Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

04-Ði lễ chùa

28/01/201109:41(Xem: 7679)
04-Ði lễ chùa

BƯỚCÐẦU HỌC PHẬT
HòathượngThích Thanh Từ
PhậtLịch 2541-1998

Đi lễchùa

I.-MỞÐỀ

Ngườixưanói "làm việc có nghĩa do tâm tỉnh ngộ, làm việc vônghĩa do tâm mê mờ". Chúng ta thao thức ước mơ có thì giờrảnh đi chùa để được nghe những lời chỉ dạy đạo lýcủa Tăng, Ni. Quả là do tâm tỉnh ngộ làm động cơ thúcđẩy chúng ta. Nếu chúng ta mong có lúc rảnh để đến hítrường, lại tửu điếm, chính do tâm mê mờ làm động cơthúc đẩy chúng ta. Chọn lấy một hành động có nghĩa làđể làm theo, đích thực là người trí. Chạy theo những hànhđộng vô nghĩa hư hèn, quả là kẻ ngu. Ðã có mặt trên cõiđời, chúng ta phải chọn lấy một lối đi để đưa đờimình đến chỗ rạng ngời tươi đẹp. Vô lý, chúng ta mãiđua đòi theo sự ăn mặc vui đùa, đến một ngày kia thânnày sắp hoại, tự ta nghĩ sao về thân phận mình? Vì thế,sự đi chùa lễ Phật là một việc làm do động cơ tỉnhngộ thúc đẩy, với một tinh thần cố gắng vươn lên, gầydựng cho mình một ngày mai sáng đẹp.

II.-ÐI CHÙA

Mụcđích đi chùa không phải là để cúng lạy, mà vì học hỏichánh pháp, tập tu đức hạnh. Người Phật tử mới đếnvới đạo chưa thấm nhuần Phật pháp, nếu không được sựchỉ dạy của Tăng Ni thì làm sao hiểu đạo tu hành. Muốnhiểu đạo lý, Phật tử tới lui Tự viện để thưa hỏihọc tập là sự đương nhiên không thể thiếu. Vì sự sốngbận rộn ngoài xã hội, Phật tử đâu đủ thì giờ nghiêncứu giáo lý, chỉ gặp Tăng, Ni trong nửa giờ, một giờ,Phật tử có thể học được nhiều điều trước kia chưabiết. Vì thế, đến chùa để gặp Tăng, Ni là điều thiếtyếu không thể thiếu, đối với mỗi Phật tử tại gia. Ðichùa có hai trường hợp, đi chùa ngày thường và đi chùangày lễ vía.

Ðichùa ngày thường: Bất cứ ngày nào thấy rảnh việc nhà,người Phật tử có thể đi chùa. Khi đi chùa, Phật tử phảinhắm thẳng mục đích thưa hỏi đạo lý. Vì hỏi đạo lý,Phật tử phải ghi lại những điều gì mình chưa hiểu đểđem ra hỏi. Mỗi lần đến chùa, Phật tử phải có ít nhấtđôi ba vấn đề thưa hỏi Tăng, Ni. Những vấn đề ấy, hoặcdo thấy nếp sống sanh hoạt nhà chùa chưa hiểu đem ra hỏi,hoặc đọc trong kinh sách chỗ nào không biết đem ra hỏi.Biết thưa hỏi như vậy, người Phật tử học đạo rấtchóng tiến. Ði chùa hỏi đạo là đúng tinh thần học vấncủa người Phật tử.

Nhưngcũng có những khi không vì hỏi đạo mà vẫn đi chùa. Ðâylà trường hợp vì đua chen trong cuộc sống, người Phậttử thần kinh bị căng thẳng, vội vàng bỏ việc đến chùa.Ðến đây để ngồi yên trên tảng đá dưới bóng mát tàncây, nghe tiếng gió thì thào trên ngọn cây, giọng chim líulo trong cành râm, khung cảnh tịch mịch của nhà chùa, khiếntâm hồn lắng xuống thần kinh dịu lại. Không cần gặp ai,chẳng màng thưa hỏi, chỉ cần mắt ngắm mấy cội tùng xanh,mũi ngửi mùi hương nhẹ của hoa lan, hoa nguyệt quới, ngồiđặt lưng tựa bên vách chùa, chúng ta cảm nghe lòng nhẹ nhàngkhoan khoái, những giờ phút này gánh nợ đời oằn oại đôivai bỗng dưng như quẳng mất. Chính cảnh cô liêu tịch mịchcủa nhà chùa đã giải tỏa xoa dịu phần nào nỗi bực dọcnão phiền của Phật tử.

Ðếnchùa ngày lễ vía: Cùng Phật tử với nhau như con một cha,những ngày lễ vía là ngày huynh đệ sum họp. Ngày thườngmỗi Phật tử có hoàn cảnh riêng gia đình riêng, ít khi gặpđược nhau để thăm hỏi sự tu hành, nhắc nhở nhau về đứchạnh. Nhân ngày lễ vía ở chùa, toàn thể Phật tử tụ hộivề cùng thăm hỏi nhau trong tình đạo bạn, cùng giãi bàynhau về kinh nghiệm tu hành, thật là một cơ hội quí báu.Chúng ta đâu không nghe ông cha chúng ta đã nói "ăn cơm cócanh, tu hành có bạn". Ðoàn tụ dưới mái chùa, huynh đệngồi gần nhau đàm đạo mật thiết thân tình, đây là mộtniềm vui để dắt dìu nhau trên con đường đạo đức. Mếnthương nhau, đoàn kết nhau, khích lệ nhau, cùng nỗ lực leolên cho đến tận đỉnh ngọn giác ngộ.

Càngcao cả hơn, khi chúng ta nghe Tăng, Ni kể lại hành trang nhuộmmùi từ bi đượm màu giác ngộ của chư Phật, Bồ-tát, hoặcnghe giải thích giáo lý cao siêu thoát tục của Phật dạy,làm sáng tỏ thêm đường lối tu hành. Thật là những cơhội hiếm có để Phật tử thấm nhuần chánh pháp. Vắngmặt trong những ngày lễ vía, là một thiệt thòi đáng kểcủa người Phật tử. Có nghe giáo lý, có học công hạnhcủa Phật, Bồ-tát, Phật tử mới biết phương hướng tuhành, mới thấy những gương sáng ngời để noi theo. Dù đãqui y mấy mươi năm, không chịu học hỏi giáo lý, không siêngnghe giảng dạy, Phật tử này vẫn mờ mịt không hiểu gìvề đạo Phật. Là Phật tử phải tỏ ra xứng đáng vớidanh nghĩa của mình, nghĩa là học và hành đúng với đườnglối Phật dạy. Vì thế, đi chùa nghe giảng là điều tốicần thiết của người Phật tử.

III.-LỄ PHẬT

LạyPhật không vì van xin tha tội, không vì cầu mong ban ân, chỉvì quí kính một đấng lòng từ bi tràn trề, trí giác ngộviên mãn. Vì quí kính công đức trí tuệ của Phật nên chúngta lạy Ngài. Lạy Phật để thấy mình còn thấp thỏi ti tiện,bỏ hết những thói ngạo mạn cống cao. Quí kính gương caocả của Phật để mình noi theo. Phước đức lạy Phật làtại chỗ đó.

LễPhật vì dẹp ngã mạn - Bản chất con người chúng ta lúcnào cũng tự cao tự đắc, vênh váo nghênh ngang. Ðó là tánhxấu khiến mọi người chán ghét, tiêu mòn công đức. Phậttử biết được cái dở này, kính lạy Phật, Bồ-tát, cácbậc tôn túc, để diệt trừ tâm ngã mạn của mình. Kínhlạy các ngài là tự mình thấy không bì kịp các ngài, biếtmình thấp thì tánh ngạo mạn từ từ biến mất. Khi lạycác ngài không mong một ân sủng nào, chỉ vì một lòng kínhtrọng đức hạnh của các ngài, tự thấy mình hèn hạ thấpthỏi, thế là mọi công đức từ đó phát sanh. Bởi đứaăn trộm thì phục kẻ ăn trộm giỏi, chàng võ sĩ thì nểtay vô địch, kính trọng Phật, Bồ-tát, các bậc tôn túctự nhiên chúng ta có dự phần trong ấy rồi. Quả như câunói "kính thầy mới được làm thầy". Chúng ta muốn dẹpbỏ những tánh xấu, tập tành đức hạnh, kính lễ nhữngbậc đức hạnh là điều cần thiết vậy.

LễPhật vì noi gương - Kính lạy Phật, chính vì chúng ta muốnhọc đòi noi theo gương của Ngài. Tại sao chúng ta phải họcđòi theo gương đức Phật? Bởi vì, Phật đã đầy đủ mọicông đức, trí tuệ từ bi viên mãn, nên chúng ta phải họctheo. Ðây chúng tôi đơn cử một công hạnh nhỏ xíu củaNgài, thử xem chúng ta có theo kịp không?

Mộthôm, đức Phật một mình mang bình bát vào thôn xóm khấtthực, bỗng có một người ngoại đạo biết Ngài và biếtrõ Phật đi đến đâu ắt đệ tử của chúng đều bỏ đạoqui kính Phật. Nổi tức, ông đi theo sau lưng Phật mạ lỵđủ điều, Phật vẫn chậm rãi tiến bước đều đều khôngmột lời đối đáp. Ðến đầu đường, ông ta chạy đóntrước mặt Phật, chặn lại hỏi: Cù-đàm thua ta chưa? Phậtung dung trải tọa cụ xuống đất, ngồi kiết già đọc bàikệ:

Kẻhơn thì thêm oán
Ngườithuangủ chẳng yên
Hơnthuahai đều xả
Ấyđượcan ổn ngủ. -- (Kinh Trung A-hàm)
Ngoạiđạo hối lỗi ăn năn lễ tạ.

Thửhỏihành động này của đức Phật, chúng ta có ai dám tựhào cho mình làm được. Nếu đem danh vọng giá trị so sánh,đức Phật là một vị giáo chủ trong tôn giáo, một vị Tháitử ở thế gian, chúng ta hiện nay là một tín đồ trong tôngiáo, một kẻ tay trắng ở thế gian, đức Phật bị mạ lỵmà không tức giận, chúng ta bị mạ lỵ có tức giận chăng?Nếu chúng ta không tức giận cũng chưa dám bì với đức Phật,vì giá trị danh vọng của chúng ta có ra quái gì. Huống là,bị mạ lỵ chúng ta liền nổi giận ầm ầm. Nhìn lại đứcPhật thử xem chúng ta cách Ngài bao xa? Thế thì lạy Ngài baonhiêu mới xứng đáng trong việc noi gương theo Ngài? Ðếnnhư tâm từ bi, trí giác ngộ của Phật, sánh với chúng tathật là trời cao vực thẳm. Ðời đời kính lễ Ngài, cũnglà cái hãnh diện của chúng ta, biết kính người đáng kính.Thế mà, có một ít người thấy chúng ta lạy Phật, họ tỏvẻ ngạo nghễ. Hãy nghe câu chuyện đối đáp này:

Mộtem gái đi chùa lễ Phật, lễ xong em vừa ra đến sân chùa,gặp một quân nhân đứng ngắm cảnh. Thấy em, quân nhân liềnhỏi: em đi đâu thế? Bé gái đáp: em đi chùa lễ Phật. Quânnhân hỏi: tượng Phật bằng gỗ bằng xi măng, em lễ cáigì? Bé gái hỏi lại: Ở doanh trại anh mỗi sáng có chào cờkhông? Quân nhân đáp: sáng nào cũng chào cờ. Bé gái hỏi:cờ bằng vải bằng màu, tại sao phải nghiêm trang chào? Quânnhân đáp: chào tinh thần Tổ quốc được tượng trưng qualá cờ, chớ không phải chào vải màu. Bé gái nói: Cũng thế,em lạy tinh thần từ bi giác ngộ của Phật được tượngtrưng qua hình tượng chớ không phải lạy gỗ lạy xi măng.Quân nhân đành thôi.

VI.-KẾT LUẬN

Chọnmột hành động có ý nghĩa là con người tỉnh sáng. Khi đãnhận định kỹ việc làm của mình, dù có bị chê khen, chúngta vẫn an ổn thực hành. Chỉ có những kẻ xu thời, thấyai khen cái gì chạy theo cái nấy, mới bàng hoàng khi bị aiphê bình hành động của mình. Ði chùa lạy Phật đã mangsẵn những ý nghĩa của nó, dù có ai chê là mê tín..., tavẫn an nhiên. Ðạo đức có hay không, do lòng ta biết kínhtrọng người đạo đức hay không. Do lòng kính trọng mớithúc đẩy chúng ta học đòi và bắt chước theo người đứchạnh. Lạy Phật là động cơ đẩy mạnh chúng ta tiến mãitrên đường giác ngộ.







Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/11/2021(Xem: 12241)
Kinh Vô Lượng Nghĩa nói “vô lượng pháp từ một pháp mà sinh ra”. Ma Ha Chỉ Quán của Thiên Thai Trí Giả (538-597), quyển 5, nói: “Phật bảo các Tỳ-kheo, một pháp thâu nhiếp tất cả pháp, chính là Tâm”. Phổ môn là vô lượng giáo pháp. Vô lượng giáo pháp này cũng từ một giáo pháp mà sinh ra. Một giáo pháp phổ cập tất cả gọi là phổ môn. Chư Phật thuyết giáo thuận theo Tâm của chúng sinh. Giáo là những ngôn từ được thuyết ra cho những chúng sinh chưa thấu suốt. Pháp là những phương thức với nhiều tướng trạng giống nhau hoặc khác nhau. Tâm ý chúng sinh có bao nhiêu ngõ ngách thì giáo pháp có chừng ấy quanh co. Chư Phật dùng muôn vàn phương tiện khế cơ mang lại lợi ích cho chúng sinh. Ngài Xá Lợi Phất từng nói: “Phật dùng nhiều thứ nhân duyên và thí dụ, phương tiện ngôn thuyết như biển rộng khiến tâm người trong pháp hội được yên ổn, con nghe pháp ấy khiến lưới nghi dứt” là nghĩa trên vậy.
05/09/2021(Xem: 15126)
Bắt đầu gặp nhau trong nhà Đạo, người quy-y và người hướng-dẫn biết hỏi và biết tặng món quà pháp-vị gì cho hợp? Thực vậy, kinh sách man-mác, giáo-lý cao-siêu, danh-từ khúc-mắc, nghi-thức tụng-niệm quá nhiều – nghiêng nặng về cầu-siêu, cầu-an – không biết xem gì, tụng gì và nhất là nhiều người không có hoàn-cảnh, thỉnh đủ. Giải-đáp thực-trạng phân-vân trên, giúp người Phật-tử hiểu qua những điểm chính trong giáo-lý, biết qua sự nghiệp người xưa, công việc hiện nay và biết đặt mình vào sự rèn-luyện thân-tâm trong khuôn-khổ giác-ngộ và xử-thế, tôi biên-soạn cuốn sách nhỏ này. Cuốn sách nhỏ này không có kỳ-vọng cao xa, nó chỉ ứng theo nhu-cầu cần-thiết, mong giúp một số vốn tối-thiểu cho người mới vào Đạo muốn tiến trên đường tu-học thực-sự. Viết tại Sài-thành mùa Đông năm Mậu-tuất (1958) Thích-Tâm-Châu
23/07/2021(Xem: 11983)
Giữa tương quan sinh diệt và biển đổi của muôn trùng đối lưu sự sống, những giá trị tinh anh của chân lý bất diệt từ sự tỉnh thức tuyệt đối vẫn cứ thế, trơ gan cùng tuế nguyệt và vững chãi trước bao nổi trôi của thế sự. Bản thể tồn tại của chân lý tuyệt đối vẫn thế, sừng sững bất động dẫu cho người đời có tiếp nhận một cách nồng nhiệt, trung thành hay bị rũ bỏ, vùi dập một cách ngu muội và thô thiển bởi các luận điểm sai lệch chối bỏ sự tồn tại của tâm thức con người. Sự vĩnh cửu ấy phát xuất từ trí tuệ vô lậu và tồn tại chính bởi mục đích tối hậu là mang lại hạnh phúc chân thật cho nhân loại, giúp con người vượt thoát xiềng xích trói buộc của khổ đau. Tuỳ từng giai đoạn của nhân loại, có những giai đoạn, những tinh hoa ấy được tiếp cận một cách mộc mạc, dung dị và thuần khiết nhất; có thời kỳ những nét đẹp ấy được nâng lên ở những khía cạnh khác nhau; nhưng tựu trung cũng chỉ nhằm giải quyết những khó khăn hiện hữu trong đời sống con người và xã hội.
07/05/2021(Xem: 16837)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
29/11/2020(Xem: 12646)
“Ma” tiếng Phạn gọi là Mara, Tàu dịch là “Sát,” bởi nó hay cướp của công đức, giết hại mạng sống trí huệ của người tu. “Ma” cũng chỉ cho những duyên phá hoại làm hành giả thối thất đạo tâm, cuồng loạn mất chánh niệm, hoặc sanh tà kiến làm điều ác, rồi kết cuộc bị sa đọa. Những việc phát sanh công đức trí huệ, đưa loài hữu tình đến Niết-bàn, gọi là Phật sự. Các điều phá hoại căn lành, khiến cho chúng sanh chịu khổ đọa trong luân hồi sanh tử, gọi là Ma sự. Người tu càng lâu, đạo càng cao, mới thấy rõ việc ma càng hung hiểm cường thạnh. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong "Niệm Phật Thập Yếu", Ma tuy nhiều, nhưng cốt yếu chỉ có ba loại: Phiền não ma, Ngoại ma và Thiên ma
04/11/2020(Xem: 7876)
Những chúng sanh thuộc hàng Thanh Văn: Các chúng sanh thuộc hàng Thanh Văn được chứng ngộ khi nghe được những học thuyết về các Uẩn, Giới, Xứ, nhưng lại không đặc biệt lưu tâm đến lý nhân quả. Họ giải thoát được sự trói buộc của các phiền não nhưng vẫn chưa đoạn diệt được tập khí của mình. Họ đạt được sự thể chứng Niết-Bàn, và an trú trong trạng thái ấy, họ tuyên bố rằng họ đã chấm dứt sự hiện hữu, đạt được đời sống Phạm hạnh, tất cả những gì cần phải làm đã được làm, họ sẽ không còn tái sinh nữa. Những vị nầy đã đạt được Tuệ kiến về sự Phi hiện hữu của “Ngã thể” trong một con người, nhưng vẫn chưa thấy được sự Phi hiện hữu trong các sự vật. Những nhà lãnh đạo triết học nào tin vào một "Đấng Sáng Tạo" hay tin vào “Linh hồn” cũng có thể được xếp vào đẳng cấp nầy.
03/10/2020(Xem: 20278)
Đây là một bài nghị luận về Lý Duyên Khởi được Ajahn Brahm viết lần đầu tiên hơn hai thập niên trước. Vào lúc đó, ngài quan tâm nhiều hơn đến những chi tiết phức tạp trong việc giảng dạy kinh điển. Vì lý do đó bài nghị luận này có tính cách hoàn toàn chuyên môn, so với những gì ngài giảng dạy hiện nay. Một trong những học giả Phật học nổi tiếng nhất hiện nay về kinh điển Phật giáo đương đại là Ngài Bhikkhu Bodhi, đã nói với tôi rằng “Đây là bài tham luận hay nhất mà tôi được đọc về đề tài này”.
05/04/2020(Xem: 11727)
Luận Đại Thừa Trăm Pháp do Bồ tát Thế Thân (TK IV TL) tạo nêu rõ tám thức tâm vương hàm Tâm Ý Thức thuộc ngành tâm lý – Duy Thức Học và là một tông phái: Duy Thức Tông - thuộc Đại Thừa Phật Giáo. Tâm Ý Thức như trở thành một đề tài lớn, quan trọng, bàn cải bất tận lâu nay trong giới Phật học thuộc tâm lý học. Bồ Tát Thế Thântạo luận, lập Du Già Hành Tông ở Ấn Độ, và sau 3 thế kỷ pháp sư Huyền Trang du học sang Ấn Độ học tông này với Ngài Giới Hiền tại đại học Na Lan Đà (Ấn Độ) năm 626 Tây Lịch. Sau khi trở về nước (TH) Huyền Trang lập Duy Thức Tông và truyền thừa cho Khuy Cơ (632-682) xiển dương giáo nghĩa lưu truyền hậu thế.
30/03/2020(Xem: 9189)
Những người Cơ đốc giáo thường đặt vấn đề: Thượng đế có phải là một con người hay không? Nếu Thượng đế không phải là một con người thì làm sao chúng ta có thể cầu nguyện? Đây là một vấn đề rất lớn trong Cơ đốc giáo. (God is a person or is not a person?)
23/03/2020(Xem: 10410)
Có một con sư tử mẹ đang đi kiếm ăn. Nó sắp làm mẹ. Buổi sáng đó nó chạy đuổi theo một chú nai. Chú nai con chạy thật nhanh dù sức yếu. Sư tử mẹ dầu mạnh, nhưng đang mang thai, nên khá chậm chạp. Sư tử mẹ chạy sau chú nai con rất lâu, khoảng 15 phút, mà vẫn chưa bắt kịp. Sau đó chúng tới một rãnh sâu. Chú nai lẹ làng nhảy qua rãnh, sang bờ bên kia. Sư tử mẹ rất bực tức vì không bắt kịp con mồi, và vì nó đang cần thức ăn cho cả nó và đứa con trong bụng. Vì thế, nó cố hết sức để nhảy qua cái rãnh sâu. Nhưng tai họa đã xảy ra, sư tử mẹ đã sẩy đứa con khi cố nhảy qua rãnh. Dầu qua được bờ bên kia, nhưng sư tử mẹ biết rằng mình đã đánh mất đứa con mà nó đã chờ đợi từ bao lâu, đã yêu thương hết lòng, chỉ vì một phút vô tâm của mình. Nó đã quên rằng nó đang mang một bào thai trong bụng, và nó cần phải hết sức cẩn trọng. Chỉ một phút lơ đễnh, nó đã không giữ được đứa con của mình.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567