Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

22-Chữ TỨC trong đạo Phật

28/01/201109:41(Xem: 8640)
22-Chữ TỨC trong đạo Phật

BƯỚCÐẦU HỌC PHẬT

HòathượngThích Thanh Từ
PhậtLịch 2541-1998

ChữTỨC trong đạo Phật

Ngườiđời và những người mới học đạo đều nhìn sự vậtvới tính cách cố định. Nói ác hẳn là ác, nói thiện hẳnlà thiện, phải hẳn là phải, quấy hẳn là quấy, có hẳnlà có, không hẳn là không... họ không hiểu nổi lối nói"cái này tức là cái kia", trong kinh điển Ðạithừa. Họ cho lối nói này ỡm ờ mờ ám không chấp nhậnđược. Song với tinh thần Ðại thừa Phật giáo, nhìn sựvật thấy rõ không có bản chất cố định, không ngoài nhau.Vì thế, trong kinh nói "Sắc tức là Không, Không tức là Sắc",hay "Phiền não tức Bồ-đề", hoặc "Sanh tử tức Niết-bàn".Chỉ một chữ "Tức" làm sáng tỏ nghĩa không cố định, khôngngoài nhau của các Pháp.

SẮCTỨCLÀ KHÔNG, KHÔNG TỨC LÀ SẮC

Câunày xuất phát từ kinh Bát-nhã. Chữ Sắc ở đây là chỉcho Sắc uẩn. Dưới con mắt đức Phật, thân này do năm uẩnkết hợp thành. Sắc uẩn là phần vật chất; thọ uẩn, tưởnguẩn, hành uẩn, thức uẩn là phần tinh thần. Chẳng riênggì sắc uẩn tức là không, mà thọ, tưởng, hành, thức cũngnhư thế. Bởi vì bản chất mọi uẩn không tự có, do duyênhòa hợp thành. Ðã do nhân duyên hòa hợp thì làm sao cố địnhđược. Trước khi nhân duyên hòa hợp nó không có, sau khinhân duyên ly tán, nó cũng không, chính khi duyên đang hợp phântích ra cũng không có thực thể của nó. Ví như nắm tay, trướckhi co năm ngón lại, không có nắm tay, sau khi buông năm ngónra không có nắm tay, đang khi co năm ngón lại nếu phân tíchtừng ngón cũng không có nắm tay. Thế thì, nắm tay chỉ làcái tên tạm gọi khi co năm ngón lại, chớ không có thựcthể cố định của nắm tay. Sắc uẩn không cố định nênnói "sắc tức là không"; không, khi đủ duyên hợp thành sắcnên nói "không tức là sắc", sắc chẳng ngoài tính chất khôngcố định, không cố định chẳng ngoài sắc, nên nói "sắctức là không, không tức là sắc"! Thấu triệt lý các pháptùy duyên biến chuyển, không đứng yên, không tự thành, làthông suốt câu "sắc tức là không, không tức là sắc".

PHIỀNNÃO TỨC BỒ-ÐỀ

Câunày bàng bạc trong các kinh Ðại thừa. Phiền não là si mêbực bội đau khổ. Bồ-đề là giác ngộ yên tĩnh an vui. Haithứ bản chất trái ngược nhau, tại sao lại nói cái nàytức cái kia? Bởi phiền não bản chất không cố định, khibiết chuyển hoặc biết xả liền thành Bồ-đề. Cái độngkhông ngoài cái tịnh, dừng động tức là tịnh. Cái sángkhông ngoài cái tối, hết tối tức là sáng. Chúng ta cứ quenchạy tìm cái giác ở ngoài cái mê, tìm an vui ngoài đau khổ.Sự thật không phải thế, hết mê tức là giác, dứt khổtức là vui. Thiền sư Tư Nghiệp người Trung Hoa, khi chưa xuấtgia làm nghề hàng thịt. Một hôm mổ heo, bỗng dưng ông thứctỉnh, bỏ nghề đi xuất gia. Khi xuất gia, ông làm bài kệ:

Tạcnhật dạ-xoa tâm
KimtriêuBồ-tát diện
Bồ-tátdữDạ-xoa
Bấtcáchnhất điều tuyến.
Dịch:
Hômqua tâm dạ-xoa,
Ngàynaymặt Bồ-tát
Bồ-tátcùngDạ-xoa
Khôngcáchmột sợi chỉ.
Biếtdừng phiền não tức Bồ-đề, không phải nhọc nhằn tìmkiếm đâu xa. Bồ-đề đã sẵn có nơi mình, do phiền nãodấy khởi phủ che nên Bồ-đề bị ẩn khuất. Một khi phiềnnão lắng xuống thì Bồ-đề hiện tiền. Chúng ta ôm đầymột bụng phiền não chạy tìm Bồ-đề, dù chạy cùng ngànsông muôn núi tìm vẫn không thấy Bồ-đề. Chỉ khéo ngồiyên lại cho phiền não lắng xuống thì Bồ-đề hiện tiền.

Nhưkhitrời đổ mưa to, nước mưa từ hư không mưa xuống làtrong sạch, song rơi đến mặt đất lôi cuốn bụi bặm bùnđất chảy xuống ao hồ, thấy toàn nước đục. Có ngườic?n nước trong xài, ra ao hồ nhìn thấy toàn nước đục khôngbiết làm sao. Gặp người thông minh bảo: nước đục tứclà nước trong, anh ta ngẩn ngơ không hiểu, ông này bảo: Anhcứ gánh về đổ vào lu, lấy ít phèn quậy nhiều vòng chonước cuồn lộn lên, rồi để yên vài tiếng đồng hồ,cặn bụi lắng xuống nước sẽ trong. Anh chàng kia làm đúngnhư người thông minh dạy, kết quả anh được nước trong.

Bởivì nước mưa nguyên là trong, do bụi đất cuốn theo và hòatan trong nước nên trở thành đục. Kẻ khờ thấy nước đụckhác với nước trong, tưởng chừng như nước trong ngoài nướcđục mà có, nên khi cần nước trong thấy nước đục làthất vọng, không biết phải tìm nước trong ở đâu. Ngườitrí biết nước mưa vẫn trong, do bụi đất hòa lẫn nên đục,chỉ cần lóng bụi đất trở thành nước trong. Vì thế, khithấy nước đục, họ vẫn quả quyết nói "nước đục tứclà nước trong". Chữ tức ở đây để chỉ nước trong khôngcố định trong, do duyên hợp thành đục; nước đục khôngcố định đục, do duyên lóng thành trong. Nước đục khôngngoài nước trong mà có; nước trong không thể bỏ nước đụcmà tìm. Bồ-đề và phiền não cũng thế, phiền não khôngcố định phiền não, do duyên hợp thành phiền não, Bồ-đềkhông cố định Bồ-đề, do duyên lóng sạch thành Bồ-đề.Bồ-đề không ngoài phiền não mà có, phiền não không ngoàiBồ-đề mà sanh. Bỏ phiền não chạy tìm Bồ-đề như ngườilưới cá trên không, bẫy chim đáy biển, rốt cuộc chỉ phícông vô ích.

Nướcđục lóng thành nước trong, trẻ con thấy mới được nướctrong, người lớn biết nước trước nguyên trong, nay lóngtrở lại trạng thái cũ, có gì là "được". Nếu trước nướcvốn đục, nay lóng mấy cũng không trở thành trong. Cũng vậy,nếu tất cả chúng sanh không có sẵn tánh giác, dù có tu hànhđến đâu cũng không thể giác được. Chư Phật, Bồ-táttrước cũng là chúng sanh, các Ngài tu hành đã giác ngộ được,tất cả chúng ta nếu biết tu hành chắc chắn sẽ giác ngộnhư các Ngài. Vì thế, chư Phật thấy rõ tất cả chúng sanhđều có tánh giác, vì vô minh phiền não che đậy trở thànhmê, một khi khéo tu lóng sạch vô minh phiền não liền trởlại giác. Từ mê sang giác, chúng sanh tưởng là mới được,nên thấy có chứng có đắc. Chư Phật biết rõ chỉ trởlại tánh giác sẵn có, nên nói vô chứng vô đắc. Vô chứngvô đắc không có nghĩa là không ngơ, mà không còn mê, hằngsống lại tánh giác của mình. Cái đã sẵn có, trở lạivới nó có gì thêm bớt mà nói chứng đắc. Tuy không chứngđắc mà hằng giác chẳng mê, làm sao nói không ngơ được?

Biếttrong nước đục vốn là nước trong, nước đục khéo lóngsẽ thành nước trong, đó là cái thấy của người thông minh.Ðức Phật cũng thế, Ngài thấy tất cả chúng sanh đều sẵncó tánh giác, dù đang mê tánh giác cũng không mất, nên nói"ta thấy tất cả chúng sanh đã thành Phật". Lại có khi Ngàinói "Ta là Phật đã thành, các ông là Phật sẽ thành". Bởichúng ta đã sẵn tánh giác, một khi thức tỉnh huân tu tánhgiác sẽ hiển hiện, việc này không có gì là lạ. Câu Phậtnói trước có vẻ khó hiểu, đã thành Phật tại sao chúngsanh vẫn mê muội loạn cuồng. Bởi vì Phật cũng là mộtchúng sanh như chúng ta, Ngài khéo lóng vô minh phiền não chìmlặng trở thành giác ngộ. Nếu không có tánh giác sẵn, dùNgài tu đến muôn a-tăng-kỳ cũng không ngộ, nói gì ba a-tăng-kỳ.Thấy chúng sanh sẵn có tánh giác, nói "đã thành Phật" thìcó lỗi gì? Có sẵn tánh giác mà cứ quên, mải tạo nghiệpđi trong sanh tử luân hồi, càng luân hồi càng tạo nghiệp,nghiệp mê chồng chất nên thành mê muội loạn cuồng. Mộtphen thức tỉnh, dừng bước luân hồi, nghiệp mê băng hoại,mới tin "ta là Phật sẽ thành".

SANHTỬ TỨC NIẾT-BÀN

Chúngsanh mải trôi lăn, lặn hụp trong biển luân hồi sanh tử,dừng sanh tử được an lành là Niết-bàn. Sanh tử là khổđau. Niết-bàn là an lạc. Sự khổ đau an lạc dường nhưhai mà không phải hai. Như người đi trên vai gánh một gánhnặng đi xa, họ cảm nghe nhọc nhằn vô kể, để gánh nặngxuống nghỉ, họ cảm thấy nhẹ bổng an vui. Cái nhọc nhằnvà an vui người này cảm giác được, dường như hai mà khôngphải hai. Chẳng qua, khi gánh nặng còn đè trĩu trên vai làđau khổ, để gánh nặng xuống thì an vui. Do hết khổ gọilà vui, chớ không có cái vui từ đâu đem đến. Niết-bànvà sanh tử cũng thế, do hết sanh tử gọi là Niết-bàn, khôngcó Niết-bàn ngoài sanh tử.

Chúngsanh tạo nghiệp, lại do nghiệp dẫn chúng sanh loanh quanh lẩnquẩn, không có ngày cùng. Chúng ta vì sự sống tạo nghiệp,nghiệp lại dẫn chúng ta qua lại trong tam giới, lên xuốngtrong sáu đường, không biết bao giờ ra khỏi. Nếu khéo tudừng nghiệp thì bánh xe luân hồi sẽ theo đó mà dừng. Theonghiệp trôi lăn là sanh tử, dừng nghiệp lặng yên là Niết-bàn.Vì thế, cần được Niết-bàn, chúng ta phải dừng nghiệp.Có nhiều người tưởng Niết-bàn là một cảnh giới xa xôiđẹp đẽ như cảnh Cực Lạc chẳng hạn. Họ cố cầu xinPhật, Bồ-tát cho họ được Niết-bàn hoặc tìm minh sư đạtđạo nhờ truyền pháp hay điểm đạo cho họ được Niết-bàn.Họ không ngờ sạch nghiệp tức là Niết-bàn. Nghiệp lạido mình tạo, chỉ cần tìm ra động cơ chủ yếu tạo nghiệp,bắt nó dừng lại thì Niết-bàn hiện tiền. Tâm thức lăngxăng của chúng ta là chủ động tạo nghiệp, khéo tu dừnglặng nó thì Niết-bàn xuất hiện. Dừng ngắn thì đượcNiết-bàn ngắn, dừng lâu thì được Niết-bàn lâu, dừnghẳn thì được Niết-bàn viên mãn.

Sởdĩ có Niết-bàn là do đối với sanh tử mà lập, một khisanh tử dứt sạch thì Niết-bàn cũng không còn chỗ đứng.Kinh có câu "Niết-bàn sanh tử đồng như hoa đốm trong không".Ðã là hai danh từ đối đãi mà lập thì đều không thật.Không có sanh tử thì không có Niết-bàn; không có Niết-bànthì nói gì là sanh tử. Như không có khổ thì không có vui,không có vui thì làm sao biết khổ. Niết-bàn và sanh tử khôngriêng lập và không ngoài nhau, nên nói "Sanh tử tức Niết-bàn".

Sẽcó người bảo, sanh tử là do nghiệp dẫn là pháp sanh diệt,hư dối là phải, Niết-bàn là dứt sạch nghiệp là chân thật,tại sao lại nói hư dối? Quả thật Niết-bàn không hư dối,song danh từ Niết-bàn là hư dối. Thực thể Niết-bàn khôngcó hình dáng để diễn tả, không có ngôn ngữ để nói bàn,nó vượt ngoài pháp đối đãi thế gian. Ngôn ngữ chúng tasử dụng để diễn đạt tâm tư đều nằm trong đối đãikhông thật. Dù là ngôn ngữ Niết-bàn, cũng chỉ là lớp mâyphủ núi, chớ không phải là núi, đứng về núi mà nhìn thìnó là cái hư dối bên ngoài không đáng kể. Thế nên nói"như hoa đốm trong hư không" mà thực thể chẳng phải không.

THIỆNTỨC ÁC, ÁC TỨC THIỆN, PHẢI TỨC QUẤY, QUẤY TỨC PHẢI

Tacó thể nói rộng ra "thiện tức ác, ác tức thiện" hay "phảitức quấy, quấy tức phải"... chẳng hạn. Bởi vì, dù làviệc thiện mà chúng ta cố chấp liền trở thành ác. Ví nhưngười theo tôn giáo A tự thấy là hay là lợi ích, liền khuyênbà con thân quyến cùng theo với mình. Nếu những người thânkhông bằng lòng theo, tức thì sanh tâm giận ghét. Thế khôngphải chấp thiện thành ác là gì? Tuy là việc ác, chúng taý thức được liền bỏ là trở thành thiện. Như anh A nghetheo bạn bè làm việc trộm cắp, gặp người tốt nhắc nhởgiải thích cho A biết việc làm ấy là xấu xa, tội lỗi,A liền bỏ nghề trộm cắp. Quả thật ác biết bỏ liềntrở thành thiện.

Phảiquấy cũng không có tiêu chuẩn cố định, nếu ta chấp vàocái phải của mình liền trở thành quấy. Bao nhiêu việc cãivã chửi lộn đánh lộn đâu không phải do chấp phải màra. Có người nào sau khi đánh lộn, bị người hỏi, dám nhậnlà tôi quấy đâu. Mọi người đều thấy mình phải nên cóẩu đả. Ngược lại, người ý thức việc làm của mìnhlà quấy tự bỏ, liền trở thành phải. Những người lầmđường lạc lối, khi họ thức tỉnh xoay trở lại đườnglành liền trở thành người tốt. Mọi sự việc trong đốiđãi đều như thế cả, không có một sự việc gì là cốđịnh. Cái phải của A không phải là cái phải của B. Cáiphải của nhóm C không phải là cái phải của nhóm D. Cáiphải của xứ này không phải là cái phải của xứ khác.Cái phải của thời gian trước không phải là cái phải củathời gian sau. Thế thì, lấy đâu làm tiêu chuẩn mà chấpphải quấy! Chấp chặt phải quấy là ngu xuẩn là khổ đau.Biết buông xả linh động tùy thời là người khôn ngoan anổn.

CHỮTỨC ÐỐI TRONG VẠN VẬT

Tađi xa hơn ra ngoại giới, với mọi sự vật dùng chữ TỨCvẫn đúng lẽ thật. Như nói "thể lỏng tức là thể hơi"hoặc nói "thể hơi tức là thể lỏng". Nước là thể lỏngđun nóng bốc lên thành hơi, hơi nước lên cao gặp khí lạnhđọng lại rơi xuống thành nước thể lỏng. Cũng có thểnói "thể lỏng tức là thể cứng, thể cứng tức là thểlỏng". Nước là thể lỏng khi để vào tủ lạnh cô đọngthành nước đá thể cứng; nước đá đem để ngoài nắngtan thành nước thể lỏng. Ngoài nước ra, các loại chì, đồng,sắt..., từ thể cứng để vào lò nấu sức nóng lên đến1.000 độ C trở lên sẽ chảy thành thể lỏng, thể lỏngđó đem ra để nguội trở thành cứng... Vì thế, thấu hiểuchữ TỨC là thấy đúng lẽ thật, cũng là thấy tột cùnglý tùy duyên chuyển biến của các pháp. Môn hóa học hiệntại chứng minh sự vật không tự tồn tại, không có cá thểđộc lập, không giữ nguyên một vị trí. Một vật thể nàybị thay đổi chất liệu liền biến thành vật thể khác.Thế nên, con người có thể dùng các thứ nguyên liệu khoahọc đã tìm được, biến chế thành những sản phẩm hữuích cung ứng cho nhân loại cần dùng. Mọi vật thể kết hợpkhông phải đơn thuần, mà sự cấu tạo rất phức tạp. Biếtđược sự cấu tạo của vật thể, người ta sẽ tạo điềukiện biến nó thành những vật theo nhu cầu của mình. Sựbiến hóa đổi thay trong mỗi vật thể đã là bằng chứnghùng hồn về lý không cố định của sự vật. Thấy đượclý không cố định là thấy tột bản tánh của sự vật.Những nguyên tố hợp thành sự vật tuy nhiều song chẳng lắm,do sự kết hợp tăng giảm biến thành muôn vàn sự vật cóđủ thiên hình vạn trạng trên thế gian này. Quả là trongvật này có những nguyên tố của vật khác, trong vật kháccó những nguyên tố của vật này. Thế nên, nói "A tức B,B tức A" là đúng lẽ thật đâu có sai ngoa.

HIỆUDỤNG CHỮ "TỨC" TRONG SỰ TU HÀNH

Hiểurõ chữ TỨC có công hiệu rất lớn trong việc tu hành. A tứclà B, thì A không thật A, B tức là A thì B không thật B. Muônvật tùy duyên thay hình đổi dạng, có cái gì cố định màchấp. Bệnh lớn của con người là cố chấp, chấp càng nặngthì khổ càng nhiều. Mỗi người chấp theo cái thấy, cáinghe, cái sở học, cái suy nghĩ, cái tưởng tượng của mìnhhoặc của nhóm người thân mình, nếu người khác thấy đồngcái thấy của mình, nhóm mình thì thân; thấy khác cái thấycái chấp của mình, nhóm mình thì thù. Ðây là gốc đấutranh gây ra đau khổ cho nhân loại. Sự vật là một dòng biếnthiên, mà mình nhìn theo cái chấp cố định thì làm sao thấyđược lẽ thật, làm sao đem lại sự an bình. Con người khủngkhiếp hãi hùng khi nghe tin mình sắp chết. Sợ chết vì chấpthân là chắc thật lâu dài, bỗng dưng nó sắp tan hoại nênhoảng sợ. Sự nghiệp tài sản cũng chấp cố định bềnlâu, xảy ra tai nạn hỏa hoạn, binh đao, trộm cướp... khiếnphải tan hoại, người ta sẽ đau khổ vô hạn. Tình cảm bạnbè, thân hữu..., chấp mãi mãi không đổi thay; một khi gặpcảnh đổi thay, người ta sẽ thảm sầu vô kể.

Ngườinắm vững nguyên tắc "các pháp không cố định", mọi cốchấp trên từ từ tan rã, khổ đau, sầu thảm, hoảng sợ,hãi hùng dần dần tan biến theo mây khói. Thân sắp chết,sự nghiệp tan vỡ, bạn bè chia lìa... cũng là lẽ đươngnhiên trong dòng biến thiên của vạn vật. Chúng ta chưa canđảm cười trước cảnh ấy, song cũng can đảm nhìn chúngtrôi qua với tâm niệm an bình. Bởi người tu hành là huântập phát minh những lẽ thật ấy. Sở dĩ hiện nay có lắmngười tu khi gặp hoàn cảnh tang thương biến cố liền hoảngsợ bất an, do họ không phát minh những lẽ thật này. Họnghĩ rằng tụng kinh nhiều, niệm Phật lắm, cúng kính hậulà đầy đủ công phu tu hành. Tu bằng cách nhắm ra ngoài,chạy theo hình thức làm sao đạt được lẽ thật, mà làmsuy giảm khổ đau. Họ càng tu thì chấp càng nặng, chấp nặngthì đau khổ càng nhiều. Thế là, tu chỉ tăng khổ, chớ khônghết khổ.

A tứclà B, thì A không thật là A, B tức là A, thì B không thậtlà B, hai bên đều không cố định. Ðã không cố định thìlàm sao dám bảo là thật. Hai bên đều không thật thì khôngthể thành hai. Bởi không thể thành hai là tiến thẳng vào"Pháp môn bất nhị". Thấy vạn vật đối đãi không thật,còn gì để lý giải luận bàn. Vừa phát ra ngôn ngữ là nằmtrong đối đãi, đối đãi thuộc hai bên. Muốn chỉ chỗ cứukính của "Pháp môn bất nhị", ngài Duy-ma-cật chỉ còn cáchlên tòa ngồi lặng thinh. Chính thế mà Bồ-tát Văn-thù tánthán không tiếc lời.









Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
12/04/2023(Xem: 3633)
Tôi muốn chia sẻ về mối quan hệ tôn giáo và xã hội hiện đại. Vì bản tính tự nhiên, mỗi cá nhân đều có sự cảm nhận về tự ngã. Từ đó, mỗi cá nhân đều trải qua các hiện tượng mà họ nhận thức được bằng cảm giác thống khổ, cảm xúc vui sướng hay yên tĩnh. Đây là sự thật, không cần phải trình bày tỉ mỉ nữa. Động vật cũng thế. Vì bản tính tự nhiên, tất cả chúng ta đều muốn đạt được an lạc hạnh phúc, không muốn thống khổ và bất hạnh. Ta khỏi cần phải chứng minh điều này. Trên cơ sở này, chúng ta đàm luận về quyền của mọi người được hưởng cuộc sống an lạc hạnh phúc, quyền vượt qua mọi thống khổ.
22/03/2023(Xem: 3416)
Năm 2011, chuyên mục này đã đưa ra một số chủ đề lớn, từ những phương pháp hay nhất, dành cho tăng đoàn Phật giáo với khoa học công nghệ best practices with technology for sanghas, đến việc khám phá các mối quan hệ giữa sự thật khoa học thần kinh và Phật pháp relationship between truth, neuroscience, and the Dharma. Sau đó, chúng tôi đề cập đến tính hai mặt dưới góc nhìn khoa học thần kinh duality in light of neuroscience, và bắt đầu chỉ ra những lợi ích của việc xây dựng một lý thuyết khoa học về sự văn minh a scientific theory of enlightenment. Bởi thắc mắc này đang đưa ra những chủ đề mới dịp đầu xuân này, có lẽ tôi nên nhấn mạnh điều gì đó.
18/03/2023(Xem: 6232)
Tây phương Kinh tế học có thể bị chỉ trích bởi dựa trên sự hợp lý hóa hành vi cạnh tranh, tối đa hóa lợi nhuận vì lợi ích của một nhóm nhỏ, phụ thuộc vào sự cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên và sự suy thoái môi trường chung của chúng ta. Trong khi đó, Kinh tế học Phật giáo được hình thành dựa trên sự tương tác phụ thuộc lẫn nhau của con người và môi trường, do đó mang lại sự an lạc hạnh phúc dựa trên từ bi tâm đối với tất cả chúng sinh. Mục tiêu của nó là duy sự phát triển bền vững gắn liền bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu hiện nay, đồng thời khẳng định sự thịnh vượng chung và mang đến sự an lạc thịnh đạt cho người lao động, khách hàng, cổ đông và xã hội.
18/03/2023(Xem: 3601)
Công nghệ phát triển thay đổi cuộc sống con người, tuy nhiên sẽ thật ngây thơ khi tin rằng công nghệ chỉ mang lại lợi ích mà không phải trả giá. Một chủ đề lặp đi lặp lại trong lịch sử là sự ra đời của các công cụ và cơ bản công nghệ đổi mới, sẽ thay đổi cách chúng ta nhìn nhận bản thân và thế giới, cũng như trong đó có vai trò của chúng ta. Từ sự phát triển động cơ hơi nước, hàng không, xử lý máy tính và gần đây hơn là trí tuệ nhân tạo (AI), các công cụ và công nghệ đã cải thiện phúc lợi đáng kể và năng suất của con người nhưng không nhất thiết là phúc lợi của con người và các hệ sinh thái của thế giới.
03/02/2023(Xem: 5466)
Đã có rất nhiều tài liệu đề cập về Thiền bao gồm Thiền Định, Thiền Chỉ, Thiền Quán, Thiền Tọa, Thiền Hành, Thiền Phàm Phu, Thiền Ngoại Đạo, Thiền Tiểu Thừa, Thiền Trung Thừa, Thiền Đại Thừa, Thiền Tối Thượng Thừa...Tất cả đều là những sắc thái, tướng trạng, hiện tượng và tác động từ tâm thức chúng ta trong ý hướng tu tập trên đường giải thoát, giác ngộ Phật đạo. Sự giác ngộ giải thoát nơi Phật Đạo, tuy nhiên, lại quá phong phú, đa diện với sắc thái tâm thức rất sâu xa vi tế nên dù Phật tánh
31/01/2023(Xem: 6182)
Kinh Châu Báu, thuộc kinh điển Nam Truyền, Tiểu Bộ Kinh, là một bài kinh Hộ Trì hay Cầu An, do Đức Phật Thích Ca nói ra khi Ngài được thỉnh đến thành Vesali, dân chúng đang chịu ba thứ nạn, nạn dịch bệch, nạn đói và nạn Phi Nhân. Dân chúng ở đây cầu mong nhờ ân đức cao trọng của Đức Phật, nhờ Phật Lực mà các hoạn nạn được tiêu trừ.
07/01/2023(Xem: 5249)
Phương pháp phát triển cá nhân mà nhà sư Sangharakshita nói đến trong bài này là phép thiền định của Phật giáo, một phép luyện tập nhằm biến cải một con người bình dị trở thành một con người đạo đức, sáng suốt và cao quý hơn, và ở một cấp bậc sâu xa hơn nữa còn có thể giúp con người đạo đức, sáng suốt và cao quý ấy thoát ra khỏi thế giới hiện tượng luôn trong tình trạng chuyển động và khổ đau này.
23/12/2022(Xem: 13432)
Các video sau được sưu tập và biên tập sao cho mỗi video đều có mục lục chi tiết (ngoại trừ các bài giảng lẻ), kèm theo thời điểm lúc giảng các mục để người xem có thể dễ dàng theo dõi. Ngoài ra nếu vô tình nghe một đoạn bất kỳ cũng có thể biết được Sư bà đang giảng tới mục nào vì tên mục đó có ghi phía dưới màn hình.
14/12/2022(Xem: 2058)
Đạo đức và Luân lý chẳng những là nền tảng của mọi tôn giáo, mà còn là nền tảng của mọi xã hội loài người. Một xã hội sẽ không hoạt động hoặc phát triển nếu không có Đạo đức và Luân lý; nó sẽ không chịu nổi sự hỗn loạn và bạo lực. Đạo đức và Luân lý cũng đóng vai trò là hệ thống giá trị mà từ đó luật pháp và công lý được hình thành, cùng với các định nghĩa của chúng ta về đúng và sai. Một hệ thống Đạo đức và Luân lý không chỉ tạo ra hòa bình và trật tự trên thế giới này, nó còn cung cấp một mục đích trong cuộc sống. Sống có Đạo đức và Luân lý cho chúng ta cảm giác thành một ơn gọi cao hơn có thể mang bản chất tâm linh, cho phép chúng ta trải nghiệm sự siêu việt vượt qua những cám dỗ vật chất trần tục.
02/11/2022(Xem: 18108)
Đức Phật thuyết giảng giáo nghĩa Đại thừa vì tám lý do, được nêu lên ở trong bài kệ của Đại thừa trang nghiêm kinh luận: "Bất ký diệc đồng hành Bất hành diệc thành tựu Thể, phi thể, năng trị Văn dị bát nhân thành". Bài kệ này nêu lên tám lý do, tám bằng chứng kinh điển Đại thừa là do đức Phật nói chứ không phải là ai khác. Hàng Thanh văn không đủ khả năng để nói đến kinh điển Đại thừa. Hàng Duyên giác không có khả năng để nói đến kinh điển Đại thừa. Bồ tát cũng chưa đủ sự toàn giác để nói kinh điển Đại thừa. Còn đối với ngoại đạo thì đương nhiên không thể nói được một từ nào ở trong kinh điển Đại thừa. Có nhiều vị cố chấp, thiên kiến nói rằng kinh điển Đại thừa do ngoại đạo tuyên thuyết; nói như vậy là hồ đồ, không có luận cứ. Tu tập đến cỡ như hàng Thanh văn, hàng Duyên giác mà còn không nói được kinh điển Đại thừa thì làm gì cái đám ngoại đạo chấp ngã, chấp trước, chấp danh, chấp lợi mà nói được kinh điển Đại thừa. Cho nên nói kinh điển Đại thừa do ngoại đạo nói, đó
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567