Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

17-Tu trong mọi hoàn cảnh

28/01/201109:41(Xem: 8571)
17-Tu trong mọi hoàn cảnh

BƯỚCÐẦU HỌC PHẬT

HòathượngThích Thanh Từ
PhậtLịch 2541-1998

Tu trongmọi hoàn cảnh

Có nhiềungười nghĩ rằng, tu là phần riêng của những kẻ rảnh rangnhàn hạ, những người thừa của thừa tiền, còn mình làmđầu tắt mặt tối, cơm không đủ no áo không đủ ấm, cóthì giờ đâu mà nói chuyện tu. Hoặc có những người nghĩ,tu là việc của những kẻ thiếu phước bần hàn, cô quả,tật nguyền, nhờ tu họ được an ủi bớt khổ, còn ta phướcnhiều của lắm, thân quyến đầy đàn, đẹp đẽ sang trọngmà tu làm gì. Lại có người nghĩ, tu là việc của nhữngkẻ tội lỗi ác độc, bởi họ tạo nhiều tội lỗi nênphải tu để chuộc tội, còn tôi hiền lành có làm gì hạiai đâu mà tu. Bởi có những quan niệm này, nên người ta khôngmàng không nghĩ đến tu. Họ đâu biết rằng, mọi chúng tatrong tâm niệm có cả xấu lẫn tốt, nếu thả nổi mặc tìnhniệm xấu hoành hành, là sống theo bản năng, mất hết tưcách của con người và sẽ gây tội lỗi ngập trời. Ðểhạn chế tâm niệm xấu, khiến nó tiêu mòn, khởi dậy tâmniệm tốt, khiến nó tăng trưởng, đây là việc làm củangười tu. Có giảm tâm niệm xấu, tăng tâm niệm tốt, ngườinày mới đủ tư cách con người và làm nhiều việc tốt đẹpvới mọi người chung quanh. Thế là, có hoàn cảnh nào màchẳng nên tu?

Cónhững người bận lo sinh kế gia đình, tửng bưng sáng đãcó mặt ở chợ, đến sẩm tối mới về tới nhà, rồi loăn uống giặt giũ cho con cái là tối mò, có rảnh lúc nàođâu mà tu? Nếu bảo những người này phải tụng kinh, phảilần chuỗi niệm Phật, chắc hẳn không thế nào làm được.Nhưng tu ở đây là, bỏ ý nghĩ xấu, nuôi dưỡng ý nghĩ tốt,bỏ lời nói dữ, nói lời nói lành, dừng những hành độngác, tạo những hành động thiện, có mất thì giờ chút nàomà tu không được. Trái lại, chính khi buôn bán làm ăn ấy,chúng ta có ý nghĩ tốt, thốt lời nói lành, có hành độngthiện, người khách hàng mến thương, khiến khách mua hàngcàng lúc càng đông, việc làm ăn dễ phát đạt. Ví như côbán hàng có khách đến mua, giá món hàng một ngàn đồng,cô nói một ngàn hai, chờ khách trả một ngàn là cô bán.Song trớ trêu, người khách không trả một ngàn, mà trả batrăm. Trường hợp này, nếu cô bán hàng không biết tu thìnổi giận quát tháo ầm ĩ, gây ra cuộc cãi vã ồn ào. Ngượclại, cô bán hàng biết tu, chỉ cần cười, nói nhẹ nhàng"trả chưa tới giá, bán không được". Mọi việc êm ái, khôngai thiệt thòi gì, mai kia người khách ấy còn có thể đếngian hàng này mua hàng. Trước những cảnh bất như ý, chúngta biết kềm hãm sự nóng giận, biết lựa lời ôn hòa đểđáp, biết giữ thái độ bình tĩnh, là khéo tu. Ở giữa chợ,mỗi ngày sự bất như ý diễn ra liên tục, nên tu hành làđiều tối cần cho người sống trong hoàn cảnh này. Vì thếngười xưa nói: "Nhất tu thị, nhị tu sơn."

Nếulà người nông phu làm nghề ruộng khi vác cuốc ra đồng,chúng ta nghĩ "cần mẫn làm cho lúa trúng, để có cơm cho giađình mình ăn, vơi ra giúp đồng bào mình cùng có cơm ăn".Quan niệm ấy là ý nghĩ lành, đó là tu. Thấy thửa ruộngbên cạnh tốt hơn ruộng mình, không có tâm đố kỵ, mà lòngmừng thầm bạn mình được lúa trúng, gia đình ấm no...,mình gắng học hỏi theo cách làm ăn ấy, đây là tâm niệmcủa người biết tu. Lại, khi làm việc đắp bờ cuốc ruộng,trong tâm vừa nảy ra niệm xấu, ta liền diệt trừ, trong tâmnảy ra niệm tốt, ta liền khơi dậy cho nó tăng trưởng, ấylà tu, một cuốc là một câu niệm Phật, hoặc một cuốctận kim cang địa ấy là tu.

Làhọc trò bận việc học hành, công phu tu không hề chướngngại. Khi cắp sách đi học, em nghĩ "ta cố gắng học cho giỏi,để mai kia giúp cha mẹ khi tuổi già, có tài để góp côngmình xây dựng quê hương tốt đẹp hơn", đó là em tu. Thầygiáo, cô giáo nhọc sức giảng dạy bài vở, em lắng nghe vàcố học thuộc, vì thương sợ thầy cô buồn, đấy là embiết tu. Bạn bè trong lớp có những trò học giỏi hơn em,em không ganh tỵ, trái lại còn kính phục để bắt chướctheo, ấy là tâm niệm người tu. Người tu là người biếtphục thiện, mỗi khi có lỗi lầm bị rầy, bị phạt, biếtlỗi sửa ngay, không oán hờn trách móc. Có những đứa họchành thua kém và thiếu phương tiện hơn em, em thương mếnhướng dẫn và giúp đỡ nó, là em khéo tu. Xã hội ngày maisáng sủa hơn, tốt đẹp hơn, chính nhờ những mầm non biếttu.

TUTRONG CẢNH NGHÈO KHÓ

Chúngta nghèo tiền nghèo của chớ đâu có nghèo ý nghĩ, lời nói,hành động. Chuyển hóa ý nghĩ xấu thành tốt, lời nói dữthành hiền, hành động ác thành thiện là tu. Việc này đâuđòi có tiền có của, nhàn rỗi mới làm được. Chính trongcuộc sống vất vả nghèo nàn của chúng ta cần thiết phảicó nó. Như có người nghèo khó vất vả mà lòng tốt, lờinói hiền hòa, hành động lương thiện, khiến mọi ngườithương mến giúp đỡ, nhờ đó mọi khó khăn giảm bớt đi.Ngược lại, nếu ở trong cảnh khó khăn mà ý ngang ngạnh,lời nói hung dữ, hành động bạo ngược, khiến ai nghe thấycũng ghét cũng lánh xa, nhờ điều gì họ cũng không giúp,thì khó khăn lại càng khó khăn hơn. Hơn nữa, tâm hồn trongsáng, lời nói hiền hòa, hành động thanh cao, dù chúng ta sốngtrong cảnh nghèo vẫn thấy êm đềm hạnh phúc. Chồng biếtnhường vợ, vợ biết kính chồng, con hiếu thuận cha mẹ,cha mẹ thương yêu con cái, gọi là cuộc sống hạt muối cắnhai, thật là lý tưởng biết bao.

TUTRONG CẢNH BỆNH HOẠN

Bìnhthường người ta cho khi bệnh hoạn là chướng ngại tu hành,đây cũng là quan niệm sai lầm về việc tu. Nếu thấy tụngkinh, tọa thiền mới là tu, khi bệnh hoạn tụng kinh khôngnổi, tọa thiền không được, đó là chướng ngại tu. Songtu cốt ngăn ngừa phiền não, chiến thắng vọng tưởng, dùcó tụng kinh tọa thiền, không tụng kinh tọa thiền đềutu được. Nếu có người bệnh nặng không đi đứng được,nằm một chỗ, khi ấy nằm nhiếp tâm niệm Phật, niệm chítử, chẳng buồn nghĩ đến ai, lo việc gì, chỉ một bề niệmPhật thôi. Ðây là tu đại tinh tấn theo pháp môn Tịnh độ,đâu có chướng ngại gì. Hoặc có người bệnh, không niệmPhật mà thích quán chiếu, liền quán thân này thấy nó làgốc khổ đau, là tướng vô thường, là hiện tượng nhớpnhúa, là không có chủ, nương thân bệnh quán chiếu tườngtận như vậy, thấy được tướng thật của thân, đây làpháp trí tuệ sẽ gần với Niết-bàn, là tu thiền. Khổ nỗi,người Phật tử bình thường tinh tấn tu hành, gặp lúc bệnhhoạn lại thối chuyển, sanh phiền não với con cháu, đâylà việc đáng tiếc. Khi mạnh chúng ta tu, để khi yếu bệnhcó đủ đạo lực tiếp tục, vì lúc này là lúc gần vớitử thần, là phút chiến đấu cuối cùng, nếu ngang đây màdừng, mà hướng đi chiều khác, thật là một việc hoài côngvô ích. Bởi vậy nên, Phật tử chúng ta phải thấy khi bệnhlà cơ hội tốt, dồn hết tâm lực vào sự tu, chuyên tâmkhông lơi niệm, được vậy là gần với Phật, gần Niết-bàn,mới mong thoát khỏi khổ luân hồi muôn kiếp.

TUTRONG CẢNH TẠI GIA

Cómột số Phật tử nghĩ rằng, ở tại gia phiền rộn khó tu,được xuất gia rảnh rang tu hành mới giải thoát. Quan niệmnày cũng không đúng. Nếu thấy tại gia là nhiều việc, vàochùa chắc gì ít việc? Người xưa nói: "Ca-sa vị trước hiềmđa sự, trước dĩ ca-sa sự cánh đa." (Ca-sa chưa mặc than nhiềuviệc, được mặc ca-sa việc lại nhiều.) Câu này thật làchua chát đối với người tu. Ðây quả là sợ ông táo gặpông lò, chạy ô mồ mắc ô mả. Chúng ta đâu không nghe quíthầy trụ trì thường than: "Trụ trì làm dâu trăm họ." Thếlà ít việc hay nhiều việc, phiền rộn hay rảnh rang. Yếuđiểm tu hành là hiểu đạo, vững lòng tin. Ðủ hai điểmnày, ở tại gia hay xuất gia đều tu được. Nếu không đủhai điểm này, dù ở chùa chưa chắc đã tu được. Chúng taphải khéo linh động trong mọi hoàn cảnh, đừng đòi hỏiphải cảnh thế ấy tu mới được. Sự đòi hỏi đó là cáicớ để chúng ta không tu. Vì có những người không thể tạođược hoàn cảnh như ý. Có những Phật tử nam cũng như nữ,con cái đầy đàn đầy đống mà cứ nằng nặc đòi xuấtgia, quăng đại cho người ở nhà làm sao thì làm. Nếu thỏamãn nguyện vọng, vào chùa một lúc, gặp khi gia đình thiếuthốn, con cái nheo nhóc, nóng lòng rồi gởi ca-sa cho chùa trởvề nhà. Ðây là việc làm nông nổi.

CHỨNGMINH MỌI HOÀN CẢNH ÐỀU TU ÐƯỢC

Ngàyxưa, đời Ðường ở Trung Hoa có gia đình ông Bàng Long Uẩn,vẫn làm cư sĩ tại gia, mà tu đến được chỗ sanh tử tựtại. Trong giới học Phật từ trước đến nay vẫn ngưỡngmộ công đức tu hành của gia đình ông. Như trong bài sámtu Tịnh độ đã đọc buổi tối, có câu "in như thiền địnhhọ Bàng thuở xưa..." Ông Bàng Long Uẩn trước theo Nho học,sau nghiên cứu Phật thấy thích thú, ông tìm đến tham vấncác thiền sư. Ban đầu, ông đến hỏi Thiền sư Hy Thiên (ThạchÐầu): "Người không cùng muôn pháp làm bạn là người gì?"Hy Thiên liền bụm miệng ông. Ngay đây ông được ngộ. Sauông đến tham vấn Mã Tổ (Ðạo Nhất), cũng đem câu ấy rahỏi. Mã Tổ bảo: "Ông hớp một ngụm cạn hết sông TâyGiang, ta sẽ vì ông nói." Ông càng tin sâu hơn.

Giađìng ông, hai ông bà và một con trai, một con gái. Ông cấtnhà gần chân núi, mỗi ngày chẻ tre đan sáo, cô con gái gánhra chợ bán. Sống đạm bạc qua ngày để tu hành. Một hôm,trong nhà cùng ngồi bàn việc đạo, ông nói: "Nan nan nan, thậptạ du ma thọ thượng thang." (Khó khó khó, mười tạ dầumè trên cây vuốt.) Bà đáp: "Dị dị dị, bách thảo thượngđầu Tổ sư ý." (Dễ dễ dễ, trên đầu trăm cỏ ý Tổ sư.)Cô con gái tên Linh Chiếu đáp: "Dã bất dị, dã bất nan, cơlai khiết phạn, khốn lai thùy." (Cũng chẳng dễ, cũng chẳngkhó, đói đến thì ăn mệt ngủ khò.) Với cái nhìn của ông,thấy sự tu hành thật khó khăn vô kể, giống như ngườitrèo lên cây cao mà bị thoa dầu, trèo lên tuột xuống, khôngcó chỗ để bám. Trái lại, bà thấy việc tu rất dễ, vìnhìn ở đâu cũng thấy ý Tổ sư tràn khắp. Cô Linh Chiếudung hòa, không nói khó, không nói dễ, khó dễ là hai bên,vượt qua hai bên (nhị kiến) tâm sẽ thanh tịnh thản nhiên,khi ấy chỉ đói đến thì ăn, mệt đến thì ngủ. Câu nóicủa cô Linh Chiếu dễ bị người sau hiểu lầm, người tanghĩ rằng tu thiền là đói ăn mệt ngủ, rồi sống theo bảnnăng, thật là tai họa, chủ yếu cô nói là, khi nào tâm takhông còn mắc kẹt hai bên, khó dễ, tốt xấu, hơn thua, haydở..., mới đến chỗ đói ăn mệt ngủ.

Lại,ông có làm bài kệ nói sự đoàn tụ của gia đình ông nhưsau:

Hữunam bất thú
Hữunữbất giá
Ðạigiađoàn biến đầu
Cộngthuyếtvô sanh thoại.
Dịch:
Cócon trai không cưới vợ
Cócongái không gả chồng
Cảnhàcùng sum họp
Ðồngbànlời vô sanh.
Về già,một hôm ông lên ngựa giữa ngồi chuẩn bị tịch, bảo LinhChiếu: "Con ra sân xem đúng ngọ vô cho cha hay." Cô Linh Chiếura xem trở vào thưa: "Gần đúng ngọ, mặt trời bị nguyệtthực, cha ra xem." Ông ra sân xem, trở vào, thấy Linh Chiếulên ngựa giữa ngồi kiết già tịch. Ông nói: "Con gái ta lanhlợi quá!" Lo mai táng Linh Chiếu xong, ông báo tin cho thân hữuhay sắp tịch. Hôm ấy bạn bè tụ hội, ông nằm gối đầutrên đầu gối Châu Mục Công, nhắm mắt thị tịch. Tin nàyđến bà Long Uẩn, bà ra đồng cho con trai hay, người con traiđang đánh trâu cày ruộng, bà bảo: "Con ơi! Ông già vô trivà con bé ngu si đã bỏ mình đi rồi." Người con trai thưa:"Vậy hở mẹ!" Liền đứng thẳng tịch. Bà nói: "Thằng ngusi này cũng đi nữa." Bà lo mai táng con trai xong, lên núi tịch.Ðây là hiện tượng sanh tử tự tại của gia đình ông BàngLong Uẩn. Ông Long Uẩn đan sáo, cô Linh Chiếu bán sáo ngoàichợ, con trai ông cuốc cày ngoài ruộng, bà Long Uẩn ở nhànấu cơm, đều tu hành đắc lực đến sanh tử tự tại. Tạisao chúng ta lại đổ tại hoàn cảnh này, hoàn cảnh nọ, tukhông được?

ÐếnđờiTrần ở Việt Nam, vua Trần Thánh Tông và Tuệ Trung Thượngsĩ, một ông vua, một ông quan vẫn tu hành đắc lực. Chúngta ôn lại câu chuyện sau đây. Nhân ngày làm tuần cho Hoàngthái hậu, vua Thánh Tông thỉnh các bậc tôn túc đến dựtrai, trong đó có Tuệ Trung Thượng sĩ. Nhà vua yêu cầu cácNgài trình bài kệ ngắn để thấy chỗ kiến giải của cácngài, qua nhiều bài kệ, nhà vua không hài lòng bèn trao giấybút cho Thượng sĩ. Thượng sĩ viết một mạch:

Kiếngiải trình kiến giải
Tợniếtmục tác quái
Niếtmụctác quái liễu
Minhminhthường tự tại.
Dịch:
Kiếngiải trình kiến giải
Nhưdụimắt thấy quái
Dụimắtthấy quái rồi
Rõràngthường tự tại.
Nhà vuađọc xong, liền phê tiếp ở sau:
Minhminh thường tự tại
Diệcniếtmục tác quái
Kiếnquáibất kiến quái
Kỳquáitất tự hoại.
Dịch:
Rõràng thường tự tại
Cũngdụimắt thấy quái
Thấyquáichẳng thấy quái
Quáiấyắt tự hoại.
Kiếngiải của chúng ta không thật, giống như dụi mắt trong hưkhông có những đốm hoa. Khi con mắt bình thường trở lạithì những đốm hoa không còn. Những đốm hoa mất đi, ấylà con mắt sáng. Tâm chúng ta bị kiến giải che mờ, mộtkhi kiến giải lặng mất, lúc ấy mới là tâm chân thật sángsuốt. Vua Thánh Tông và Thượng sĩ chỗ thấy như nhau, khácnhau chỉ đối ngược ý trước sau mà thôi. Thượng sĩ nóicon mắt dụi thấy hoa đốm, khi hết lòa con mắt trước đãsáng rỡ. Thánh Tông nói con mắt trước đã sáng rõ, do dụinên thấy hoa đốm, chính khi thấy hoa đốm, biết là khôngthật thì hoa đốm tự mất, trở lại con mắt sáng như trước.

VuaThánhTông đau nặng, Thượng sĩ biên thơ hỏi thăm. Vua trảlời bằng hai câu thơ:

Viêmviêm thử khí hạn thông thân
Vịtằnguyển ngã nương sanh khố.
Dịch:
Hừnghực hơi nóng toát mồ hôi
Chiếckhốmẹ sanh chưa từng ướt.
Thượngsĩbệnh sơ sài, Ngài kê một giường gỗ nằm tại DưỡngChân Trang. Ngài nằm nghiêng bên phải theo phép cát tường,mắt nhắm lại, người hầu và thê thiếp khóc rống lên.Ngài mở mắt ngồi dậy, sai lấy nước rửa tay súc miệng,liền quở nhẹ rằng:
"-Sốngchết là lẽ thường, buồn thảm luyến tiếc chi, làm nãochân tánh ta".
Nói xong,Ngài nằm xuống yên lặng mà tịch.

Mộtôngvua khi sắp chết, thấy thân tứ đại tan rã đau đớn,song còn một cái chưa bao giờ tan rã, đây là "chiếc khốmẹ sanh". Một ông quan sống trong cảnh thê thiếp tôi tớđầy nhà, mà vẫn nhẹ nhàng thanh thản ra đi, trước mọingười khóc than luyến tiếc. Nếu vì bận rộn khó tu, ai bậnrộn hơn một ông vua, nhất là ông vua vì dân vì nước trướccuộc xâm lăng của phương Bắc. Ai bị ràng buộc hơn mộtông quan, có đủ thê thiếp tôi tớ đầy nhà. Những vị nàytu được, chúng ta không còn lý do gì thối thác khó tu.

Tómlại, chúng ta là con người chưa có ai toàn hảo, cần phảibiết tu để chận đứng những điều xấu dở xuất pháttừ ba nghiệp của mình. Ðồng thời chúng ta khéo nuôi dưỡngnhững hành động tốt đẹp từ thân miệng ý phát ra. Dừngác nuôi thiện là điều không thể thiếu, nơi con người muốnvươn lên. Khước từ tu hành, là chúng ta khước từ sự tiếnbộ, là khước từ mọi đẹp đẽ cao quí, khước từ sựan vui hạnh phúc. Nếu ai quyết chí vươn lên, muốn sống cuộcđời an lạc, muốn gia đình hạnh phúc, muốn xứ sở huy hoàng,tu là chủ yếu thực hiện những điều mong muốn ấy.




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
30/04/2024(Xem: 576)
Những lời trích dẫn trên đây thật đanh thép và minh bạch, chữ vu khống trong câu trích dẫn trên đây trong bản gốc bằng tiếng Pali là chữ abbhācikkhanti (abhi + ā + cikkh + a), các tự điển tiếng Anh dịch chữ này là accusation, calumny, slander…, có nghĩa là kết án, phỉ báng, vu khống…. Thế nhưng trong khi viết lách hay thuyết giảng đôi khi chúng ta không nghĩ đến những lời cảnh giác trên đây của Đức Phật. Sau hơn hai mươi lăm thế kỷ quảng bá, xuyên qua nhiều vùng địa lý, hòa mình với nhiều nền văn minh và văn hóa khác nhau, nền Tư tưởng và Giáo huấn của Đức Phật đã phải trải qua nhiều thử thách, thích ứng với nhiều dân tộc, do đó thật khó tránh khỏi ít nhiều biến dạng và thêm thắt. Thế nhưng thực tế cho thấy trong suốt cuộc hành trình kỳ thú và vĩ đại đó – nếu có thể nói như vậy – nền Tư tưởng và Giáo huấn đó của Đức Phật vẫn đứng vững và đã góp phần không nhỏ trong công trình cải thiện xã hội, nâng cao trình độ văn hóa, tư tưởng và mang lại ít nhất là một chút gì đó lý tưởng hơn, cao đ
30/04/2024(Xem: 397)
Con người thường hay thắc mắc tại sao mình có mặt ở cõi giới Ta Bà này để chịu khổ triền miên. Câu trả lời thường được nghe là: Để trả nghiệp. Nhưng nghiệp là gì? Và làm sao để thoát khỏi? Then chốt cho câu trả lời được gói ghém trong 2 câu: “Ái bất trọng, bất sanh Ta Bà Niệm bất nhất, bất sanh Tịnh Độ” Có nghĩa là: “Nghiệp ái luyến không nặng, sẽ không tái sanh ở cõi Ta Bà Niệm Phật không nhất tâm, sẽ không vãng sanh về Tịnh Độ”
18/02/2024(Xem: 1449)
Bát Chánh Đạo là con đường thánh có tám chi nhánh: Chánh Tri Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm và Chánh Định. Đây là con đường trung đạo, là lộ trình kỳ diệu giúp cho bất kể ai hân hoan, tín thọ, pháp thọ trong việc ứng dụng, thời có thể chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an lạc, giải thoát, niết bàn. Bát Chánh Đạo là Chơn Pháp vi diệu, là con đường đưa đến khổ diệt, vượt thời gian, thiết thực trong hiện tại, được chư Phật quá khứ, Đức Phật hiện tại và chư Phật tương lai chứng ngộ, cung kính, tán thán và thuyết giảng cho bốn chúng đệ tử, cho loài người, loài trời để họ khai ngộ, đến để mà thấy, và tự mình giác hiểu.
07/02/2024(Xem: 2674)
Từ 1983 đến 1985 khi đang ở Singapore, bận bịu với chương trình nghiên cứu Phật giáo tại Viện Phát triển Giáo Trình, tôi được Tu viện Phật giáo Srilankaramaya và một số đạo hữu mời giảng bốn loạt bài pháp nói về một vài tông phái chính của Phật giáo. Các bài giảng được ưa thích, và nhờ các cố gắng của Ô. Yeo Eng Chen và một số bạn khác, chúng đã được ghi âm, chép tay và in ấn để phát miễn phí cho các học viên. Kể từ đó, các bài pháp khởi đi từ hình thức của các tập rời được ngưỡng mộ và cũng được tái bản. Sau đó, tôi nhận thấy có vẻ hay hơn nếu in ấn bốn phần ấy thành một quyển hợp nhất, và với vài lần nhuận sắc, xuất bản chúng để cho công chúng dùng chung.
20/01/2024(Xem: 1188)
Thông thường người ta vào học Phật ít nhiều cũng do có động lực gì thúc đẩy hoặc bởi thân quyến qua đời, hoặc làm ăn thất bại, hoặc hôn nhân dở dang v.v... nhưng cũng không ít người nhân nghe giảng pháp hay gặp một quyển sách khế hợp căn cơ liền phát tâm tu hành hay tìm hiểu học Phật pháp. Phần lớn đệ tử xuất gia hoặc tại gia của Hòa Thượng cũng vì cảm mộ pháp giải của Ngài mà quy y Phật. Quyển vấn đáp này góp nhặt từ những buổi giảng thuyết trong các chuyến hoằng pháp của Hòa Thượng, hy vọng cũng không ngoài mục đích trên, là dẫn dắt người có duyên vào đạo hầu tự sửa đổi lỗi lầm mà giảm trừ tội nghiệp.
20/01/2024(Xem: 1273)
Năm xưa khi Phật thuyết kinh, hoàn toàn dùng khẩu ngữ vì bấy giờ nhân loại chưa có chữ viết (xứ Ấn). Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử Phật mới kết tập laị những gì Phật dạy để lưu truyền cho đời sau. Đạo Phật dần dần truyền sang các xứ khác, truyền đến đâu thì kinh điển cũng được phiên dịch sang ngôn ngữ của xứ ấy. Lúc ban đầu kinh Phật được ghi chép bằng tiếng Phạn ( Sancrit, Pali ) sau đó thì dịch sang tiếng: Sinhale, Pakistan, Afghanistan, tiếng Tàu, Thái, Nhật, Hàn, Việt… và sau nữa là tiếng Pháp, Anh, Tây Ban Nha…
20/12/2023(Xem: 1804)
Tiến sĩ Bạch Xuân Phẻ (Bạch X. Khỏe) định cư ở Hoa Kỳ từ năm 1991, hiện đang giảng dạy Hóa học và Hóa học danh dự cho Trường trung học Mira Loma tại thủ phủ Sacramento, CA. Ông quy y với Thiền sư Trừng Quang Thích Nhất Hạnh, có Pháp danh là Tâm Thường Định. Ông đã và đang giảng dạy về Lãnh đạo chánh niệm và phương thức mang chánh niệm vào học đường ở bang California từ năm 2014. Tiến sỹ Bạch cũng giảng dạy cho chương trình huấn luyện giáo viên. Ngoài ra, ông còn tham gia nhiều công việc xã hội trong cộng đồng. Tháng Ba 2023, TS Bạch Xuân Phẻ được Hiệp hội Giáo viên California (California Teachers Association) vinh danh vì những đóng góp giáo dục thực hành chánh niệm của ông. TS Bạch Xuân Phẻ cũng được trao Giải thưởng Nhân quyền người Mỹ gốc Á Thái Bình Dương năm 2023 của bang California (Human Right Awards).
19/12/2023(Xem: 5092)
Cách đây chừng 30 năm, Tổ Đình Viên Giác tại Hannover Đức Quốc chúng tôi có nhận được bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daizokyou) bằng Hán Văn gồm 100 tập do cố Hòa Thượng Thích Tịnh Hạnh từ Đài Loan giới thiệu để được tặng. Bộ Đại Tạng Kinh giá trị này do Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội xuất bản và gửi tặng đến các nơi có duyên. Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội dưới sự chứng minh và lãnh đạo tinh thần của cố Hòa Thượng Thích Tịnh Không đã làm được không biết bao nhiêu công đức truyền tải giáo lý Phật Đà qua việc xuất bản kinh điển và sách vở về Phật Giáo, với hình thức ấn tống bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau như: Hoa Ngữ, Anh Ngữ, Pháp Ngữ, Đức Ngữ, Việt Ngữ. Nhờ đó tôi có cơ hội để tham cứu Kinh điển rất thuận tiện.
13/12/2023(Xem: 11208)
Hành Thiền, một nếp sống lành mạnh trong sáng, một phương pháp giáo dục hướng thượng (Sách pdf của HT Thích Minh Châu)
12/12/2023(Xem: 5590)
Chánh Pháp và Hạnh Phúc (Sách pdf của HT Thích Minh Châu)
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567