Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

03-Ngũ giới

28/01/201109:41(Xem: 7976)
03-Ngũ giới

BƯỚCÐẦU HỌC PHẬT
HòathượngThích Thanh Từ
PhậtLịch 2541-1998

Ngũgiới

I.-MỞÐỀ

Conngườilà đối tượng của đạo Phật, bao nhiêu luật, baonhiêu pháp môn, đức Phật đều vì con người lập bày. Ðemlại sự an vui hạnh phúc cho con người, là mục tiêu chánhyếu của đạo Phật. Song quan niệm đạo Phật, không phảiđược nhiều của cải, nhiều tình yêu v.v... là con ngườicó hạnh phúc. Hạnh phúc là người sống biết tiết chế,biết tôn trọng hạnh phúc của mọi người, biết thành thậtthương mến nhau. Một dân tộc văn minh là biết tôn trọngsanh mạng của nhau, tôn trọng những quyền tự do căn bảncủa con người. Vì thế, ngũ giới là nền tảng căn bảnđem lại hạnh phúc cho con người, xây dựng con người sốngđúng ý nghĩa văn minh của nhân loại. Ngũ giới là cơ bảnđạo đức của người Phật tử, khi bắt đầu bước chântrên con đường giác ngộ giải thoát. Thiếu căn bản đạođức này, dù chúng ta có nói đạo đức cao siêu đến đâucũng là lối nói rỗng. Sự tu hành thiết thực phải gầydựng cơ bản trước, sau mới tiến lên những bậc cao siêu.Ðó là tầm quan trọng của ngũ giới.

II.-ÐỊNH NGHĨA

Ngũgiới là năm điều ngăn cấm do đức Phật chế ra, bảo cácPhật tử phải tuân hành theo. Sau khi qui y người ấy đã tựnhận là đệ tử Phật, để đủ tư cách một Phật tử cầnphải gìn giữ năm giới. Năm điều răn cấm này, Phật vìthương xót chúng sanh mà chế ra, cốt khiến đời sống họđược an lành hạnh phúc. Gìn giữ năm giới này là vì mình,không phải vì Phật. Hình thức năm giới:

1.Không sát sanh: Không sát sanh nghĩa là không được giết hạimạng sống của con người. Chúng ta tự quí sanh mạng củamình, vô lý lại sát hại sanh mạng kẻ khác. Trên lẽ côngbằng nhân đạo không cho phép chúng ta làm việc ấy. Nếulàm, chúng ta đã trái lẽ công bằng thiếu lòng nhân đạo,đâu còn xứng đáng là đệ tử Phật. Giết hại mạng sốngngười có ba: trực tiếp giết, xúi bảo người giết, tùyhỉ trong việc giết hại. Phật tử không tự tay mình giếtmạng người, không dùng miệng xúi bảo đốc thúc kẻ khácgiết, khi thấy họ giết hại nhau chỉ một bề thương xótkhông nên vui thích. Ðó là giữ giới không sát sanh. Nhưngsuy luận rộng ra, chúng ta quí trọng mạng sống, những convật cũng quí trọng mạng sống, để lòng công bằng trànđến các loài vật, nếu không cần thiết, chúng ta cũng giảmbớt giết hại sanh mạng của chúng.

2.Không trộm cướp: Của cải tài sản của chúng ta, không muốnai xâm phạm đến, của cải tài sản của người, chúng tacũng không được giựt lấy hay lén lấy. Bởi cướp giựthay lén lấy của người là hành động trái nhân đạo, phạmluật pháp chánh quyền, phải bị trừng phạt. Trộm cướplà do lòng tham lam ác độc, chỉ nghĩ lợi mình, quên nỗiđau khổ của người, mất cả công bằng và nhân đạo, ngườiPhật tử quyết định không được làm.

3.Không tà dâm: Người Phật tử có vợ chồng đôi bạn nhưmọi người thế gian khác. Khi có đôi bạn rồi tuyệt đốikhông phạm đến sự trinh bạch của kẻ khác. Nếu phạm thìmắc tội tà dâm. Bởi vì đây là hành động làm đau khổcho gia đình mình và gia đình người, tạo thành nguy cơ tángia bại sản. Do một chút tình cảm riêng tư của mình, khiếnnhiều người khổ đau liên lụy, quả là thiếu lòng nhân.Ðể bảo đảm sự an ổn của gia đình mình và hạnh phúccủa gia đình người, Phật tử nhất định không phạm tàdâm.

4.Không nói dối: Nói lời trái với sự thật để mưu cầulợi mình, hoặc hại người là nói dối. Do động cơ thamlam ác độc, sự kiện xảy ra thế này lại nói thế khác,sửa trái làm mặt, đổi phải thành quấy, khiến ngườimắchọa. Người nói như thế trái với đạo đức, mất cả lòngnhân, không xứng đáng là một Phật tử. Phật tử là ngườiđạo đức nên ăn nói có mẫu mực, thấy biết thế nào nóithẳng thế ấy, không điêu xảo dối trá. Trừ trường hợpvì lợi người lợi vật, không nỡ nói thật để ngườibị hại hoặc khổ đau, do lòng nhân cứu người cứu vậtnói sai sự thật mà không phạm. Không nói dối là giữ lòngtin đối với mọi người chung quanh.

5.Không uống rượu: Ðạo Phật chủ trương giác ngộ, muốnđược giác ngộ trước phải điềm đạm tỉnh sáng, uốngrượu vào gan ruột nóng bức, tâm trí quay cuồng, mất hếtbình tĩnh không còn sáng suốt, trái hẳn mục đích giác ngộ.Chính vì nóng bức cuồng loạn, có những người khi say sưatội lỗi họ cũng dám làm, xấu xa gì họ cũng không sợ,mất hết lương tri. Vì thế, người biết đạo đức phảitránh xa không uống rượu. Uống rượu chẳng những làm mấttrí khôn, lại gây nên bệnh hoạn cho thân thể, còn di hạicho con cái sau này đần độn. Quả là một họa hại cho cánhân và xã hội. Người Phật tử vì sự nghiệp giác ngộ,vì lợi ích cho mình cho người quyết hẳn không uống rượu.Trừ trường hợp mắc bệnh y sĩ bảo phải dùng rượu hòathuốc uống mới lành, Phật tử được uống thuốc rượuđến khi lành bệnh thì chấm dứt, cần phải trình cho chưTăng biết trước khi uống.

III.-LỢI ÍCH BẢN THÂN

Ngườibiết giữ gìn năm giới đã tạo thành căn bản đạo đứcvà sự an lành cho bản thân. Không sát sanh, bản thân ta khôngbị người giết, hoặc tù tội về giết người, cũng khôngcó thù hận về nợ máu với nhau. Thế là sống chúng ta khôngkinh hoàng sợ hãi do thù hằn gây nên. Không trộm cướp, bảnthân ta không mắc tội tù về trộm cướp, ở đâu hay điđến chỗ nào khỏi sợ người theo dõi nghi ngờ. Tới luitự do, đến đi an ổn, không phải hạnh phúc là gì? Khôngtà dâm, bản thân ta khỏi phải lao thần tổn trí, khỏi sợai bàn tán dở hay, mọi người đều tín nhiệm và tin cậyta. Bản thân ta trinh bạch, khiến người tự quí mến. Tựmình an ổn, gia đình cũng an ổn. Không nói dối, chính ta khôngphải hối hận, lời nói tự có giá trị, gây được niềmtin của mọi người. Người hay nói dối sẽ bị xã hội đánhgiá thấp, đề xướng điều gì đều bị nghi ngờ, làm việcgì ít ai tán trợ. Không uống rượu, chính ta khỏi bị cáitệ điên cuồng mất trí, khỏi gây cho cơ thể bệnh hoạnsuy yếu, khỏi bị người khinh thường trong lúc say sưa. Tráilại, bản thân ta điềm đạm bình tĩnh, thân thể khỏe mạnh,đối với mọi người đều được quí kính, sanh con cũngthông minh sáng suốt. Ðó là lợi ích bản thân ngay trong hiệntại. Nếu về mai sau, không sát sanh thân tráng kiện sốnglâu; không trộm cướp, được tài sản sung túc; không tàdâm, thân thể đẹp đẽ; không nói dối, ăn nói khôn ngoanmọi người yêu chuộng; không uống rượu, trí tuệ sáng suốt.

IV.-LỢI ÍCH GIA ÐÌNH XÃ HỘI

Mọingười trong nhân loại đều tự nhận sanh mạng là tối thượng.Biết tôn trọng sanh mạng là nếp sống văn minh, chà đạptrên sanh mạng là con người dã man. Biết giữ năm giới lànguồn hạnh phúc của gia đình, là nếp sống văn minh củaxã hội. Ðức Phật nhìn thẳng vào con người, đem lại chocon người một đời sống an lành, một gia đình hạnh phúc,một xã hội văn minh, Ngài chế ra năm giới.

Sanhmạng là giá trị tối thượng của con người mọi ngườiđều phải tôn trọng, vì tôn trọng sanh mạng con người,Phật cấm Phật tử không được sát sanh. Sanh mạng con ngườiđược tồn tại vững bền, nhờ tài sản nuôi dưỡng, vìtôn trọng tài sản của người, Phật cấm Phật tử khôngđược trộm cướp. Sự sống của con người cần có gia đình,gia đình là tổ ấm của nhân loại, tổ ấm ấy bị lung laylà mất hạnh phúc, vì tôn trọng hạnh phúc của gia đình,Phật cấm Phật tử không được tà dâm. Sự sống chung đụngtrong gia đình và ngoài xã hội cần phải tin tưởng nhau, thiếulòng tin thì không thể thông cảm thân yêu, vì đem sự tinyêu lại cho mọi người, Phật cấm không được nói dối.Trật tự của gia đình và xã hội là sự an ổn, một duyêncớ gây xáo trộn trong gia đình và ngoài xã hội là làm mấttrật tự chung, vì tôn trọng trật tự của gia đình và xãhội, Phật cấm Phật tử không được uống rượu.

Chỉtrong năm giới thôi, nếu gia đình nào gìn giữ trọn vẹnlà gia đình ấy có hạnh phúc, trên thuận dưới hòa, tin yêuthuần cẩn. Nếu mọi người trong xã hội ứng dụng triệtđể là một xã hội văn minh, chan hòa sự cảm thông và thươngmến. Chúng ta vì lợi ích bản thân, vì hạnh phúc của giađình, vì sự an lạc của xã hội, nỗ lực gìn giữ năm giới.Gìn giữ năm giới là tôn trọng nhân bản, là nếp sống vănminh, là nền tảng đạo đức vậy.

V.-KẾT LUẬN

Sựkhổ đau tột độ của con người không gì hơn, khi họ nghĩđến sanh mạng họ bị đe dọa, tiền của họ bị mất mát,người yêu họ bị xâm phạm. Chính đây là nỗi thống khổkhắc nghiệt nhất của con người. Vì cứu khổ đem vui lạicho con người, Phật cấm người Phật tử không được làmba điều ấy. Tình thương vĩnh viễn không có, nếu con ngườikhông tin tưởng và cảm thông nhau. Ðiều này cũng là nỗiđau khổ thứ yếu của con người. Bởi vì trong cuộc sốngmà không có tình thương, là loài người đang lạc loài ởgiữa bãi sa mạc hay chốn rừng hoang, còn đâu sự đùm bọcthân yêu chia sớt cay đắng ngọt bùi. Muốn đem tình thươngcho nhân loại, trước tiên phải có tin tưởng thông cảm nhau,nên Phật cấm người Phật tử không được nói dối. Chínhbao nhiêu đó, chúng ta đã thấy lòng từ bi lênh láng củađức Phật. Tinh thần cứu khổ ban vui của đạo Phật đãthể hiện rõ ràng trong năm giới này. Vì thương mình thươngngười, Phật tử chúng ta phải cố gắng gìn giữ và khuyênngười gìn giữ. Ðó là căn bản của Ðạo làm người hiệntại và mai sau.






Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/11/2021(Xem: 12307)
Kinh Vô Lượng Nghĩa nói “vô lượng pháp từ một pháp mà sinh ra”. Ma Ha Chỉ Quán của Thiên Thai Trí Giả (538-597), quyển 5, nói: “Phật bảo các Tỳ-kheo, một pháp thâu nhiếp tất cả pháp, chính là Tâm”. Phổ môn là vô lượng giáo pháp. Vô lượng giáo pháp này cũng từ một giáo pháp mà sinh ra. Một giáo pháp phổ cập tất cả gọi là phổ môn. Chư Phật thuyết giáo thuận theo Tâm của chúng sinh. Giáo là những ngôn từ được thuyết ra cho những chúng sinh chưa thấu suốt. Pháp là những phương thức với nhiều tướng trạng giống nhau hoặc khác nhau. Tâm ý chúng sinh có bao nhiêu ngõ ngách thì giáo pháp có chừng ấy quanh co. Chư Phật dùng muôn vàn phương tiện khế cơ mang lại lợi ích cho chúng sinh. Ngài Xá Lợi Phất từng nói: “Phật dùng nhiều thứ nhân duyên và thí dụ, phương tiện ngôn thuyết như biển rộng khiến tâm người trong pháp hội được yên ổn, con nghe pháp ấy khiến lưới nghi dứt” là nghĩa trên vậy.
05/09/2021(Xem: 15180)
Bắt đầu gặp nhau trong nhà Đạo, người quy-y và người hướng-dẫn biết hỏi và biết tặng món quà pháp-vị gì cho hợp? Thực vậy, kinh sách man-mác, giáo-lý cao-siêu, danh-từ khúc-mắc, nghi-thức tụng-niệm quá nhiều – nghiêng nặng về cầu-siêu, cầu-an – không biết xem gì, tụng gì và nhất là nhiều người không có hoàn-cảnh, thỉnh đủ. Giải-đáp thực-trạng phân-vân trên, giúp người Phật-tử hiểu qua những điểm chính trong giáo-lý, biết qua sự nghiệp người xưa, công việc hiện nay và biết đặt mình vào sự rèn-luyện thân-tâm trong khuôn-khổ giác-ngộ và xử-thế, tôi biên-soạn cuốn sách nhỏ này. Cuốn sách nhỏ này không có kỳ-vọng cao xa, nó chỉ ứng theo nhu-cầu cần-thiết, mong giúp một số vốn tối-thiểu cho người mới vào Đạo muốn tiến trên đường tu-học thực-sự. Viết tại Sài-thành mùa Đông năm Mậu-tuất (1958) Thích-Tâm-Châu
23/07/2021(Xem: 12010)
Giữa tương quan sinh diệt và biển đổi của muôn trùng đối lưu sự sống, những giá trị tinh anh của chân lý bất diệt từ sự tỉnh thức tuyệt đối vẫn cứ thế, trơ gan cùng tuế nguyệt và vững chãi trước bao nổi trôi của thế sự. Bản thể tồn tại của chân lý tuyệt đối vẫn thế, sừng sững bất động dẫu cho người đời có tiếp nhận một cách nồng nhiệt, trung thành hay bị rũ bỏ, vùi dập một cách ngu muội và thô thiển bởi các luận điểm sai lệch chối bỏ sự tồn tại của tâm thức con người. Sự vĩnh cửu ấy phát xuất từ trí tuệ vô lậu và tồn tại chính bởi mục đích tối hậu là mang lại hạnh phúc chân thật cho nhân loại, giúp con người vượt thoát xiềng xích trói buộc của khổ đau. Tuỳ từng giai đoạn của nhân loại, có những giai đoạn, những tinh hoa ấy được tiếp cận một cách mộc mạc, dung dị và thuần khiết nhất; có thời kỳ những nét đẹp ấy được nâng lên ở những khía cạnh khác nhau; nhưng tựu trung cũng chỉ nhằm giải quyết những khó khăn hiện hữu trong đời sống con người và xã hội.
07/05/2021(Xem: 16918)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
29/11/2020(Xem: 12697)
“Ma” tiếng Phạn gọi là Mara, Tàu dịch là “Sát,” bởi nó hay cướp của công đức, giết hại mạng sống trí huệ của người tu. “Ma” cũng chỉ cho những duyên phá hoại làm hành giả thối thất đạo tâm, cuồng loạn mất chánh niệm, hoặc sanh tà kiến làm điều ác, rồi kết cuộc bị sa đọa. Những việc phát sanh công đức trí huệ, đưa loài hữu tình đến Niết-bàn, gọi là Phật sự. Các điều phá hoại căn lành, khiến cho chúng sanh chịu khổ đọa trong luân hồi sanh tử, gọi là Ma sự. Người tu càng lâu, đạo càng cao, mới thấy rõ việc ma càng hung hiểm cường thạnh. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong "Niệm Phật Thập Yếu", Ma tuy nhiều, nhưng cốt yếu chỉ có ba loại: Phiền não ma, Ngoại ma và Thiên ma
04/11/2020(Xem: 7910)
Những chúng sanh thuộc hàng Thanh Văn: Các chúng sanh thuộc hàng Thanh Văn được chứng ngộ khi nghe được những học thuyết về các Uẩn, Giới, Xứ, nhưng lại không đặc biệt lưu tâm đến lý nhân quả. Họ giải thoát được sự trói buộc của các phiền não nhưng vẫn chưa đoạn diệt được tập khí của mình. Họ đạt được sự thể chứng Niết-Bàn, và an trú trong trạng thái ấy, họ tuyên bố rằng họ đã chấm dứt sự hiện hữu, đạt được đời sống Phạm hạnh, tất cả những gì cần phải làm đã được làm, họ sẽ không còn tái sinh nữa. Những vị nầy đã đạt được Tuệ kiến về sự Phi hiện hữu của “Ngã thể” trong một con người, nhưng vẫn chưa thấy được sự Phi hiện hữu trong các sự vật. Những nhà lãnh đạo triết học nào tin vào một "Đấng Sáng Tạo" hay tin vào “Linh hồn” cũng có thể được xếp vào đẳng cấp nầy.
03/10/2020(Xem: 20340)
Đây là một bài nghị luận về Lý Duyên Khởi được Ajahn Brahm viết lần đầu tiên hơn hai thập niên trước. Vào lúc đó, ngài quan tâm nhiều hơn đến những chi tiết phức tạp trong việc giảng dạy kinh điển. Vì lý do đó bài nghị luận này có tính cách hoàn toàn chuyên môn, so với những gì ngài giảng dạy hiện nay. Một trong những học giả Phật học nổi tiếng nhất hiện nay về kinh điển Phật giáo đương đại là Ngài Bhikkhu Bodhi, đã nói với tôi rằng “Đây là bài tham luận hay nhất mà tôi được đọc về đề tài này”.
05/04/2020(Xem: 11775)
Luận Đại Thừa Trăm Pháp do Bồ tát Thế Thân (TK IV TL) tạo nêu rõ tám thức tâm vương hàm Tâm Ý Thức thuộc ngành tâm lý – Duy Thức Học và là một tông phái: Duy Thức Tông - thuộc Đại Thừa Phật Giáo. Tâm Ý Thức như trở thành một đề tài lớn, quan trọng, bàn cải bất tận lâu nay trong giới Phật học thuộc tâm lý học. Bồ Tát Thế Thântạo luận, lập Du Già Hành Tông ở Ấn Độ, và sau 3 thế kỷ pháp sư Huyền Trang du học sang Ấn Độ học tông này với Ngài Giới Hiền tại đại học Na Lan Đà (Ấn Độ) năm 626 Tây Lịch. Sau khi trở về nước (TH) Huyền Trang lập Duy Thức Tông và truyền thừa cho Khuy Cơ (632-682) xiển dương giáo nghĩa lưu truyền hậu thế.
30/03/2020(Xem: 9216)
Những người Cơ đốc giáo thường đặt vấn đề: Thượng đế có phải là một con người hay không? Nếu Thượng đế không phải là một con người thì làm sao chúng ta có thể cầu nguyện? Đây là một vấn đề rất lớn trong Cơ đốc giáo. (God is a person or is not a person?)
23/03/2020(Xem: 10452)
Có một con sư tử mẹ đang đi kiếm ăn. Nó sắp làm mẹ. Buổi sáng đó nó chạy đuổi theo một chú nai. Chú nai con chạy thật nhanh dù sức yếu. Sư tử mẹ dầu mạnh, nhưng đang mang thai, nên khá chậm chạp. Sư tử mẹ chạy sau chú nai con rất lâu, khoảng 15 phút, mà vẫn chưa bắt kịp. Sau đó chúng tới một rãnh sâu. Chú nai lẹ làng nhảy qua rãnh, sang bờ bên kia. Sư tử mẹ rất bực tức vì không bắt kịp con mồi, và vì nó đang cần thức ăn cho cả nó và đứa con trong bụng. Vì thế, nó cố hết sức để nhảy qua cái rãnh sâu. Nhưng tai họa đã xảy ra, sư tử mẹ đã sẩy đứa con khi cố nhảy qua rãnh. Dầu qua được bờ bên kia, nhưng sư tử mẹ biết rằng mình đã đánh mất đứa con mà nó đã chờ đợi từ bao lâu, đã yêu thương hết lòng, chỉ vì một phút vô tâm của mình. Nó đã quên rằng nó đang mang một bào thai trong bụng, và nó cần phải hết sức cẩn trọng. Chỉ một phút lơ đễnh, nó đã không giữ được đứa con của mình.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567