Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

07-Phật giáo độ sanh

28/01/201109:41(Xem: 7403)
07-Phật giáo độ sanh

BƯỚCÐẦU HỌC PHẬT
HòathượngThích Thanh Từ
PhậtLịch 2541-1998

Phậtgiáo độ sanh

I.MỞ ÐỀ

Tấtcảviệc làm của Phật giáo đều tập chú vào lợi ích chochúng sanh. Chúng sanh là đối tượng duy nhất của Phật giáo.Thế nên sự truyền bá của Phật giáo vì lợi ích chúng sanh.Nếu không vì lợi ích chúng sanh, sự truyền bá ấy là vônghĩa lý. Chúng sanh ở đây là những người hiện có mặt,nghe hiểu được những lời giáo hoá. Chúng ta đừng hiểuchúng sanh là những âm hồn, những kẻ chết. Nếu Phật giáosống với kẻ chết, thực chất Phật giáo đã chết mấtrồi. Thế mà gần đây có một số Tăng, Ni đưa Phật giáođi vào cõi chết. Tăng, Ni xuất hiện đông đủ chỉ ở nhữngđám ma chay. Phật sự quan trọng của Tăng, Ni là đưa ma cúngđám. Ðó là nét bi thảm đang xuất hiện trên hình ảnh Phậtgiáo Việt Nam. Cần nói một câu chính xác hơn: "Phậtgiáo độ sanh, không phải độ tử." Nếu ai cố tìnhđem Phật giáo vào cõi tử, chính là kẻ làm hoại diệt Phậtgiáo.

II.GIẢNG DẠY

Vìtính cách độ sanh nên những người truyền giáo có bổn phậnhằng giảng dạy cho tín đồ thông hiểu Phật giáo. Mỗi ngôichùa là một nơi giảng dạy kinh điển, mỗi buổi lễ làmỗi lần giảng dạy giáo lý. Có thế, người Phật tử mớibiết rõ đường lối tu hành, mới thâm nhập được giáolý cao siêu. Phật giáo đã tự hào có một kho tàng kinh điểndồi dào, mà người Phật tử kể cả Tăng, Ni, đa số dốtnát về giáo lý. Lỗi ấy tại ai? Bởi sự truyền bá cònsơ sót yếu kém, chính Tăng, Ni phải chịu trách nhiệm. Sởdĩ có sơ sót này, vì Tăng, Ni bận quá nhiều thì giờ lo chongười chết. Một người chết, Tăng, Ni mất mấy ngày đêmcó mặt tại tang gia, sau khi chôn cất xong, phải mất bao nhiêungày trong những lễ trai tuần. Nếu chùa có đôi ba ngàn Phậttử, thử hỏi Tăng, Ni còn thì giờ đâu lo tu học và truyềnbá chánh pháp. Quả là chúng ta làm lệch lạc trọng tráchcủa mình. Việc đáng làm chúng ta lại không làm, việc khôngđáng làm chúng ta lại dồn hết thì giờ vào đó. Ví nhưngười chết đã nằm cứng đờ trong quan tài, mà ba bốn vịTăng, Ni có khi nhiều hơn, thường trực tụng kinh cho họ nghe,thử hỏi đã nghe được những gì? Ðúng theo tinh thần Phậtgiáo, người chết sau khi tắt thở tùy nghiệp thiện ác theođó đi thọ sanh, có ai còn lẩn quẩn bên quan tài để chúngta tụng kinh cho họ nghe. Việc làm này quả thật không đáng,mà chúng ta tốn nhiều thì giờ. Vì thế, việc tối quan trọnglà giảng kinh dạy đạo, chúng ta phải bê tha đi. Nếu thậtngười chân chánh xuất gia, chúng ta phải điều chỉnh lại,đừng để đi mãi trên con đường sai lầm như thế. Chúngta hằng nhớ trọng trách của mình là phổ biến chánh pháplợi ích quần sanh, không phải vì tụng cúng để được lòngPhật tử.

III.-DỊCH KINH VIẾT SÁCH

Kinhđiển Phật giáo hiện giờ chưa được phiên dịch hết rachữ Việt. Thế là trọng trách Tăng, Ni còn nặng nề biếtmấy. Những bản kinh chữ Phạn, sang Trung Quốc người ta đãphiên dịch thành chữ Hán. Tạng kinh chữ Hán có mặt ở ViệtNam khá lâu rồi, Tăng, Ni Việt Nam chưa phiên dịch đượcmột phần mười (1/10). Cho đến những nghi lễ tụng niệmhằng ngày cũng vẫn đọc theo phiên âm chữ Hán, quả là mộtthiếu sót to tát của Phật giáo Việt Nam. Tại sao Tăng, Nikhông dồn hết thì giờ của mình trong việc học tập đểphiên dịch kinh điển? Bởi vì Phật tử đòi hỏi việc đưama cúng đám, Tăng, Ni mới thiếu thì giờ học tập. Tăng,Ni là người hướng dẫn Phật tử, tại sao chúng ta mãi đểnhững đòi hỏi không đáng, làm mất thì giờ vàng ngọc củangười tu? Chính tại Tăng, Ni không gan chẳng dám nói thẳng,sợ mất cảm tình, khiến tệ đoan càng ngày càng thêm. Ðâunhững thế, có một thiểu số Tăng, Ni lại bày biện đủcách rối ren, khiến đã mất thì giờ lại thêm mất thì giờ.Những kẻ này bề ngoài xem dường như thương Phật pháp,kỳ thật họ lợi dụng Phật pháp làm kế sanh nhai. NgườiPhật tử dốt nát không biết, thấy bày biện chừng nào lạicàng thích chừng ấy, quả thật kẻ mù dắt đám mù. Kinhđiển là những phương thuốc độ đời, Tăng, Ni là ngườichịu trách nhiệm truyền bá, mà không dồn hết thì giờ họctập phiên dịch, thật là trái với bổn phận biết bao. Tổtiên chúng ta khi xưa học chữ Hán, nên Tạng kinh chữ Hánvốn không có gì khó khăn. Hiện nay chúng ta học chữ Việt,Tạng kinh chữ Hán là một cổ ngữ không làm sao đọc được.Tăng, Ni hiện nay không cố gắng dịch ra chữ Việt, vô tìnhchúng ta để giáo lý chết khô và chôn sâu trong các tủ kinhnhà chùa.

IV.THỌ CÚNG DƯỜNG

Khixưa Phật còn tại thế, nếu Phật tử muốn thỉnh Phật vàTăng chúng cúng dường, Phật đều thọ nhận. Ðúng giờ thọtrai, Phật và chúng Tăng mới đến, nghỉ ngơi giây lát rồithọ trai. Thọ trai xong, trong gia quyến tụ họp ngồi chungquanh đức Phật, Ngài vì gia quyến thuyết pháp, thuyết phápxong, Phật vì gia quyến chúc lành, đứng dậy ra về. Thếthì người cúng dường vì Phật và Tăng chúng mà cúng, ngườithọ cúng dường cũng vì gia chủ hiện tại mà thọ. Phậtthuyết pháp chúc lành cũng vì người sống hiện có mặt,đúng là ý nghĩa độ sanh. Ngày nay chúng ta lại khác, gặpngày tuần, ngày giỗ của cha mẹ, Phật tử thỉnh Tăng, Nicúng dường. Tăng, Ni thọ trai xong, vì người chết tụng mộtbiến kinh cầu nguyện, cầu nguyện xong ra về. Như vậy, ngườicúng dường vì kẻ chết mà cúng, người thọ cúng dườngcũng vì kẻ chết mà cầu nguyện. Cả hai điều vì ngườichết , quả là Phật giáo độ tử, đâu còn là nghĩa độsanh. Tăng, Ni đến nhà không có lợi ích gì cho người hiệntại hết, chỉ cầu lợi ích cho kẻ quá cố, song người quácố chắc gì có mặt ở đây, nếu người quá cố đã thácsanh nơi nào rồi, việc làm này có phải viển vông không thiếtthực chăng? Tại sao chúng ta không giữ theo nếp xưa, thựchành đúng tinh thần cúng dường Phật và Tăng chúng thuởtrước, để ý nghĩa độ sanh được vẹn toàn, sự lợi íchcụ thể thiết thực tròn đủ trăm phần? Trước đã quáhay, tại sao nay chúng ta lại bỏ? Nay thật dở, tại sao chúngta lại theo? Ở đây, chúng ta cần chỉnh lại, đừng đểđưa Phật giáo vào cõi chết, gây thêm mê tín cho Phật tử,trái với đạo lý giác ngộ chân thật của đức Thích-ca.

Hơnnữa, khi xưa đức Phật thuyết pháp cho dân chúng nghe, nhânnghe pháp dân chúng liền cúng dường cơm, Phật không thọnhận. Phật cho nhận như thế là nhờ giảng dạy nên có cơmăn, không phải do lòng chân thành phát tâm cúng dường củaPhật tử. Ngày nay tại sao chúng ta đi tụng kinh cho Phật tửđể được cúng cơm cúng tiền, hoan hỉ thọ nhận? Làm thếcó phải đi tụng kinh thuê chăng? Có trái với tông chỉ củaPhật ngày xưa không? Ngày xưa, đức Phật cao cả thanh bạchđến thế, ngày nay chúng ta ti tiện thấp hèn lắm vậy. Ðâycũng là một điều chúng ta phải lưu tâm chỉnh đốn lại,đừng để những tệ tục cứ dắt mãi chúng ta trong đườngmê tối. Thậm chí hiện nay có một ít Tăng, Ni đến tậnnhà Phật tử dùng đủ lời lẽ để quyên tởi, thật đaulòng thay! Ðạo lý nào dạy những điều ấy?

V.DĨ HUYỄN ÐỘ CHÂN

Hoặccó người nói những việc cúng đám ma chay cho các Phật tửchẳng qua "dĩ huyễn độ chân", nhân cơ hội tang gia bối rối,chúng ta đến với họ để có cảm tình dẫn dắt họ vàođạo. Nhưng xin đặt câu hỏi, nếu vì cảm tình đến vớiđạo, mai mốt mất cảm tình thì sao? Chủ trương đạo Phậtlà tự giác tự nguyện, nếu không vì lẽ tỉnh giác đếnvới đạo, người ấy vẫn chưa xứng đáng là Phật tử.Huống chi, vì chiều theo cảm tình của họ, Tăng, Ni mất hếtgiá trị cao thượng, thanh nhã của mình, được đôi ba ngườiPhật tử, mà người truyền giáo mất hết giá trị, thửhỏi việc ấy có đáng làm không? Chúng tôi đồng ý, nếucần Tăng, Ni đến đám ma đám tuần tại nhà Phật tử, songvới điều kiện tang gia thân quyến tụ họp lại, để ngheTăng, Ni giảng một thời kinh, xong rồi hồi hướng công đứccho người chết, Tăng, Ni ra về. Như thế, khả dĩ nói "dĩhuyễn độ chân" được. Bởi vì nhân người chết, chúngta giáo hóa kẻ sống cho hiểu đạo lý. Ðám tuần, ngày kỵđều nên tổ chức như thế, việc làm này không trái vớichánh pháp.

Hoặccó người nói Phật giáo từ bi, khi giáo hoá kẻ dương lànghĩ đến người âm, muốn làm sao cho âm dương lưỡng lợi,mới đầy đủ lòng từ. Chúng tôi đồng ý lẽ này, nhưngtrong chùa trước khi thọ trai, Phật dạy Tăng, Ni phải cúngchim đại bàng, quỉ la-sát và các quỉ thần, không phải vìkẻ âm là gì? Mỗi chiều ở chùa hầu hết đều dùng nghiMông Sơn để cúng cô hồn, đâu không phải vì kẻ âm. Hằngđêm ở chùa hai thời công phu, Tịnh độ sau đó đều phụcnguyện "âm siêu dương thới", còn gì không đủ lòng từ bi.Nếu Phật tử có lòng hiếu thảo muốn cầu nguyện cho thânnhân, cứ đến chùa vào những thời công phu, Tịnh độ, Tăng,Ni sẽ vì thân nhân họ cầu nguyện cho. Có thế, không mấtthì giờ tu hành của Tăng, Ni, Phật tử cũng được mãn nguyện.Biết tôn trọng những bậc thầy hướng dẫn mình mới gọingười ấy biết đạo đức, vì việc riêng của mình, đểbậc thầy mình mất hết giá trị cao thượng, là đạo đứcchỗ nào? Sự hướng dẫn không khéo cả thầy lẫn trò làmviệc vô nghĩa, còn chuốc lấy sự đau khổ là khác. Khi Phậtcòn tại thế, chúng ta có nghe Ngài đi đưa đám lần nào đâu.Cho đến chư Tỳ-kheo môn đồ của Phật, cũng không nghe điđưa đám lần nào. Tại sao chúng ta hiện nay, cứ bận rộnđám ma đám tuần mãi. Thế là chúng ta đã đi đúng đườngPhật hay đã sai rồi, cần phải vận dụng công tâm xét lạiđiều này. Bởi Tăng, Ni xuất hiện trong xóm làng đều donhà có ma chay, nên bất thần Tăng, Ni đến nhà người nàohọ liền ghét sợ, coi như một điềm bất tường sắp đếncho gia đình họ. Thật là ngày xưa xem "một vị Tăng đếnlà một ông Phật lại", ngày nay thì ngược lại. Thử hỏicòn gì hổ thẹn cho bằng?

VI.KẾT LUẬN

Chủyếu Phật giáo độ sanh một cách thiết thực, người mônđồ Phật giáo phải thấy rõ điều này. Tất cả hành động,mọi cuộc tổ chức đều nhằm thẳng giáo hoá chúng sanh,bằng con đường từ bi giác ngộ. Ðem hạt giống từ bi giácngộ gieo rắc trong lòng mọi người là truyền bá đạo Phật.Ngược lại, đem tình cảm mê tín gieo rắc trong lòng tín đồ,thử hỏi đây là truyền đạo gì? Vì giải thoát cho mìnhcho chúng sanh, nên chúng ta đi tu, tại sao chúng ta trở thànhkẻ chiều chuộng phục vụ tín đồ để được cơm ăn áomặc? Quả là điều sai đạo lý không hợp với chánh pháp,chúng ta phải gan dạ đập tan những tập tục sai lầm ấy,đem lại con đường tu hành cao thượng thanh bai cho chính mìnhvà huynh đệ mai sau. Trọng trách của chúng ta không phải đóngkhung trong một nhóm bổn đạo, mà phải đem đạo giác ngộgiải thoát lại cho toàn thể chúng sanh. Làm được như vậymới đúng tinh thầnPhật giáo độ sanh.










Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/11/2021(Xem: 12310)
Kinh Vô Lượng Nghĩa nói “vô lượng pháp từ một pháp mà sinh ra”. Ma Ha Chỉ Quán của Thiên Thai Trí Giả (538-597), quyển 5, nói: “Phật bảo các Tỳ-kheo, một pháp thâu nhiếp tất cả pháp, chính là Tâm”. Phổ môn là vô lượng giáo pháp. Vô lượng giáo pháp này cũng từ một giáo pháp mà sinh ra. Một giáo pháp phổ cập tất cả gọi là phổ môn. Chư Phật thuyết giáo thuận theo Tâm của chúng sinh. Giáo là những ngôn từ được thuyết ra cho những chúng sinh chưa thấu suốt. Pháp là những phương thức với nhiều tướng trạng giống nhau hoặc khác nhau. Tâm ý chúng sinh có bao nhiêu ngõ ngách thì giáo pháp có chừng ấy quanh co. Chư Phật dùng muôn vàn phương tiện khế cơ mang lại lợi ích cho chúng sinh. Ngài Xá Lợi Phất từng nói: “Phật dùng nhiều thứ nhân duyên và thí dụ, phương tiện ngôn thuyết như biển rộng khiến tâm người trong pháp hội được yên ổn, con nghe pháp ấy khiến lưới nghi dứt” là nghĩa trên vậy.
05/09/2021(Xem: 15184)
Bắt đầu gặp nhau trong nhà Đạo, người quy-y và người hướng-dẫn biết hỏi và biết tặng món quà pháp-vị gì cho hợp? Thực vậy, kinh sách man-mác, giáo-lý cao-siêu, danh-từ khúc-mắc, nghi-thức tụng-niệm quá nhiều – nghiêng nặng về cầu-siêu, cầu-an – không biết xem gì, tụng gì và nhất là nhiều người không có hoàn-cảnh, thỉnh đủ. Giải-đáp thực-trạng phân-vân trên, giúp người Phật-tử hiểu qua những điểm chính trong giáo-lý, biết qua sự nghiệp người xưa, công việc hiện nay và biết đặt mình vào sự rèn-luyện thân-tâm trong khuôn-khổ giác-ngộ và xử-thế, tôi biên-soạn cuốn sách nhỏ này. Cuốn sách nhỏ này không có kỳ-vọng cao xa, nó chỉ ứng theo nhu-cầu cần-thiết, mong giúp một số vốn tối-thiểu cho người mới vào Đạo muốn tiến trên đường tu-học thực-sự. Viết tại Sài-thành mùa Đông năm Mậu-tuất (1958) Thích-Tâm-Châu
23/07/2021(Xem: 12013)
Giữa tương quan sinh diệt và biển đổi của muôn trùng đối lưu sự sống, những giá trị tinh anh của chân lý bất diệt từ sự tỉnh thức tuyệt đối vẫn cứ thế, trơ gan cùng tuế nguyệt và vững chãi trước bao nổi trôi của thế sự. Bản thể tồn tại của chân lý tuyệt đối vẫn thế, sừng sững bất động dẫu cho người đời có tiếp nhận một cách nồng nhiệt, trung thành hay bị rũ bỏ, vùi dập một cách ngu muội và thô thiển bởi các luận điểm sai lệch chối bỏ sự tồn tại của tâm thức con người. Sự vĩnh cửu ấy phát xuất từ trí tuệ vô lậu và tồn tại chính bởi mục đích tối hậu là mang lại hạnh phúc chân thật cho nhân loại, giúp con người vượt thoát xiềng xích trói buộc của khổ đau. Tuỳ từng giai đoạn của nhân loại, có những giai đoạn, những tinh hoa ấy được tiếp cận một cách mộc mạc, dung dị và thuần khiết nhất; có thời kỳ những nét đẹp ấy được nâng lên ở những khía cạnh khác nhau; nhưng tựu trung cũng chỉ nhằm giải quyết những khó khăn hiện hữu trong đời sống con người và xã hội.
07/05/2021(Xem: 16920)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
29/11/2020(Xem: 12698)
“Ma” tiếng Phạn gọi là Mara, Tàu dịch là “Sát,” bởi nó hay cướp của công đức, giết hại mạng sống trí huệ của người tu. “Ma” cũng chỉ cho những duyên phá hoại làm hành giả thối thất đạo tâm, cuồng loạn mất chánh niệm, hoặc sanh tà kiến làm điều ác, rồi kết cuộc bị sa đọa. Những việc phát sanh công đức trí huệ, đưa loài hữu tình đến Niết-bàn, gọi là Phật sự. Các điều phá hoại căn lành, khiến cho chúng sanh chịu khổ đọa trong luân hồi sanh tử, gọi là Ma sự. Người tu càng lâu, đạo càng cao, mới thấy rõ việc ma càng hung hiểm cường thạnh. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong "Niệm Phật Thập Yếu", Ma tuy nhiều, nhưng cốt yếu chỉ có ba loại: Phiền não ma, Ngoại ma và Thiên ma
04/11/2020(Xem: 7911)
Những chúng sanh thuộc hàng Thanh Văn: Các chúng sanh thuộc hàng Thanh Văn được chứng ngộ khi nghe được những học thuyết về các Uẩn, Giới, Xứ, nhưng lại không đặc biệt lưu tâm đến lý nhân quả. Họ giải thoát được sự trói buộc của các phiền não nhưng vẫn chưa đoạn diệt được tập khí của mình. Họ đạt được sự thể chứng Niết-Bàn, và an trú trong trạng thái ấy, họ tuyên bố rằng họ đã chấm dứt sự hiện hữu, đạt được đời sống Phạm hạnh, tất cả những gì cần phải làm đã được làm, họ sẽ không còn tái sinh nữa. Những vị nầy đã đạt được Tuệ kiến về sự Phi hiện hữu của “Ngã thể” trong một con người, nhưng vẫn chưa thấy được sự Phi hiện hữu trong các sự vật. Những nhà lãnh đạo triết học nào tin vào một "Đấng Sáng Tạo" hay tin vào “Linh hồn” cũng có thể được xếp vào đẳng cấp nầy.
03/10/2020(Xem: 20340)
Đây là một bài nghị luận về Lý Duyên Khởi được Ajahn Brahm viết lần đầu tiên hơn hai thập niên trước. Vào lúc đó, ngài quan tâm nhiều hơn đến những chi tiết phức tạp trong việc giảng dạy kinh điển. Vì lý do đó bài nghị luận này có tính cách hoàn toàn chuyên môn, so với những gì ngài giảng dạy hiện nay. Một trong những học giả Phật học nổi tiếng nhất hiện nay về kinh điển Phật giáo đương đại là Ngài Bhikkhu Bodhi, đã nói với tôi rằng “Đây là bài tham luận hay nhất mà tôi được đọc về đề tài này”.
05/04/2020(Xem: 11777)
Luận Đại Thừa Trăm Pháp do Bồ tát Thế Thân (TK IV TL) tạo nêu rõ tám thức tâm vương hàm Tâm Ý Thức thuộc ngành tâm lý – Duy Thức Học và là một tông phái: Duy Thức Tông - thuộc Đại Thừa Phật Giáo. Tâm Ý Thức như trở thành một đề tài lớn, quan trọng, bàn cải bất tận lâu nay trong giới Phật học thuộc tâm lý học. Bồ Tát Thế Thântạo luận, lập Du Già Hành Tông ở Ấn Độ, và sau 3 thế kỷ pháp sư Huyền Trang du học sang Ấn Độ học tông này với Ngài Giới Hiền tại đại học Na Lan Đà (Ấn Độ) năm 626 Tây Lịch. Sau khi trở về nước (TH) Huyền Trang lập Duy Thức Tông và truyền thừa cho Khuy Cơ (632-682) xiển dương giáo nghĩa lưu truyền hậu thế.
30/03/2020(Xem: 9217)
Những người Cơ đốc giáo thường đặt vấn đề: Thượng đế có phải là một con người hay không? Nếu Thượng đế không phải là một con người thì làm sao chúng ta có thể cầu nguyện? Đây là một vấn đề rất lớn trong Cơ đốc giáo. (God is a person or is not a person?)
23/03/2020(Xem: 10452)
Có một con sư tử mẹ đang đi kiếm ăn. Nó sắp làm mẹ. Buổi sáng đó nó chạy đuổi theo một chú nai. Chú nai con chạy thật nhanh dù sức yếu. Sư tử mẹ dầu mạnh, nhưng đang mang thai, nên khá chậm chạp. Sư tử mẹ chạy sau chú nai con rất lâu, khoảng 15 phút, mà vẫn chưa bắt kịp. Sau đó chúng tới một rãnh sâu. Chú nai lẹ làng nhảy qua rãnh, sang bờ bên kia. Sư tử mẹ rất bực tức vì không bắt kịp con mồi, và vì nó đang cần thức ăn cho cả nó và đứa con trong bụng. Vì thế, nó cố hết sức để nhảy qua cái rãnh sâu. Nhưng tai họa đã xảy ra, sư tử mẹ đã sẩy đứa con khi cố nhảy qua rãnh. Dầu qua được bờ bên kia, nhưng sư tử mẹ biết rằng mình đã đánh mất đứa con mà nó đã chờ đợi từ bao lâu, đã yêu thương hết lòng, chỉ vì một phút vô tâm của mình. Nó đã quên rằng nó đang mang một bào thai trong bụng, và nó cần phải hết sức cẩn trọng. Chỉ một phút lơ đễnh, nó đã không giữ được đứa con của mình.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567