Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

27-Học Phật bằng cách nào?

28/01/201109:41(Xem: 7913)
27-Học Phật bằng cách nào?

BƯỚCÐẦU HỌC PHẬT

HòathượngThích Thanh Từ
PhậtLịch 2541-1998

HọcPhật bằng cách nào?

Hỏi học Phật bằng cách nào, tức là hỏi đến phương pháp họcPhật. Ở thế gian môn học nào cũng có phương pháp riêngcủa nó. Ví như môn toán học, người học trò trước phảibiết số, kế học thuộc cửu chương, học cách cộng trừnhân chia, lên nữa phải học công thức, phương trình v.v...Môn văn chương, trước phải biết chữ cái, học ráp vần,viết chánh tả, học văn phạm, tập cách làm văn v.v... Phươngchi Phật pháp là môn học giác ngộ, mà không có phương phápriêng của nó hay sao?

Phươngpháphọc Phật tức là ba môn tuệ học: Văn tuệ, Tưtuệ, và Tu tuệ. Bởi vì muốn vào cửa giác ngộ khôngphải anh tướng trí tuệ thì không sao vào được. Phật pháplà chân lý là những sự thật, nếu không có ngọn đuốctrí tuệ soi sáng, làm sao chúng ta thấy mọi sự thật ở chungquanh, không cần trí tuệ, chỉ dùng lòng tin đến với đạoPhật, để học Phật pháp, thật là sai lầm lớn lao. Ðâylà chứng bệnh trầm trọng của Phật tử hiện thời. Cầnchữa lành bệnh này, chúng ta phải ứng dụng triệt để bamôn tuệ học vào công trình tu học Phật pháp.

Thếnào là Văn tuệ?

Vănlà nghe, do nghe giáo lý Phật pháp trí tuệ mở sáng, gọi làVăn tuệ. Chúng ta nghe Phật pháp qua lời giảng dạy của chưtăng, của thiện hữu tri thức đã tu học trước ta. Nhữnglời giảng dạy ấy xuất phát từ kinh điển của Phật, trongđó chứa toàn lời lẽ chân chánh, chỉ bày mọi sự thậtcho chúng sanh. Càng nghe trí tuệ chúng ta càng sáng. Hoặc chúngta trực tiếp đọc kinh sách Phật, khiến mở mang trí tuệcũng thuộc Văn tuệ. Chịu khó nghe giảng dạy, ch?u khó nghiêncứu kinh sách Phật, đó là người biết từ cửa Văn tuệtiến thẳng vào ngôi nhà Phật pháp.

Thếnào là Tư tuệ?

Tưlà suy xét phán đoán, do suy xét phán đoán những lời dạytrong Phật pháp, trí tuệ càng tăng trưởng. Chúng ta đượcnghe lời chỉ dạy của thầy bạn, dẫn từ trong kinh Phậtra, song nghe rồi tin liền là chưa đủ tư cách học Phật.Buộc chúng ta phải dùng trí phán đoán xem đúng hay sai, nếuquả thật đúng, từ đó chúng ta mới tin. có thế mới thựchành đúng câu "các người phải tự thắp đuốc lên mà đi,thắp đuốc lên với chánh pháp", trong kinh Pháp Cú. Chúng tamuốn mở mang trí tuệ, song tự mình làm sao mở được, phảimồi ngọn đuốc trí tuệ của mình với ngọn đuốc chánhpháp của Phật, trí tuệ mới phát sáng.

Mồibằng cách nào?

Vínhư chúng ta nghe vị Sư giảng rằng: "Tất cả thế gian đềulà vô thường." Sau đó phải dùng trí tuệ của mình phánđoán xem đúng hay không. Chúng ta tự đặt câu hỏi: tất cảthế gian đều là vô thường, có sự vật nào thoát ngoàiluật lệ ấy chăng? Nếu có, câu nói này chưa phải chân lý.Bằng không, mới thật đúng chân lý, chúng ta sẽ hoàn toàntin. Thế rồi, ta tự khảo sát :

Conngười có phải vô thường không? Từ ông bà đến cha mẹchúng ta đều có sanh ra, lớn lên, bệnh hoạn, già yếu rồichết. Kể luôn cả ta, khi nào còn nhỏ bé, lớn lên, bệnhhoạn, già yếu, rồi cũng sẽ chết. Trong gia đình thân tộcchúng ta đã thế, ngoài xã hội cũng thế, cả nhân loại trênthế giới cũng thế; ngàn xưa là thế, mãi sau này cũng thế.Quả là con người vô thường.

Ðếnnhững sự vật, nào nhà cửa, bàn ghế, xe cộ... có bị vôthường không? Chính cái nhà của mình, khi mới cất thì tốtđẹp lành lặn, qua vài ba năm thấy cũ dần, đến năm mườinăm thì hư sập. Cái bàn viết cũng thế, khi mới đóng xembóng loáng tốt đẹp, dùng mấy năm thấy đã cũ, tróc sơnkhờn mặt, rồi đây sẽ mục nát hư hoại. Chiếc xe đạpkhi mới mua đem về mới toanh, chạy được một năm vỏ đãrách, cổ lỏng, các con ốc lờn... vài năm nữa sẽ hư. Thếlà, nhà cửa, bàn ghế, xe cộ... những vật cần dùng bêncạnh chúng ta thảy bị vô thường chi phối. Cho đến trămngàn vật khác, nếu khảo sát đều thấy đồng một số phậnnhư nhau.

Chúngta có thể kết luận rằng: "tất cả thế gian là vô thường",quả thật là chân lý. Ta tin chắc lẽ này, dù có ai nói khácđi, cũng không làm lay động được lòng tin của ta. Bởi lòngtin này đã được gạn lọc qua sàng lý trí, nên nó vữngchắc không dễ gì làm lung lay.

Lạimột thí dụ, chúng ta nghe vị Sư giảng lý luân hồi, bảorằng: "Muôn vật ở thế gian đều xoay quanh vòng luân hồi."Ta tự đặt câu hỏi: Tại sao muôn vật đều luân hồi? Cóvật nào không luân hồi chăng? Chúng ta bắt đầu xét từthực vật:

Câycối thành hình bắt nguồn từ hạt, hạt nẩy mầm tăng trưởngthành cây, nở hoa, kết trái; trái sanh hạt, hạt lại nẩymầm... lộn đi đảo lại không cùng. Song đó là sự lộnđi đảo lại từ cây này sang cây khác, ngay bản thân câyấy có đảo lộn vậy không? Cũng lộn đi đảo lại như thế.Thân cây hiện sống đây, do châm rễ hút đất nước... nuôidưỡng mới được sanh trưởng, dần dần thành đại thọ.Rễ hút đất nước nuôi dưỡng thân cành lá, lá rụng biếnthành phân đất, cành gãy mục cũng thành phân đất, thâncây ngã mục cũng trở về đất nước. Thân cây nhờ đấtnước sanh trưởng, khi ngã mục lại trở về đất nước.

Nướcdo ánh nắng bốc thành hơi, hơi lên cao gặp khí lạnh đọnglại, rơi xuống thành nước; nước lại bốc hơi... mãi mãikhông cùng.

Tonhư quả địa cầu vẫn quay tròn quanh cái trục, sáng rồitối, tối lại sáng. Căn cứ vào sự quay tròn của nó, ngườita chia ra ngày giờ tháng năm, thời tiết xuân hạ thu đông,xoay vần thế mãi không cùng.

Dosự khảo sát trên, chúng ta khẳng định rằng "muôn vật ởthế gian đều xoay quanh vòng luân hồi", là sự thật khôngcòn gì phải nghi ngờ.

Trênđây tạm cử vài thí dụ làm căn bản cho công cuộc suy xétphán đoán Phật pháp. Căn cứ vào đây, chúng ta phán xét nhữnglời Phật dạy, hoặc chư tăng dạy trong những trường hợpkhác. Có thế, mới phân biệt được chánh tà và mới đúngtinh thần người học Phật.

Thếnào là Tu Tuệ?

Saukhi phán xét lời Phật dạy là đúng, chúng ta đem áp dụngtrong cuộc sống hằng ngày của mình, khiến chánh lý càngbày hiện sáng tỏ, là tu tuệ. Ví như, đã biết rõ "tấtcả thế gian là vô thường", chúng ta ứng dụng sự vô thườngvào đời sống của mình, trong những trường hợp như sau:

Ðãbiết rõ thế gian là vô thường, khi gặp vô thường đếnvới bản thân, với gia đình ta, ta vẫn giữ bình tĩnh khônghốt hoảng hãi sợ. Vì biết chắc điều đó ở thế giankhông ai tránh khỏi, sợ hãi kinh hoàng chỉ làm rối thêm vôích. Bởi không sợ nên tâm ta bình tĩnh sáng suốt, giải quyếtmọi việc một cách tốt đẹp. Chúng ta vẫn đủ sáng suốtđể khuyên giải cho những người đồng cảnh ngộ bớt đaukh?.

Biếtrõ thế gian là vô thường, mọi sự tranh giành danh lợi, tàisắc... lòng ta nguội lạnh. Tranh giành những thứ tạm bợấy làm gì, để rồi chuốc khổ về mình, gây đau khổ chongười, rốt cuộc chỉ thành việc mò trăng bắt bóng. Lòngtham lam giành giật dục lạc thế gian, do đây dứt sạch.

Dothấy rõ lẽ vô thường, chúng ta không thể ngồi yên chờchết. Phải cố gắng làm mọi việc lành, nếu cơn vô thườngđến, chúng ta có muốn làm cũng không sao làm được. Lạibiết quí tiếc thời giờ, một ngày qua rồi không tìm lạiđược, phải cấp bách nỗ lực làm lợi mình lợi người,không thể chần chờ.

Ðólà ba trường hợp do biết "thế gian vô thường", chúng takhéo ứng dụng tu hành trong cuộc sống hiện tại của mình.Bao nhiêu sự lợi ích tốt đẹp sẽ theo đó mà tăng trưởng.Sự tu hành ấy, đi đôi với tâm trí tỉnh táo sáng suốt,nên gọi là "Tu tuệ".

Vídụ khác, chúng ta nhận rõ "muôn vật luân hồi", liền ứngdụng lý luân hồi vào cuộc sống của mình. Nếu phải luânhồi, chúng ta chọn cái luân hồi nào tốt đẹp an ổn hơn.Ví như, biết các loài thảo mộc từ hạt nẩy mầm, sanh trưởngthành cây, đơm hoa, kết quả; hạt lại nẩy mầm... Chúngta nên chọn lựa hạt tốt giống ngon đem ương, để sau nàykết quả ngon, cho ta và mọi người được thưởng thức vịngon. Cũng thế, trong vòng luân hồi bản thân ta cũng khôngthoát khỏi, ta cần tạo những nhân tốt, nhân an vui, đểmai kia có lăn lộn cũng lăn lộn trong chỗ tốt, chỗ an vui.

Ðãbiết muôn vật luân hồi, chúng ta phải tìm xem nguyên nhânnào lôi cuốn vào trong ấy. Biết rõ nguyên nhân rồi, phảitìm cách thoát ra ngoài vòng luân hồi. Không đầu hàng khuấtphục, để chịu lăn mãi trong luân hồi. Như các nhà khoa họcnghiên cứu biết sức hút của quả đất, sau đó tìm cáchchế phi thuyền đủ sức mạnh vượt ra ngoài vòng hút củaquả đất, đi thẳng vào quĩ đạo v.v... Biết luân hồi đểtìm cách thoát ra, chính là tinh thần "Tu tuệ".

Văntuệ, Tư tuệ rất cần thiết, song Tu tuệ lại càng quan trọnghơn. Nếu có văn tuệ, tư tuệ mà thiếu tu tuệ thì chỉ làtuệ rỗng, không lợi ích thiết thực cho đời sống con người.Nhờ tu tuệ mới thẩm định được giá trị văn, tư ở trênvà giúp cho văn, tư được kết quả viên mãn.

Vìthế, đức Phật dạy hàng Phật tử đi chùa là cốt gặpSư tăng, Sư ni, gặp Tăng ni rồi cần phải thưa hỏi Phậtpháp, thưa hỏi xong phải ghi nhớ, ghi nhớ rồi cần phán xét,phán xét rồi phải tiến tu. Ðược vậy mới đúng tinh thầnPhật tử (Phỏng theo bài kinh Ma-ha-nam trong Tạp A-hàm). Bồ-tátQuán Thế Âm cũng trình với Phật, thuở quá khứ lâu xa Ngàigặp Phật dạy tu phương pháp văn, tư, tu được vào chánhđịnh và cho hiệu là Quán Thế Âm (Kinh Lăng Nghiêm). Chínhtrong giới Bồ-tát, Phật cũng dạy "dù ở xa trăm ngàn dặm,nghe có người nói kinh luật, người mới thọ giới Bồ-tátcũng phải mang kinh luật đến đó học (Kinh Phạm Võng). Quảnhiên đức Phật không chấp nhận đệ tử tu hành tối dốt,phải đầy đủ ba môn Tuệ học, mới xứng là đệ tử củaNgài.

Bamôn Tuệ học này hoàn toàn thích hợp với tinh thần khoa họchiện nay. Bất luận môn học nào, trước tiên học lý thuyết,kế phê bình lý thuyết, sau thí nghiệm hay thực hành lý thuyết.Lý thuyết tức là văn tuệ, phê bình tức là tư tuệ, thínghiệm tức là tu tuệ. Có như vậy môn học mới tiến bộvà phát minh những điều mới lạ.

Tuynhiên, về mục tiêu chánh yếu Phật học vẫn khác khoa học.Khoa học cốt phát minh mọi sự thật của ngoại giới, chinhphục giành quyền làm chủ thiên nhiên, bắt thiên nhiên làmtheo ý muốn con người, để tạo vật chất dồi dào sung túccho nhân loại. Phật học xoay lại ngự trị bản thân mình,gạn lọc đào thải những tâm thức nhơ xấu, kiến tạo mộttâm hồn trong sáng an vui tự tại. Bởi khoa học gây tạo điềukiện vật chất dồi dào, nên con người dễ tranh đua giànhgiật kình chống lẫn nhau, Phật học cốt xây dựng tâm hồntrong sáng, nên người biết tu theo, lòng sẽ mở rộng thươngyêu bảo bọc lẫn nhau.Vì thế, ba môn tuệ học đều đặtcăn cứ trên nguyên tắc "xem lại chính mình". Nắmvững nguyên tắc này, đọc kinh sách Phật, chúng ta nhận địnhphán xét không bị sai lẫn.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/11/2021(Xem: 12312)
Kinh Vô Lượng Nghĩa nói “vô lượng pháp từ một pháp mà sinh ra”. Ma Ha Chỉ Quán của Thiên Thai Trí Giả (538-597), quyển 5, nói: “Phật bảo các Tỳ-kheo, một pháp thâu nhiếp tất cả pháp, chính là Tâm”. Phổ môn là vô lượng giáo pháp. Vô lượng giáo pháp này cũng từ một giáo pháp mà sinh ra. Một giáo pháp phổ cập tất cả gọi là phổ môn. Chư Phật thuyết giáo thuận theo Tâm của chúng sinh. Giáo là những ngôn từ được thuyết ra cho những chúng sinh chưa thấu suốt. Pháp là những phương thức với nhiều tướng trạng giống nhau hoặc khác nhau. Tâm ý chúng sinh có bao nhiêu ngõ ngách thì giáo pháp có chừng ấy quanh co. Chư Phật dùng muôn vàn phương tiện khế cơ mang lại lợi ích cho chúng sinh. Ngài Xá Lợi Phất từng nói: “Phật dùng nhiều thứ nhân duyên và thí dụ, phương tiện ngôn thuyết như biển rộng khiến tâm người trong pháp hội được yên ổn, con nghe pháp ấy khiến lưới nghi dứt” là nghĩa trên vậy.
05/09/2021(Xem: 15187)
Bắt đầu gặp nhau trong nhà Đạo, người quy-y và người hướng-dẫn biết hỏi và biết tặng món quà pháp-vị gì cho hợp? Thực vậy, kinh sách man-mác, giáo-lý cao-siêu, danh-từ khúc-mắc, nghi-thức tụng-niệm quá nhiều – nghiêng nặng về cầu-siêu, cầu-an – không biết xem gì, tụng gì và nhất là nhiều người không có hoàn-cảnh, thỉnh đủ. Giải-đáp thực-trạng phân-vân trên, giúp người Phật-tử hiểu qua những điểm chính trong giáo-lý, biết qua sự nghiệp người xưa, công việc hiện nay và biết đặt mình vào sự rèn-luyện thân-tâm trong khuôn-khổ giác-ngộ và xử-thế, tôi biên-soạn cuốn sách nhỏ này. Cuốn sách nhỏ này không có kỳ-vọng cao xa, nó chỉ ứng theo nhu-cầu cần-thiết, mong giúp một số vốn tối-thiểu cho người mới vào Đạo muốn tiến trên đường tu-học thực-sự. Viết tại Sài-thành mùa Đông năm Mậu-tuất (1958) Thích-Tâm-Châu
23/07/2021(Xem: 12017)
Giữa tương quan sinh diệt và biển đổi của muôn trùng đối lưu sự sống, những giá trị tinh anh của chân lý bất diệt từ sự tỉnh thức tuyệt đối vẫn cứ thế, trơ gan cùng tuế nguyệt và vững chãi trước bao nổi trôi của thế sự. Bản thể tồn tại của chân lý tuyệt đối vẫn thế, sừng sững bất động dẫu cho người đời có tiếp nhận một cách nồng nhiệt, trung thành hay bị rũ bỏ, vùi dập một cách ngu muội và thô thiển bởi các luận điểm sai lệch chối bỏ sự tồn tại của tâm thức con người. Sự vĩnh cửu ấy phát xuất từ trí tuệ vô lậu và tồn tại chính bởi mục đích tối hậu là mang lại hạnh phúc chân thật cho nhân loại, giúp con người vượt thoát xiềng xích trói buộc của khổ đau. Tuỳ từng giai đoạn của nhân loại, có những giai đoạn, những tinh hoa ấy được tiếp cận một cách mộc mạc, dung dị và thuần khiết nhất; có thời kỳ những nét đẹp ấy được nâng lên ở những khía cạnh khác nhau; nhưng tựu trung cũng chỉ nhằm giải quyết những khó khăn hiện hữu trong đời sống con người và xã hội.
07/05/2021(Xem: 16922)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
29/11/2020(Xem: 12700)
“Ma” tiếng Phạn gọi là Mara, Tàu dịch là “Sát,” bởi nó hay cướp của công đức, giết hại mạng sống trí huệ của người tu. “Ma” cũng chỉ cho những duyên phá hoại làm hành giả thối thất đạo tâm, cuồng loạn mất chánh niệm, hoặc sanh tà kiến làm điều ác, rồi kết cuộc bị sa đọa. Những việc phát sanh công đức trí huệ, đưa loài hữu tình đến Niết-bàn, gọi là Phật sự. Các điều phá hoại căn lành, khiến cho chúng sanh chịu khổ đọa trong luân hồi sanh tử, gọi là Ma sự. Người tu càng lâu, đạo càng cao, mới thấy rõ việc ma càng hung hiểm cường thạnh. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong "Niệm Phật Thập Yếu", Ma tuy nhiều, nhưng cốt yếu chỉ có ba loại: Phiền não ma, Ngoại ma và Thiên ma
04/11/2020(Xem: 7913)
Những chúng sanh thuộc hàng Thanh Văn: Các chúng sanh thuộc hàng Thanh Văn được chứng ngộ khi nghe được những học thuyết về các Uẩn, Giới, Xứ, nhưng lại không đặc biệt lưu tâm đến lý nhân quả. Họ giải thoát được sự trói buộc của các phiền não nhưng vẫn chưa đoạn diệt được tập khí của mình. Họ đạt được sự thể chứng Niết-Bàn, và an trú trong trạng thái ấy, họ tuyên bố rằng họ đã chấm dứt sự hiện hữu, đạt được đời sống Phạm hạnh, tất cả những gì cần phải làm đã được làm, họ sẽ không còn tái sinh nữa. Những vị nầy đã đạt được Tuệ kiến về sự Phi hiện hữu của “Ngã thể” trong một con người, nhưng vẫn chưa thấy được sự Phi hiện hữu trong các sự vật. Những nhà lãnh đạo triết học nào tin vào một "Đấng Sáng Tạo" hay tin vào “Linh hồn” cũng có thể được xếp vào đẳng cấp nầy.
03/10/2020(Xem: 20345)
Đây là một bài nghị luận về Lý Duyên Khởi được Ajahn Brahm viết lần đầu tiên hơn hai thập niên trước. Vào lúc đó, ngài quan tâm nhiều hơn đến những chi tiết phức tạp trong việc giảng dạy kinh điển. Vì lý do đó bài nghị luận này có tính cách hoàn toàn chuyên môn, so với những gì ngài giảng dạy hiện nay. Một trong những học giả Phật học nổi tiếng nhất hiện nay về kinh điển Phật giáo đương đại là Ngài Bhikkhu Bodhi, đã nói với tôi rằng “Đây là bài tham luận hay nhất mà tôi được đọc về đề tài này”.
05/04/2020(Xem: 11778)
Luận Đại Thừa Trăm Pháp do Bồ tát Thế Thân (TK IV TL) tạo nêu rõ tám thức tâm vương hàm Tâm Ý Thức thuộc ngành tâm lý – Duy Thức Học và là một tông phái: Duy Thức Tông - thuộc Đại Thừa Phật Giáo. Tâm Ý Thức như trở thành một đề tài lớn, quan trọng, bàn cải bất tận lâu nay trong giới Phật học thuộc tâm lý học. Bồ Tát Thế Thântạo luận, lập Du Già Hành Tông ở Ấn Độ, và sau 3 thế kỷ pháp sư Huyền Trang du học sang Ấn Độ học tông này với Ngài Giới Hiền tại đại học Na Lan Đà (Ấn Độ) năm 626 Tây Lịch. Sau khi trở về nước (TH) Huyền Trang lập Duy Thức Tông và truyền thừa cho Khuy Cơ (632-682) xiển dương giáo nghĩa lưu truyền hậu thế.
30/03/2020(Xem: 9217)
Những người Cơ đốc giáo thường đặt vấn đề: Thượng đế có phải là một con người hay không? Nếu Thượng đế không phải là một con người thì làm sao chúng ta có thể cầu nguyện? Đây là một vấn đề rất lớn trong Cơ đốc giáo. (God is a person or is not a person?)
23/03/2020(Xem: 10452)
Có một con sư tử mẹ đang đi kiếm ăn. Nó sắp làm mẹ. Buổi sáng đó nó chạy đuổi theo một chú nai. Chú nai con chạy thật nhanh dù sức yếu. Sư tử mẹ dầu mạnh, nhưng đang mang thai, nên khá chậm chạp. Sư tử mẹ chạy sau chú nai con rất lâu, khoảng 15 phút, mà vẫn chưa bắt kịp. Sau đó chúng tới một rãnh sâu. Chú nai lẹ làng nhảy qua rãnh, sang bờ bên kia. Sư tử mẹ rất bực tức vì không bắt kịp con mồi, và vì nó đang cần thức ăn cho cả nó và đứa con trong bụng. Vì thế, nó cố hết sức để nhảy qua cái rãnh sâu. Nhưng tai họa đã xảy ra, sư tử mẹ đã sẩy đứa con khi cố nhảy qua rãnh. Dầu qua được bờ bên kia, nhưng sư tử mẹ biết rằng mình đã đánh mất đứa con mà nó đã chờ đợi từ bao lâu, đã yêu thương hết lòng, chỉ vì một phút vô tâm của mình. Nó đã quên rằng nó đang mang một bào thai trong bụng, và nó cần phải hết sức cẩn trọng. Chỉ một phút lơ đễnh, nó đã không giữ được đứa con của mình.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567