng như vậy, nên người Phật tử phảithận trọng trong việc phát nguyện Qui y. Ðừng vì là Qui ycho có phước, cho khỏi bệnh hoạn, cho Phật gia hộ qua taiách..., đều là lý do mê tín trái với tinh thần tự giáctự nguyện của Ðạo Phật.




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
23/07/2021(Xem: 11851)
Giữa tương quan sinh diệt và biển đổi của muôn trùng đối lưu sự sống, những giá trị tinh anh của chân lý bất diệt từ sự tỉnh thức tuyệt đối vẫn cứ thế, trơ gan cùng tuế nguyệt và vững chãi trước bao nổi trôi của thế sự. Bản thể tồn tại của chân lý tuyệt đối vẫn thế, sừng sững bất động dẫu cho người đời có tiếp nhận một cách nồng nhiệt, trung thành hay bị rũ bỏ, vùi dập một cách ngu muội và thô thiển bởi các luận điểm sai lệch chối bỏ sự tồn tại của tâm thức con người. Sự vĩnh cửu ấy phát xuất từ trí tuệ vô lậu và tồn tại chính bởi mục đích tối hậu là mang lại hạnh phúc chân thật cho nhân loại, giúp con người vượt thoát xiềng xích trói buộc của khổ đau. Tuỳ từng giai đoạn của nhân loại, có những giai đoạn, những tinh hoa ấy được tiếp cận một cách mộc mạc, dung dị và thuần khiết nhất; có thời kỳ những nét đẹp ấy được nâng lên ở những khía cạnh khác nhau; nhưng tựu trung cũng chỉ nhằm giải quyết những khó khăn hiện hữu trong đời sống con người và xã hội.
07/05/2021(Xem: 16602)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
29/11/2020(Xem: 12554)
“Ma” tiếng Phạn gọi là Mara, Tàu dịch là “Sát,” bởi nó hay cướp của công đức, giết hại mạng sống trí huệ của người tu. “Ma” cũng chỉ cho những duyên phá hoại làm hành giả thối thất đạo tâm, cuồng loạn mất chánh niệm, hoặc sanh tà kiến làm điều ác, rồi kết cuộc bị sa đọa. Những việc phát sanh công đức trí huệ, đưa loài hữu tình đến Niết-bàn, gọi là Phật sự. Các điều phá hoại căn lành, khiến cho chúng sanh chịu khổ đọa trong luân hồi sanh tử, gọi là Ma sự. Người tu càng lâu, đạo càng cao, mới thấy rõ việc ma càng hung hiểm cường thạnh. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong "Niệm Phật Thập Yếu", Ma tuy nhiều, nhưng cốt yếu chỉ có ba loại: Phiền não ma, Ngoại ma và Thiên ma
04/11/2020(Xem: 7807)
Những chúng sanh thuộc hàng Thanh Văn: Các chúng sanh thuộc hàng Thanh Văn được chứng ngộ khi nghe được những học thuyết về các Uẩn, Giới, Xứ, nhưng lại không đặc biệt lưu tâm đến lý nhân quả. Họ giải thoát được sự trói buộc của các phiền não nhưng vẫn chưa đoạn diệt được tập khí của mình. Họ đạt được sự thể chứng Niết-Bàn, và an trú trong trạng thái ấy, họ tuyên bố rằng họ đã chấm dứt sự hiện hữu, đạt được đời sống Phạm hạnh, tất cả những gì cần phải làm đã được làm, họ sẽ không còn tái sinh nữa. Những vị nầy đã đạt được Tuệ kiến về sự Phi hiện hữu của “Ngã thể” trong một con người, nhưng vẫn chưa thấy được sự Phi hiện hữu trong các sự vật. Những nhà lãnh đạo triết học nào tin vào một "Đấng Sáng Tạo" hay tin vào “Linh hồn” cũng có thể được xếp vào đẳng cấp nầy.
03/10/2020(Xem: 20023)
Đây là một bài nghị luận về Lý Duyên Khởi được Ajahn Brahm viết lần đầu tiên hơn hai thập niên trước. Vào lúc đó, ngài quan tâm nhiều hơn đến những chi tiết phức tạp trong việc giảng dạy kinh điển. Vì lý do đó bài nghị luận này có tính cách hoàn toàn chuyên môn, so với những gì ngài giảng dạy hiện nay. Một trong những học giả Phật học nổi tiếng nhất hiện nay về kinh điển Phật giáo đương đại là Ngài Bhikkhu Bodhi, đã nói với tôi rằng “Đây là bài tham luận hay nhất mà tôi được đọc về đề tài này”.
05/04/2020(Xem: 11658)
Luận Đại Thừa Trăm Pháp do Bồ tát Thế Thân (TK IV TL) tạo nêu rõ tám thức tâm vương hàm Tâm Ý Thức thuộc ngành tâm lý – Duy Thức Học và là một tông phái: Duy Thức Tông - thuộc Đại Thừa Phật Giáo. Tâm Ý Thức như trở thành một đề tài lớn, quan trọng, bàn cải bất tận lâu nay trong giới Phật học thuộc tâm lý học. Bồ Tát Thế Thântạo luận, lập Du Già Hành Tông ở Ấn Độ, và sau 3 thế kỷ pháp sư Huyền Trang du học sang Ấn Độ học tông này với Ngài Giới Hiền tại đại học Na Lan Đà (Ấn Độ) năm 626 Tây Lịch. Sau khi trở về nước (TH) Huyền Trang lập Duy Thức Tông và truyền thừa cho Khuy Cơ (632-682) xiển dương giáo nghĩa lưu truyền hậu thế.
30/03/2020(Xem: 9135)
Những người Cơ đốc giáo thường đặt vấn đề: Thượng đế có phải là một con người hay không? Nếu Thượng đế không phải là một con người thì làm sao chúng ta có thể cầu nguyện? Đây là một vấn đề rất lớn trong Cơ đốc giáo. (God is a person or is not a person?)
23/03/2020(Xem: 10332)
Có một con sư tử mẹ đang đi kiếm ăn. Nó sắp làm mẹ. Buổi sáng đó nó chạy đuổi theo một chú nai. Chú nai con chạy thật nhanh dù sức yếu. Sư tử mẹ dầu mạnh, nhưng đang mang thai, nên khá chậm chạp. Sư tử mẹ chạy sau chú nai con rất lâu, khoảng 15 phút, mà vẫn chưa bắt kịp. Sau đó chúng tới một rãnh sâu. Chú nai lẹ làng nhảy qua rãnh, sang bờ bên kia. Sư tử mẹ rất bực tức vì không bắt kịp con mồi, và vì nó đang cần thức ăn cho cả nó và đứa con trong bụng. Vì thế, nó cố hết sức để nhảy qua cái rãnh sâu. Nhưng tai họa đã xảy ra, sư tử mẹ đã sẩy đứa con khi cố nhảy qua rãnh. Dầu qua được bờ bên kia, nhưng sư tử mẹ biết rằng mình đã đánh mất đứa con mà nó đã chờ đợi từ bao lâu, đã yêu thương hết lòng, chỉ vì một phút vô tâm của mình. Nó đã quên rằng nó đang mang một bào thai trong bụng, và nó cần phải hết sức cẩn trọng. Chỉ một phút lơ đễnh, nó đã không giữ được đứa con của mình.
01/03/2020(Xem: 11859)
Kinh Viên Giác là kinh đại thừa đốn giáo được Phật cho đó là “Con mắt của 12 bộ kinh”. “Con mắt” ở đây theo thiển ý có nghĩa là Viên Giác soi sáng nghĩa lý, là điểm tựa, là ngọn hải đăng cho các bộ kinh để đi đúng “chánh pháp nhãn tạng”, không lạc vào đường tà và tu thành Phật. Khi nghe kinh này, đại chúng kể cả chư Phật và chư Bồ Tát đều phải vào chánh định/tam muội, không bình thường như những pháp hội khác.
04/01/2020(Xem: 7202)
Bài viết nhan đề “Góp Ý Với Sư Cô Thích Nữ Thanh Tâm” của Cư sĩ Thiện Quả Đào Văn Bình trên mạng Thư Viện Hoa Sen hiển nhiên là nhiều thiện ý, đã đưa ra các nhận định mang tính xây dựng. Từ đó, tất nhiên có phản ứng, và những ý kiến trái nghịch được đưa ra. Trong mọi trường hợp, tất cả những dị kiến nên xem như chuyện bình thường.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567